Sách địa chí ở miền Nam Việt Nam (1954-1975)

Sách địa chí đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của

quốc gia cũng như của các địa phương. Những năm gần đây, việc biên soạn địa chí đã

được đẩy mạnh trong toàn quốc và bước đầu thu được những thành tựu nhất định. Chất

lượng các công trình địa chí hiện nay vẫn có những đánh giá khác nhau. Việc nhìn nhận

lại lịch sử phát triển của việc biên soạn địa chí nước ta trong quá khứ, nhất là những giai

đoạn hầu như chưa được nghiên cứu như giai đoạn 1954-1975 là rất cần thiết, để chúng ta

rút ra được những bài học bổ ích cho công việc hôm nay.

Bài viết này đề cập đến sách địa chí được biên soạn và xuất bản ở miền Nam Việt Nam

trong những năm 1954-1975 trên các mặt: tình hình xuất bản, thể loại, nội dung và cấu

trúc, tác giả.

pdf 9 trang kimcuc 7160
Bạn đang xem tài liệu "Sách địa chí ở miền Nam Việt Nam (1954-1975)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sách địa chí ở miền Nam Việt Nam (1954-1975)

Sách địa chí ở miền Nam Việt Nam (1954-1975)
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5 - Thaùng 01/2011 
 105 
SÁCH ĐỊA CHÍ Ở MIỀN NAM VIỆT NAM (1954-1975) 
 NGUYỄN THANH LỢI (*) 
TÓM TẮT 
Sách địa chí đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của 
quốc gia cũng như của các địa phương. Những năm gần đây, việc biên soạn địa chí đã 
được đẩy mạnh trong toàn quốc và bước đầu thu được những thành tựu nhất định. Chất 
lượng các công trình địa chí hiện nay vẫn có những đánh giá khác nhau. Việc nhìn nhận 
lại lịch sử phát triển của việc biên soạn địa chí nước ta trong quá khứ, nhất là những giai 
đoạn hầu như chưa được nghiên cứu như giai đoạn 1954-1975 là rất cần thiết, để chúng ta 
rút ra được những bài học bổ ích cho công việc hôm nay. 
Bài viết này đề cập đến sách địa chí được biên soạn và xuất bản ở miền Nam Việt Nam 
trong những năm 1954-1975 trên các mặt: tình hình xuất bản, thể loại, nội dung và cấu 
trúc, tác giả. 
ABSTRACT 
Geographical records play an important role in the economic, cultural, and social 
development of a country as well as its localities. Recently, the compilation of 
geographical books has been carried out nationwide, which has obtained some initial 
achievements. There are still different views about the quality of current geographical 
work. It is necessary to acknowledge the historical development of our country’s 
compilation of geographical books in the past, especially in the periods of 1954-1975 when 
there was no research on it, so that we can draw useful lessons for our present work. 
This writing deals with geographical records compiled and published in southern 
Vietnam in the periods of 1954-1975 related to authors, structures, contents, genres, and 
publishing situation. 
1. TÌNH HÌNH XUẤT BẢN SÁCH 
ĐỊA CHÍ (*) 
Có thể nói, những năm 1954-1975 là 
giai đoạn nở rộ của việc biên soạn sách 
địa chí ở miền Nam Việt Nam. Số lượng 
tác phẩm được biên soạn và xuất bản 
đứng đầu trong các thời kì, tính cho đến 
thời điểm 8-2008. Theo thống kê chưa 
đầy đủ của chúng tôi, đã có 64 tác phẩm 
được xuất bản, tạm chia thành 2 nhóm 
chính. 
