Quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên và ý nghĩa của nó đối với việc giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay
Học thuyết triết học của Lão Tử có nội dung hết sức phong phú, bao gồm cả vấn đề bản thể luận, nhận
thức luận, đặc biệt là vấn đề phép biện chứng và các vấn đề đạo đức nhân sinh. Trong các tư tưởng triết
học của ông, không thể không nói đến quan niệm về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên.Theo
đó, Lão Tử đã nêu lên tư tưởng về sự thống nhất, hài hòa giữa con người và giới tự nhiên; về sự gìn giữ,
bảo vệ giới tự nhiên. Những quan niệm ấy có ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc trong việc ứng xử một
cách nhân văn đối với giới tự nhiên và trong việc giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay.
Bạn đang xem tài liệu "Quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên và ý nghĩa của nó đối với việc giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên và ý nghĩa của nó đối với việc giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 10 (35) - Thaùng 12/2015 72 Quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên và ý nghĩa của nó đối với việc giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay Lao-tzu’s ideas about the relationship between mankind and nature and its implication for solving current natural environment issues ThS. Nguyễn Huỳnh Bích Phương Trường Đại học Sư phạm TP.HCM M.A. Nguyen Huynh Bich Phuong Ho Chi Minh City University of Education Tóm tắt Học thuyết triết học của Lão Tử có nội dung hết sức phong phú, bao gồm cả vấn đề bản thể luận, nhận thức luận, đặc biệt là vấn đề phép biện chứng và các vấn đề đạo đức nhân sinh. Trong các tư tưởng triết học của ông, không thể không nói đến quan niệm về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên.Theo đó, Lão Tử đã nêu lên tư tưởng về sự thống nhất, hài hòa giữa con người và giới tự nhiên; về sự gìn giữ, bảo vệ giới tự nhiên. Những quan niệm ấy có ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc trong việc ứng xử một cách nhân văn đối với giới tự nhiên và trong việc giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay. Từ khóa: quan niệm, mối quan hệ, con người, tự nhiên, môi trường, thống nhất, hài hòa Abstract Lao-tzu’s philosophy is very rich. It discusses ontological, conceptual issues, especially those that are didactic and human moral issues. In his philosophical ideology, it is necessary to discuss the relationship between human and the nature. Accordingly, Lao-tzu has raised ideas about the unity and harmony between human and nature, about the conservation of the nature. Those concepts have insightful guidelines for a humane treatment of nature and help solve our current natural environment issues. Keywords: ideas, relationship, man, nature, environment, unity, harmony 1. Đặt vấn đề Ngày nay, thế giới của chúng ta đã có những thành tựu vĩ đại về khoa học và công nghệ mà nhờ đó, loài người đạt được sự tăng trưởng kinh tế không ngừng. Song thế giới cũng đang phải đối mặt với những vấn đề hết sức nghiêm trọng có tính toàn cầu. Một trong số đó là vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái và sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Tình trạng này đang đặt loài người trước sự “trả thù của giới tự nhiên”, – điều từ lâu đã được Ph. Ăngghen cảnh báo: “chúng ta không nên quá tự hào về những 73 thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên. Bởi vì cứ mỗi lần chúng ta đạt được