Nhóm do các toà hành chính, toà thị 
chính của các địa phương biên soạn và 
(*)
 Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương 
TP.Hồ Chí Minh 
xuất bản, có 28 tác phẩm, cụ thể là (xếp theo 
thời gian xuất bản): 
Địa phương chí tỉnh Hà Tiên (Trần 
Thêm Trung, 1957), Địa chí quận Chợ Gạo 
(1958), Địa phương chí tỉnh Kiên Giang 
(1958), Địa phương chí tỉnh Phước Long 
(1960), Địa phương chí tỉnh Côn Sơn (1961), 
Địa phương chí tỉnh An Giang (1961, 1963), 
Địa phương chí tỉnh Phước Tuy (1961, 1965, 
1973), Địa phương chí tỉnh Biên Hòa (1963, 
1972, 1974), Địa phương chí tỉnh Phong 
Dinh (1964), Pleiku ngày nay (1964), Địa 
phương chí tỉnh Hậu Nghĩa (1965, 1966, 
1974), Địa phương chí tỉnh Bến Tre (1965), 
Địa phương chí tỉnh Bạc Liêu (1965, 1974), 
 106 
Địa phương chí tỉnh Vĩnh Long (1966, 
1969), Địa phương chí Đà Nẵng (Vũ 
Lang, Phan Uyên Trang, 1967), Địa 
phương chí tỉnh Châu Đốc (1968), Địa 
phương chí thị xã Vũng Tàu (1968, 
1971), Địa phương chí tỉnh Ba Xuyên 
(1971), Địa phương chí tỉnh Biên Hòa 
(Trương Văn Nam, 1971), Địa phương 
chí tỉnh Gia Định (1971), Địa phương chí 
thị xã Rạch Giá (1973), Địa phương chí 
tỉnh Gia Định (1973), Địa phương chí 
tỉnh Vĩnh Bình (1973), Địa phương chí 
Bình Long (1974), Địa phương chí tỉnh 
Bạc Liêu (1974), Địa phương chí tỉnh 
Kon Tum, Địa phương chí phường Xóm 
Củi - Quận 8 đô thành Sài Gòn (Cao Đức 
Thanh, Nguyễn Thị Vinh, 1968), Địa 
phương chí xã Châu Giang (người Việt 
gốc Chăm) 
Nhóm do các cá nhân biên soạn và 
xuất bản, có 36 tác phẩm. Trong đó, tác 
giả có 1 tác phẩm (21 tác giả), tác giả có 
từ 2 tác phẩm trở lên (3 tác giả với 15 tác 
phẩm). Cụ thể như sau: 
Đây Nha Trang 1957 (Võ Hữu Hạnh, 
1957), Phước Thành ngày nay (1959), 
Định Tường cửa ngõ miền Hậu Giang 
(Thân Trọng Cự, 1960), Cố đô Huế (Thái 
Văn Kiểm, 1960) (1), Non nước xứ 
Quảng (Phạm Trung Việt, 1962, 1965, 
1969, 1971, 1974) (2), Cao Lãnh đến 
năm 1954 (Trần Quang Hạo, 1963), 
Đông Ngạc tập biên (Phạm Văn Thuyết, 
1963), Tân Châu (1870-1964) (Nguyễn 
Văn Kiềm, 1966), Phong quang tỉnh 
Darlac (Hồ Văn Đàm, 1967), Chương 
Thiện ngày nay (1967), Non nước Quảng 
Nam (Hạ Ngọc Anh, 1969), Gò Công 
cảnh cũ người xưa (Việt Cúc, 1969, 2 
quyển) (3), Tỉnh Bến Tre trong lịch sử 
Việt Nam (Từ năm 1757 đến 1945) 
(Nguyễn Duy Oanh, 1971), Non nước 
Phước Long (Lưu Ty, 1972), Cà Mau xưa và 
An Xuyên nay (Nghê Văn Lương, 1972), Tân 
An ngày xưa (Đào Văn Hội, 1972), Biên Hòa 
sử lược (Lương Văn Lựu, 1972-1973, 2 tập), 
Đây! Quảng Nam (Vũ Lang, 1973), Ai có về 
Quy Nhơn (Trần Đình Thái, 1973), Hành 
Thiện xã chí (1974), Cần Thơ Phong Dinh 
chỉ nam (1974). 
Quách Tấn: Nước non Bình Định (1967) 
(4), Xứ Trầm hương (1969) (5). 
Nguyễn Đình Tư: Non nước Phú Yên 
(1965), Non nước Khánh Hòa (1969), Non 
nước Ninh Thuận (1974). (6) 
Huỳnh Minh: Kiến Hòa xưa và nay 
(1965), Gia Định xưa và nay (1965, 1973), 
Gò Công xưa và nay (1966), Cần Thơ xưa và 
nay (1966), Bạc Liêu xưa và nay (1966), 
Vĩnh Long xưa và nay (1967), Định Tường 
xưa và nay (1970), Vũng Tàu xưa và nay 
(1970), Sa Đéc xưa và nay (1971), Tây Ninh 
xưa và nay (1972). 
2. BIÊN SOẠN SÁCH ĐỊA CHÍ 
2.1. Thể loại 
Sách địa chí trong giai đoạn này đều 
được biên soạn theo thể loại địa chí tổng 
hợp, không thấy xuất hiện các thể loại địa 
chí chuyên ngành như địa chí văn hoá hoặc 
địa chí văn hoá dân gian như ở một loạt sách 
địa chí trong cả nước giai đoạn sau năm 
1985: Địa chí Vĩnh Phú (1986), Địa chí văn 
hoá thành phố Hồ Chí Minh (tập 1: 1987; tập 
2: 1988; tập 3: 1989) (7), Địa chí văn hoá 
dân gian Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội 
(1991), Địa chí văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh 
(1995), Địa chí văn hoá Hoằng Hoá (1995), 
Địa chí văn hoá quận Bình Thạnh (1995), 
Địa chí văn hoá quận 5 (2000), Địa chí văn 
hoá làng Mỹ Lợi (2000), Địa chí văn hoá 
miền biển Quảng Bình (2001), Địa chí văn 
hoá Yên Khánh (2002), Địa chí văn hoá dân 
gian Ninh Bình (2004) 
Điều này phản ánh nhu cầu của các địa 
 107 
phương trước mắt cần có sách địa chí ghi 
chép nhiều mặt của một địa phương, nên 
chọn thể loại địa chí tổng hợp và cũng 
thể hiện trình độ phát triển của địa chí 
chuyên ngành lúc bấy giờ (chưa đi sâu 
vào chuyên ngành). 
2.2. Nội dung và cấu trúc 
Cũng như các sách địa chí được biên 
soạn dưới thời phong kiến ở nước ta và 
cho đến tận nay, nội dung sách địa chí 
trong giai đoạn 1954-1975 về cơ bản 
được chia thành 4 phần lớn, phản ánh các 
mặt của địa phương trên các phương diện 
tự nhiên, lịch sử, kinh tế, văn hoá. Tuy 
nhiên, mỗi tác giả lại có cách phân chia 
chi tiết khác nhau. Sau đây, chúng tôi 
khảo sát qua 3 cuốn sách địa chí tiêu biểu 
cho mục đích biên soạn cũng như phong 
cách riêng của tác giả là 3 cuốn sách địa 
chí: Địa phương chí tỉnh Bạc Liêu, Non 
nước Khánh Hòa, Gia Định xưa và nay. 
Địa phương chí tỉnh Bạc Liêu (1974, 
63 trang khổ A4) 
- Phần thứ nhất: Sử lược và Diện tích 
(4 trang) 
 + Sử lược 
 + Di tích lịch sử 
 + Danh nhân 
 + Danh lam thắng cảnh 
- Phần thứ hai: Địa lí (6 trang) 
 + Vị trí - Địa giới - Diện tích 
 + Địa chất 
 + Núi đồi 
 + Sông ngòi 
 + Kinh đào 
 + Bờ biển 
 + Mực nước 
 + Đường sá 
 + Khí hậu và thời tiết 
 + Thảo mộc 
 + Thú rừng 
- Phần thứ ba: Nhân sinh (4 trang) 
 + Dân số và các sắc dân 
 + Sinh hoạt 
 + Thổ âm 
 + Phong tục 
 + Tín ngưỡng - Đạo giáo 
 + Văn hoá 
- Phần thứ tư: Tổ chức hành chánh 
(16 trang) 
 + Các đơn vị hành chánh 
 + Các ty chuyên môn 
- Phần thứ năm: Chánh trị (2 trang) 
+ Tình hình dân chúng 
+ Các đoàn thể chính trị 
- Phần thứ sáu: Tài chánh và kinh tế 
(8 trang) 
 + Ngân sách 
 + Tài nguyên 
 + Các tổ chức kinh tế 
 + Giao thông 
 + Thương mại 
 - Phần thứ bảy (9 trang) 
 + Giáo dục 
 + Y tế 
 + Lao động 
 + Xã hội 
- Phần thứ tám: Kết luận (10 trang) 
 + Công cuộc thực hiện các chương 
trình và kế hoạch của chánh phủ 
 + Triển vọng tương lai của tỉnh Bạc 
Liêu. 
Ở dạng địa phương chí do chính quyền 
biên soạn, do mục đích chính trị nhằm tạo ra 
“công cụ” quản lí địa phương, chỉ chú trọng 
vào những nội dung về tổ chức hành chính, 
quân sự, một số khía cạnh kinh tế. Ví dụ như 
ở cuốn Địa phương chí tỉnh Bạc Liêu chẳng 
hạn, phần Tổ chức hành chánh được dành tới 
16 trang để liệt kê các cơ quan chuyên môn 
ở địa phương. Đặc biệt, các bảng kê các đơn 
vị hành chánh được thể hiện rất chi tiết, tới 
tận đơn vị ấp với số dân kiểm soát được 
trong năm 1973. Sách còn có chương trình 
 108 
tổng kết bầu cử các xã trong tỉnh vào các 
năm 1971-1972-1973. Các nội dung về tự 
nhiên, lịch sử, văn hoá chỉ được nhắc đến 
một cách sơ sài. 
Các chuyên khảo (monographie) 
được biên soạn dưới thời Pháp thuộc 
trong khoảng thời gian 1900-1950 cũng ở 
trong tình trạng tương tự, tức chú trọng 
vào vấn đề khai thác tài nguyên của địa 
phương. Như trong Monographie de la 
province de Bà-Rịa et de la ville du cap 
Saint-Jacques (1902, 62 trang) có các 
chương: Địa lí tự nhiên (37 trang), Địa lí 
kinh tế (9 trang), Địa lí lịch sử và chính 
trị (2 trang), Thống kê và hành chính (2 
trang). Không phải ngẫu nhiên mà 
chương Địa lí tự nhiên được thể hiện đến 
37 trang, chiếm 59,67% dung lượng cuốn 
địa chí. Trong đó, địa hình, sông ngòi, 
đường giao thông được mô tả rất chi tiết; 
hơn cả những sách địa chí được biên soạn 
trong giai đoạn 1954-1975. 