một thắng lợi, là mỗi lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta. Thật thế, mỗi thắng lợi, trước hết là đem lại cho chúng ta những kết quả mà chúng ta hằng mong muốn, nhưng đến lượt thứ hai, lượt thứ ba, thì nó lại gây ra những tác dụng hoàn toàn khác hẳn, không lường trước được, những tác dụng thường hay phá hủy tất cả những kết quả đầu tiên đó”[1, tr. 654]. Chính vì vậy, con người phải tìm cách sống hòa nhập, hài hòa với tự nhiên, phải điều khiển có ý thức mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Bởi vì, “chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác”[1, tr. 655]. Lời cảnh báo ấy của Ph.Ăngghen cách đây trên 100 năm, nhưng đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Để hiểu rõ hơn quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, chúng ta cần phải trở về với lịch sử triết học. Trong đó, việc nghiên cứu quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn trong việc xác lập quan điểm và thái độ ứng xử của con người đối với tự nhiên. Triết học của Lão Tử như một kim tự tháp lớn trong triết học Trung Quốc. Cùng với Nho gia và Pháp gia, nó như cái bóng bao trùm và dẫn dắt các quá trình tư tưởng của Trung Hoa. Tư tưởng triết học của ông có sự ảnh hưởng sâu sắc đến truyền thống văn hóa của các dân tộc phương Đông, trong đó có dân tộc Việt Nam. Ông được coi là nhà tư tưởng “nửa huyền thoại” của thế giới, nhà biện chứng số một của nền triết học phương Đông. 2. Quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên Vấn đề mối quan hệ giữa con người và tự nhiên của Lão Tử thể hiện tập trung trong học thuyết “vô vi” của ông. Lão Tử là người đề xướng học thuyết “vô vi”, qua đó ông đã trình bày những quan điểm hết sức đặc sắc của mình về các vấn đề đạo đức nhân sinh, chính trị – xã hội, đặc biệt trong đó toát lên một vấn đề triết học của mọi thời đại, đó là mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Trong việc giải quyết mối quan hệ này, quan niệm của Lão Tử thể hiện ở hai nội dung cơ bản: Một là, sự thống nhất, hài hòa giữa con người và tự nhiên; hai là, sự giữ gìn, bảo vệ của con người đối với giới tự nhiên. a. Sự thống nhất, hài hòa giữa con người và tự nhiên “Vô vi” là một học thuyết triết học của người Trung Hoa cổ đại đã được Lão Tử nâng lên thành học thuyết về nghệ thuật sống của con người trong sự hòa nhập với tự nhiên. “Vô vi” theo nghĩa thông thường là “không làm gì”. Nhưng thực chất, theo Lão Tử cũng như theo cách hiểu của người Trung Hoa, danh từ “vô vi” không có nghĩa là không làm gì, mà là hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không có tính chất giả tạo, gò ép, trái với bản tính tự nhiên của mình, không làm trái với quy luật tự nhiên, không can thiệp vào guồng máy của tự nhiên, không thái quá và bất cập. Lão Tử 74 viết: “Đạo thường không làm gì mà không gì không làm. Vua chúa nếu giữ được đạo, muôn vật sẽ tự mình chuyển hóa Không ham muốn để được yên lặng, thiên hạ sẽ tự yên” (Đạo đức kinh, Chương 37). Ông cho rằng: “đạo đức là cái luật tự nhiên, không cần tranh mà thắng, không cần nói mà ứng nghiệm, không cần mời mà các vật vẫn theo về, lờ mờ mà hay mưu tính” (Đạo đức kinh, Chương 42). Nếu không thuận theo đạo tự nhiên, đem ý chí và dục vọng của con người cưỡng ép vạn vật tức là lấy cái nhân vi, giả tạo thay thế cho cái tự nhiên, là trái với “đạo vô vi”, tất nhiên sẽ thất bại. Cho nên, Lão Tử thường nói: “Lấy thiên hạ thường ở sự vô, nếu mà hữu sự không đủ lấy thiên hạ” (Đạo đức kinh, Chương 48). Do vậy, theo Lão