Non nước Khánh Hòa (Nguyễn Đình 
Tư, Sông Lam xuất bản, Sài Gòn, 1969, 
415 trang) 
- Phần thứ nhất: Cảnh đẹp thiên 
nhiên (106 trang): 
 + Vị trí, diện tích, địa thế 
 + Địa chất 
 + Núi non 
 + Sông ngòi 
 + Bờ biển 
 + Khí hậu 
- Phần thứ hai: Tay người tô điểm 
(156 trang) 
 + Lịch sử 
 + Cổ tích 
 + Phong tục tập quán 
 + Nhân vật 
 + Hoạt động giáo dục 
- Phần thứ ba: Nguồn lợi kinh tế 
(148 trang) 
 + Tài nguyên 
 + Hoạt động nông nghiệp 
 + Hoạt động về chăn nuôi 
 + Hoạt động về khai thác hải sản 
 + Hoạt động về khai thác lâm sản 
 + Hoạt động về khai thác khoáng sản 
 + Hoạt động về ngư nghiệp 
 + Hoạt động về công kĩ nghệ và thủ 
công nghiệp 
 + Hoạt động thương mại 
 - Phần Phụ lục: 
 + Suối nước nóng Trường Xuân 
 + Nhà bác học Yersin 
 + Công cuộc hiện đại hoá quốc lộ 21 
 + Trạm dịch 
 + Thống kê đường sá tại tỉnh Khánh 
Hòa 
 + Thống kê các đơn vị hành chánh 
tỉnh Khánh Hòa và thị xã Cam Ranh 
 + Bảng kê các con đường tại thị xã 
Nha Trang 
 + Bảng thống kê về nền giáo dục bậc 
tiểu học tỉnh Khánh Hòa 
 + Bản bài chèo dùng để hát trong khi 
tế ông Nam Hải 
Cuốn địa chí này có cấu trúc hơi khác so 
với kiểu thông thường gồm 4 phần chính: địa 
lí, lịch sử, kinh tế, văn hoá. Phần Cảnh đẹp 
thiên nhiên đã đi sâu trình bày các đặc điểm 
tự nhiên một cách cặn kẽ, đầy đủ, giúp người 
đọc nắm vững thiên nhiên tươi đẹp của “xứ 
Trầm hương”. Tác giả còn đưa cả văn học 
dân gian, thơ văn để tạo sức hấp dẫn cho 
những trang viết. 
Phần Tay người tô điểm, Nguyễn Đình 
Tư mô tả qua diên cách, các di tích (Tháp Bà 
Poh Nagar, thành Diên Khánh, lăng Bà Vú), 
phong tục tập quán (tết nhà, tết giếng, tết 
trâu bò, lễ thượng nguyên, cầu an đầu năm, 
cúng ông Táo), nhân vật (Trịnh Phong, 
Trần Đương, Thích Quảng Đức) và hoạt 
động giáo dục của Khánh Hòa. Đây là sự kết 
 109 
hợp giữa phần văn hoá và một phần lịch 
sử trong các sách địa chí, mà trong đó 
phần lịch sử chỉ được thể hiện ở một vài 
khía cạnh (diên cách, nhân vật). Và đây 
cũng là những nội dung dễ thu hút bạn 
đọc nên tác giả chú ý dành số trang nhiều 
nhất trong các phần (148 trang). 
Phần Nguồn lợi kinh tế giới thiệu đầy 
đủ các ngành kinh tế của địa phương: 
nông nghiệp, lâm nghiệp, hải sản, khoáng 
sản, ngư nghiệp, công kĩ nghệ và thủ 
công nghiệp, thương nghiệp. Cách phân 
chia các mục trong phần này có kết cấu 
gần giống với phần kinh tế trong các sách 
địa chí hiện nay. Tuy nhiên, trong đó 
cách phân loại lĩnh vực vẫn còn trùng lắp, 
chưa khoa học như đã có nông nghiệp mà 
vẫn có chăn nuôi, có ngư nghiệp rồi lại 
có hải sản, khai thác khoáng sản có thể 
xếp chung với công kĩ nghệ. Hoặc khái 
niệm “hoạt động” khó có thể đặt trong 
“Nguồn lợi kinh tế”. 
Phụ lục là một sáng tạo trong cơ cấu 
biên soạn địa chí lúc bấy giờ (hiện nay đã 
rất phổ biến), giúp chuyển tải những 
thông tin không thể đặt ở các phần “chính 
văn”. 
Đến Non nước Khánh Hòa, nội dung 
và cấu trúc sách địa chí thuộc dạng này 
đã có những bước tiến đáng kể so với 
sách địa chí do các toà hành chính tổ 
chức biên soạn: lượng thông tin đa dạng, 
phong phú; chất lượng được nâng cao; 
cấu trúc hợp lí hơn. Lòng yêu quê hương 
đất nước cũng được các tác giả “phả 
hồn” vào từng trang viết, quyền chủ 
động biên soạn thuộc về quyền của tác 
giả, khác xa loại địa chí của chính quyền 
với những gò bó về khuôn khổ và cách 
thể hiện. Do vậy, mục đích của nó là 
cung cấp thông tin về địa phương, qua 
đó giáo dục tình yêu bản quán qua 
những trang sách địa chí. 
Gia Định xưa và nay (Huỳnh Minh, Tác 
giả xuất bản, Sài Gòn, 1973, 447 trang) 
- Phần thứ nhất: Lịch sử (24 trang) 
 + Sử lược qua các thời đại 
 + Địa lí, đất đai, sông rạch 
- Phần thứ hai: Di tích lịch sử (58 trang) 
- Phần thứ ba: Danh nhân lịch sử 
(77 trang) 
- Phần thứ tư: Huyền thoại, giai thoại, 
địa danh (56 trang) 
- Phần thứ năm: Sinh hoạt tôn giáo (96 
trang) 
- Phần thứ sáu: Các bộ môn văn hoá 
nghệ thuật, thể thao (35 trang) 
- Phần thứ bảy (82 trang) 
 + Gia Định ngày nay 
 + Các môn nghệ thuật nổi tiếng 
 + Các cơ quan quân sự 
 + Sản phẩm nổi tiếng tỉnh Gia Định 
 + Xã Tân Phú kiểu mẫu 
 + Bảng liệt kê diện tích các quận, xã, 
ấp và dân số 
Đến Gia Định xưa và nay, Huỳnh Minh 
- tác giả của 10 cuốn địa chí về Nam Bộ- đã 
có cách phân chia khác, bao gồm 7 phần, 
khác với kết cấu phổ biến gồm 4 phần chính 
của các sách địa chí. Các nội dung về lịch sử, 
diên cách được tác giả lồng ghép với nhau 
trong phần thứ nhất, bao gồm cả tự nhiên 
dưới tên gọi phần Lịch sử (24 trang). Danh 
nhân lịch sử được dành số trang tương đối 
nhiều với 77 trang, giới thiệu các danh nhân 
lịch sử (Gia Định tam hùng, Gia Định tam 
gia, Năm vị hổ tướng, các nhân vật thời 
Nguyễn trung hưng), những bậc tiết nghĩa từ 
cận đại cho đến hiện đại của vùng đất tụ hội 
nhiều dòng chảy lịch sử. 
Các nội dung về văn hoá được trình bày 
trong 245 trang: di tích, giai thoại, địa danh, 
tôn giáo (96 trang), văn hoá nghệ thuật, thể 
thaophản ảnh bề dày văn hoá của một địa 
 110 
phương so với các tỉnh khác ở miền Nam. 
Phần phụ lục được dành cho số trang 
thích ứng (82 trang), vừa đủ để chuyển 
tải các nội dung bổ sung cho “chính văn”. 
Trong cuốn sách địa chí này không 
thấy đề cập đến các nội dung kinh tế, chỉ 
có mục Sản phẩm nổi tiếng của tỉnh Gia 
Định nhưng lại trình bày dưới góc độ 
văn hoá. 
2.3. Tác giả 
Đối với những sách địa chí do chính 
quyền tổ chức biên soạn, gần như theo 
một công thức chung, với những khuôn 
mẫu đã định sẵn, do tính mục đích của nó. 
Trong khi đó, sách địa chí do các tác 
giả tự biên soạn và xuất bản (8), thường 
thể hiện tính sáng tạo của cá nhân thể 
hiện ở các mặt: nội dung phản ánh, dung 
lượng thông tin, cấu trúc, trình độ, quan 
điểm biên soạn 
Nước non Bình Định (1967), Xứ 
Trầm hương (1969) của Quách Tấn là 
những biên khảo giàu tính tư liệu, đồng 
thời là những trang văn đầy chất thơ, của 
một ngòi bút tài hoa, lịch lãm, thể hiện 
thế mạnh của một nhà văn sinh ra và lớn 
lên ở Bình Định nhưng hơn nửa đời lại 
gắn bó với Nha Trang. Các chương mục 
trong 2 cuốn địa chí này được phân chia 
gần giống với kết cấu mà các địa chí các 
tỉnh đã và đang biên soạn hiện nay. 
Phương pháp viết địa chí của nhà văn là 
“đi tới từng vùng một, tìm tòi xem xét, 
đem tài liệu thu thập được đối chiếu cùng 
thực tế trong thực tại khách quan” (9). 
Đây cũng là cách làm việc hết sức cẩn 
trọng của một cây bút có trách nhiệm 
trong việc thể hiện một thể loại đòi hỏi 
tính chính xác cao. Ông chọn cho mình 
cách tiếp cận từ góc độ văn hoá dân gian, 
cho nên có thể xếp 2 cuốn địa chí này vào 
dạng địa chí văn hoá dân gian cũng 
không sai tiêu chí. 