Tử, chính con người cũng đồng nhất, thống nhất với “đạo”, tức là mang tính tự nhiên. Con người – Tự nhiên – “Đạo” là một thể thống nhất. Hay chính xác hơn, “đạo” chính là cơ sở của sự thống nhất, hài hòa giữa con người và tự nhiên. Con người, tự nhiên vừa nằm trong “đạo”, vừa thuộc về “đạo”, vừa tuân theo “đạo”. Như thế, quan niệm và nguyên lý hành động “vô vi” của Lão Tử – “đạo thường không làm, nhưng không gì không làm” – tương ứng với yêu cầu thừa nhận bản chất, quy luật của hiện thực khách quan, cũng như con người cần phải tôn trọng sự vận động, phát triển của bản thân hiện thực. Trên cơ sở đó, con người mới giữ được “đạo” và tuân theo “đạo tự nhiên”. Theo Lão Tử, toàn thể vũ trụ bị chi phối bởi hai quy luật phổ biến và cơ bản nhất là luật quân bình và luật phản phục. Luật quân bình luôn giữ cho vận động được thăng bằng, theo một trật tự điều hòa tự nhiên, không có cái gì thái quá, không có cái gì thiên lệch hay bất cập. Ông nói: “Cái gì khuyết ắt được tròn đầy, cái gì cong sẽ được thẳng, cái gì cũ thì mới lại, cái gì ít sẽ được, nhiều thì mất” (Đạo đức kinh, Chương 22). Đó chính là cái “đạo của trờichỗ cao thì ép xuống thấp, chỗ thấp thì nâng lên cao, có dư thì bớt đi, không đủ thì bù vào. Đạo của trời bớt chỗ dư bù chỗ thiếu” (Đạo đức kinh, Chương 42). Nếu vi phạm luật quân bình, phá vỡ trạng thái vận động cân bằng của vũ trụ, thì vạn vật sẽ rối loạn, trì trệ và có nguy cơ bị phá hoại. Cùng với luật quân bình, vạn vật còn tuân theo luật phản phục. Theo luật phản phục, cái gì phát triển đến tột đỉnh thì tất sẽ trở thành cái đối lập với nó. Lão Tử nói: “Vật hễ thêm nó, thì nó bớt; bớt nó, thì nó thêm” (Đạo đức kinh, Chương 42), và: “trong thiên hạ cái rất mềm thì làm chủ cái rất cứng”(Đạo đức kinh, Chương 43). Phản phục, theo Lão Tử có thể được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, phản phục có nghĩa là sự vận động có tính chất tuần hoàn, đều đặn, nhịp nhàng và tự nhiên của vạn vật. Như hết ngày lại đêm, hết đêm lại ngày; trăng tròn rồi lại khuyết, trăng khuyết rồi lại tròn. Đó là quy luật bất di bất dịch của tự nhiên.Thứ hai, phản phục còn có nghĩa là sự vận động trở về với “đạo” tự nhiên của vạn vật. Trở về với đạo tự nhiên vô vi là trở về với gốc rễ, cội nguồn của mình. Lão Tử viết: “Đến chỗ cùng cực hư không là giữ vững được trong cái tĩnh. Vạn vật cùng đều sinh ra, ta lại thấy nó trở về với gốc” (Đạo đức kinh, Chương 16). Sự trở về với “đạo” của vạn vật ở trạng thái nguyên sơ, tĩnh lặng, trống rỗng và tự nhiên được coi là tất yếu, nhờ đó vạn vật mới tồn tại, vận động, điều hòa và phát triển. Cho nên Lão Tử nói “đạo pháp tự nhiên” là vì vậy. Từ đó ông cho rằng, tất cả những chủ trương cố tình can thiệp vào cái trật tự tự nhiên thì nhất định sẽ bị thất bại: 75 “Nếu trời không trong sẽ vỡ. Đất không yên sẽ lở. Hang không đầy sẽ cạn. Vạn vật không sống sẽ dứt” (Đạo đức kinh, Chương 39). “Vô vi” còn có nghĩa là không làm mất cái đức tự nhiên, thuần phác vốn có của vạn vật, không dục vọng, không ham muốn những gì trái với bản tính tự nhiên của mình và của vạn vật. Nếu để mất đức tự nhiên, ham muốn những gì trái với bản tính tự nhiên của mình, cố thỏa mãn những dục vọng đó, dẫn tới sự can thiệp vào guồng máy tự nhiên sẽ mang lại những tai họa: “Ngũ sắc làm cho mắt mờ, ngũ âm làm cho tai điếc, ngũ vị làm cho miệng chán, cưỡi ngựa săn bắn làm cho lòng phát cuồng, vật khó khiến làm cho lòng tà vậy” (Đạo đức kinh, Chương 12). Đối với Lão Tử, vạn vật đều có bản tính tự nhiên của mình, chúng tồn