Nguyễn Đình Tư với bộ ba Non nước 
Phú Yên (1965), Non nước Khánh Hòa 
(1969), Non nước Ninh Thuận (1974) viết 
tương đối chắc tay, bố cục hợp lí đã phản 
ảnh nhứng ưu thế vốn có của một nhà nghiên 
cứu vốn xuất thân từ ngành địa chính, có vốn 
Nho học, thành thạo tiếng Pháp.Và những 
cuốn địa chí mà ông biên soạn thường liên 
quan đến những nơi ông đã công tác hoặc 
sống một thời gian dài, có điều kiện tìm hiểu 
phong thổ. Sau năm 1954, Nguyễn Đình Tư 
sống ở Nha Trang, làm việc ở tòa hành chính 
tỉnh Khánh Hòa. Năm 1962, làm việc ở Ty 
Điền địa Phú Yên và có 7 năm lăn lộn ở 
vùng đất này, để năm 1964 ông cho ra mắt 
bạn đọc cuốn địa chí đầu tay Non nước Phú 
Yên (Tiền Giang xuất bản, Sài Gòn, 1964). 
Sách được nhà văn Nguyễn Hiến Lê viết lời 
tựa với sự trân trọng. Ngoài những chuyên 
mục như các cuốn địa chí, còn có cả những 
thống kê mới nhất về thời tiết, giáo dục, 
phương ngữ của Phú Yên. Các phong tục tập 
quán, ca dao, bài vè, điệu hát trong dân gian 
được ông góp nhặt đưa vào trong sách. Tuy 
là sách địa chí nhưng lại có sức hấp dẫn, bởi 
ông vừa dẫn ta thăm cảnh, vừa giảng giải kết 
hợp với trình bày tư liệu. 
Huỳnh Minh với một loạt địa chí gồm 10 
cuốn viết về các tỉnh miền Nam, được xuất 
bản có chung tiêu đề “xưa và nay”, được in 
trong từ năm 1965 đến 1972 cho thấy sức lao 
động khỏe khoắn và một tấm lòng yêu đất 
nước mãnh liệt của người con đất Bến Tre 
trong thời buổi chiến tranh diễn ra ác liệt, 
hạn chế rất nhiều việc đi “sưu khảo”. Trong 
tác phẩm của mình ông đã tâm sự: “Tỉnh Gia 
Định là một tỉnh cổ kính nhất miền Nam còn 
lưu lại rất nhiều di tích lịch sử về nhân vật, 
địa danh và kiến trúc. Bao nhiêu di tích nhắc 
nhở cho chúng ta công trình của tiền nhân 
đã tốn biết bao mồ hôi xương máu để gây 
 111 
dựng nên cơ đồ mà ngày nay chúng ta 
tận hưởng”. (10) 
Những cuốn địa chí của ông cho đến 
nay vẫn còn giá trị nhất định trong việc 
tìm hiểu về các địa phương ở Nam Bộ 
(11). Điểm hạn chế trong các địa chí này 
là những tư liệu ông sưu tầm trong dân 
gian chưa được khảo chứng kĩ càng, một 
số tài liệu tham khảo chưa có độ tin cậy, 
biên soạn theo hướng nặng về văn hoá 
mà nhẹ về địa lí, lịch sử và ít chú trọng 
đến kinh tế. 
3. NHẬN XÉT 
- Số lượng sách địa chí biên soạn và 
xuất bản ở miền Nam Việt Nam trong 
giai đoạn này có số lượng vượt trội so với 
giai đoạn trước đó (1900-1954) (12) và 
cả giai đoạn sau này (1975-2005) (13), 
với trên 70 cuốn. Đã có 18/36 tên sách 
địa chí thuộc nhóm cá nhân biên soạn 
được tái bản sau năm 1975, với những 
tựa sách có giá trị của các tác giả địa chí 
có dấu ấn trong lòng bạn đọc. 
- Thể loại duy nhất vẫn là dạng địa 
chí tổng hợp, nó phản ánh đúng nhu cầu 
xã hội cũng như trình độ tác giả biên 
soạn, điều kiện thực hiện (kinh phí, tổ 
chức thực hiện, tài liệu) lúc bấy giờ. 
- Tác giả biên soạn phần lớn là các 
nhà văn, nhà nghiên cứu, những người 
nặng lòng với quê hương đất nước, với 
tinh thần “ôn cố tri tân” và công việc 
biên soạn của họ mang tính cá nhân với 
những quan điểm riêng. Trong đó nổi bật 
lên là các tác giả Quách Tấn, Nguyễn 
Đình Tư, Huỳnh Minh với số lượng lớn 
tác phẩm và có giá trị. Phương pháp biên 
soạn dần dần được định hình. Họ muốn 
qua đây, khơi dậy những truyền thống tốt 
đẹp của địa phương và góp phần giữ gìn 
bản sắc văn hoá của nó qua việc viết và đọc 
sách địa chí. 
- Trừ những sách địa chí do chính quyền 
biên soạn nhằm mục đích chính trị, giống 
với các sách địa chí do người Pháp biên soạn 
trong giai đoạn 1900-1940, số còn lại có nội 
dung tương đối phong phú; cấu trúc đi dần 
đến chỗ hợp lí, về cơ bản vẫn là 4 phần 
chính (tự nhiên, lịch sử, kinh tế, văn hoá), 
giống như mô hình biên soạn địa chí hiện 
nay; lượng thông tin khá dồi dào; phạm vi 
thể hiện chủ yếu là cấp tỉnh 
- Các công trình địa chí biên soạn sau 
năm 1975 với sự tham gia đông đảo của các 
tác giả thuộc các lĩnh vực khác nhau đã kế 
thừa rất nhiều các tài liệu trong giai đoạn 
1954-1975. Cả các nhà nghiên cứu thuộc các 
chuyên ngành như khảo cổ, sử học, dân tộc 
học, văn hoá học cũng đều tìm thấy trong 
đó những tài liệu bổ ích trong lĩnh vực riêng 
của mình về địa phương. 
- Nghiên cứu, lí luận, phê bình về địa chí 
chưa được chú ý đúng mức, gần như không 
có cây bút nào trên lĩnh vực này, mới chỉ là 
một số ý kiến của các nhà văn, nhà nghiên 
cứu trên báo chí qua việc “đọc” các sách địa 
chí. Đó là hạn chế đáng kể trong việc nâng 
cao chất lượng biên soạn các sách địa chí. 
- Cùng với quốc sử, sách địa chí là 
phương tiện hữu hiệu trong việc giáo dục 
tình yêu xứ sở, giúp người đọc nắm bắt được 
những bản sắc của một vùng đất. Đối với 
nhà nghiên cứu, đó là công cụ không thể 
thiếu được khi nghiên cứu về các địa 
phương, cả trên phương diện tự nhiên và xã 
hội. Với nhà quản lí, địa chí thực sự là cẩm 
nang bổ ích trong việc quản lí, điều hành ở 
địa phương trên các mặt công tác. Cho nên 
sách địa chí giai đoạn này, về cơ bản phục 
vụ rộng rãi mọi đối tượng. 
Chú thích: 
 112 
1. Năm 1994, Nhà xuất bản Đà Nẵng in lại cuốn này nhân dịp quần thể di tích Huế 
được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới vào ngày 11-12-1993. 
2. Do Phạm Trung Việt xuất bản lần đầu vào năm 1962 với tên gọi Non nước xứ 
Quảng. Năm 1965, sách được tái bản. Năm 1969, tác giả đã bổ sung, sửa chữa và 
ghi thêm hai chữ “tân biên” vào sau tên tác phẩm của mình. Năm 1971, sách được 
tác giả tái bản lần nữa, Khai Trí (Sài Gòn) phát hành, có sự bổ sung, sửa chữa, thêm 
phần giai thoại, văn học, hình ảnh mới. Năm 1974, Cẩm Thành thư xã (Quảng 
Ngãi) có cho tái bản một lần nữa. 
3. Năm 1999, Nhà xuất bản Trẻ (TP.Hồ Chí Minh) in lại cuốn địa chí này, gộp chung 
thành một cuốn, với sự chú giải và bổ sung của Sơn Nam. 
4. Năm 1999, Nhà xuất bản Thanh niên (Hà Nội) in lại tác phẩm này. 
5. Năm 1992, sách được in lại Nhà xuất bản Thông tin (Hà Nội) và Nhà xuất bản 
Tổng hợp Khánh Hòa, in lại có sửa chữa. Năm 2002, Xứ Trầm hương lại được Hội 
Văn học nghệ thuật Khánh Hòa tái bản lần thứ hai, có thêm phụ lục, trong đó có 
một số bài nhận xét về cuốn địa chí này của các tác giả. 
6. Trong 2 năm 2003-2004, Nhà xuất bản Thanh niên (Hà Nội) đã in lại 3 tác phẩm 
này. 
7. Bộ Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh được biên soạn lại và xuất bản 4 tập 
vào năm 1988. 
8. Nguyễn Văn Cần xếp các tác giả Nguyễn Thiệu Lâu, Phạm Long Điền, Sơn Nam, 
Vương Hồng Sển vào danh sách những người viết lịch sử, địa dư, văn hoá (Nguyễn 
Văn Cần, Sđd, tr.116). 
9. Quách Tấn, Nước non Bình Định, Nam Cường xuất bản, Sài Gòn, 1967, tr.8 (Lời 
thưa). 
10. Bùi Ngọc Diệp, Địa chí Nam Bộ dưới góc độ nghiên cứu văn hóa, Luận văn thạc sĩ 
văn hóa học, Trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, 
2006, tr.77. 
11. Từ năm 2001, 10 cuốn địa chí của Huỳnh Minh được Nhà xuất bản Thanh niên tổ 
chức in lại với tiêu đề “xưa” như Định Tường xưa, Vũng Tàu xưaViệc này đã 
đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về các địa phương ở miền Nam của đông đảo bạn đọc, cả 
trong và ngoài nước. Nhưng đồng thời Nhà xuất bản Thanh niên cũng làm một việc 
đáng trách là khi cho in lại một số sách địa chí của miền Nam trước năm 1975 
nhưng lại “đánh tráo” tên các tác giả như cuốn Tân Châu (1870-1964) của Nguyễn 
Văn Kiềm (Tác giả xb, Sài Gòn, 1966) bị đổi thành Tân Châu xưa (2003) và “dán” 
thêm Huỳnh Minh vào sau tên tác giả Nguyễn Văn Kiềm; cuốn Cà Mau xưa và An 
Xuyên nay của Nghê Văn Lương (Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục, Sài Gòn, 
1972), bỗng trở thành Cà Mau xưa (2003) và đồng tác giả của nó cũng là Huỳnh 
Minh; cuốn Non nước xứ Quảng tân biên của Phạm Trung Việt (Tác giả xb, Sài 
Gòn, 1969) được thay mới thành Non nước xứ Quảng tân biên (2003) và có thêm 
 113 
“người bạn đồng hành” vẫn là Huỳnh Minh! Năm 2005, Nhà xuất bản Thanh niên 
mới sửa sai bằng cách tái bản lại với tên gọi là Non nước xứ Quảng (Quảng Ngãi) 
(2 tập) và tác giả duy nhất là Phạm Trung Việt. 
12. Từ năm 1900-1940, với 3 đợt, có khoảng 20 cuốn sách địa chí bằng tiếng Pháp về 
các tỉnh Nam Kỳ được xuất bản. Trong đó, đợt 1 (1901-1911) có 13 cuốn về các 
tỉnh được xuất bản: Biên Hòa (1901, 58 trang), Hà Tiên (1901, 66 trang), Gia Định 
(1902, 126 trang), Mỹ Tho (1902, 98 trang), Bà Rịa và thành phố Cap Saint Jacques 
(1902, 60 trang), Châu Đốc (1902, 56 trang), Bến Tre (1903, 66 trang), Sa Đéc 
(1903, 32 trang), Trà Vinh (1903, 44 trang), Cần Thơ (1904, 38 trang), Sóc Trăng 
(1904, 82 trang), Long Xuyên (1905, 44 trang), Vĩnh Long (1911, 38 trang) và đảo 
Phú Quốc, tỉnh Hà Tiên (1906, 36 trang). (Nguyễn Nghị, Các chuyên khảo về Nam 
bộ đầu thế kỉ 20, Tạp chí Xưa và Nay, số 65B, 7-1999, tr.8). 
13. Theo thống kê của chúng tôi có khoảng 36 cuốn địa chí được xuất bản (Thư mục 
địa chí, Nguyễn Thanh Lợi, 2006) 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bùi Ngọc Diệp (2006). Địa chí Nam Bộ dưới góc độ nghiên cứu văn hoá, Luận văn 
thạc sĩ văn hoá học, Trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn thành phố Hồ 
Chí Minh. 
2. Cao Tự Thanh (2005), Nhìn lại tủ sách địa phương chí Nam Bộ, Tạp chí Xưa và 
Nay, số 232. 
3. Đặng Văn Thắng (2003), Tìm hiểu về địa chí, Tạp chí Xưa và Nay, số 154. 
4. Huỳnh Ngọc Trảng (2005), Đôi điều về việc biên soạn địa chí, Tạp chí Tia sáng, số 
1. 
5. Nguyễn Nghị (1999), Các chuyên khảo về Nam Bộ đầu thế kỉ 20, Tạp chí Xưa và 
Nay, số 65B. 
6. Nguyễn Phú Xuân (2006) Nguyễn Đình Tư - một tấm gương lao động bền bỉ, Tạp 
chí Thế giới mới, số 688. 
7. Nguyễn Thanh Lợi (2006), Biên soạn địa chí ở các tỉnh phía Nam từ sau năm 1975, 
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 7. 
8. Nguyễn Thanh Lợi (1994), Đọc sách Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh, Tạp 
chí Văn hoá nghệ thuật, số 11. 
9. Nguyễn Thanh Lợi (2004), Nhận xét từ góc nhìn cấu trúc một số công trình địa chí 
ở các tỉnh phía Nam được xuất bản gần đây, Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số 3. 
10. Nguyễn Thanh Lợi (2006), Thư mục địa chí, Bản thảo chưa xuất bản. 
11. Nguyễn Viết Trung (1993), Tấm lòng đã trải cùng non nước, Báo Khánh Hòa, 
xuân Quý Dậu 1993. 

File đính kèm:

  • pdfsach_dia_chi_o_mien_nam_viet_nam_1954_1975.pdf