tại, vận động, biến hóa theo lẽ tự nhiên, không cần biết đến ý nghĩa, mục đích của bản thân chúng, như cá bản thân nó là bơi lội dưới nước, chim là bay trên trời. Nghĩa là sống với cái vốn có tự nhiên, mộc mạc, thuần phác của mình, không trái với quy luật của tự nhiên, không can thiệp vào quá trình vận hành của các vật khác, biết chấp nhận và thích ứng với mọi hoàn cảnh, môi trường. Có thể nói rằng, Lão Tử cố gắng tìm ra quy luật khách quan trong sự biến hóa của vạn vật, hướng mọi người hành động theo quy luật tự nhiên. Nhưng ông cho rằng, con người chỉ thích ứng với quy luật tự nhiên một cách bị động, đứng trước tự nhiên con người không cần làm gì cả.Như vậy, ông đã dẫn người ta đến chỗ không cần phải tích cực đấu tranh, cải tạo tự nhiên. Như vậy, theo Lão Tử, tự nhiên là khách thể, khác với chủ thể con người, con người chỉ có thể theo nó chứ không thể ngược lại được. Ở phương diện này, Lão Tử đã hạ thấp tính năng động chủ quan của con người, con người không nên can thiệp vào giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên; mà trái lại, con người phải phục tùng giới tự nhiên, chịu khuất phục trước tự nhiên. Thực chất của quan niệm này là ở chỗ: “Người phỏng theo lẽ của đất, đất phỏng theo lẽ của trời, trời phỏng theo lẽ của đạo, đạo phỏng theo lẽ của tự nhiên” (Đạo đức kinh, Chương 25). Sở dĩ như vậy, bởi vì, theo Lão Tử, đạo chính là quy luật, quy luật đó không phải cái gì khác mà chính là lẽ tự nhiên. Bản thân lẽ tự nhiên là chuẩn mực, con người chỉ cần noi theo nó là đủ, chứ không cần phải làm gì khác ngoài tự nhiên. Do vậy, con người và loài người không cần phải phát triển đi đâu xa cả, mà chính là cần trở về với cái nguyên sơ của nó, trở về với tự nhiên. Song, cũng cần phải thấy rằng, thời Lão Tử sống là thời người ta chỉ biết tàn phá tự nhiên, biết chiến tranh liên miên đẫm máu để tranh giành ngôi báu, chỉ biết đặt ra những phép tắc phi nhân, vị kỷ. Do vậy , trong quan niệm của ông về sự hài hòa, thống nhất với tự nhiên đã lóe lên một tia sáng lấp lánh của tư tưởng thiết tha với sự bảo tồn và phát triển của giới tự nhiên. b. Sự giữ gìn, bảo vệ của con người đối với giới tự nhiên “Vô vi” cũng còn có ý nghĩa là bảo vệ, giữ gìn bản tính tự nhiên của mình và của vạn vật.Lão Tử chủ trương ngăn chặn, bài trừ những gì làm tổn hại đến bản tính tự nhiên của vạn vật, mà trước hết là chống lại sự xâm hại của con người và xã hội đối với giới tự nhiên. Ông nói: “Ta có ba của báu hằng nắm giữ và bảo vệ: một là từ ái, hai là tiết kiệm và ba là không dám đứng trước thiên hạ” (Đạo đức kinh, Chương 67). Vì từ ái cho nên không cưỡng ép vật, vì tiết kiệm cho nên không thái quá, không 76 trái với đạo tự nhiên và vì không dám đứng trước thiên hạ cho nên tự nhiên, thuần phác, không trái với tạo hóa, không áp chế nhau, không ai lấy không ai bỏ, không ai hơn không ai kém. Từ đó, Lão Tử phản đối mọi chủ trương “hữu vi”, bởi vì “hữu vi” chỉ khiến cho con người làm xáo trộn mọi trật tự của tự nhiên, con người bị ràng buộc bởi những danh vọng, ham muốn và mất đi bản tính tự nhiên của chính mình. Lão Tử viết: “Thánh nhân thường khéo cứu người nên không có người bỏ đi, thường khéo cứu vật nên không có vật bỏ đi” (Đạo đức kinh, Chương 44). Cho nên: “Thánh nhân bỏ nhiều, bỏ thừa, bỏ quá” (Đạo đức kinh, Chương 29). Từ quan điểm “vô vi”, Lão Tử đã rút ra những đức tính trong nghệ thuật sống của con người là: từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan dung, tri túc và kiến vi. Nhờ đó, con người luôn giữ được sự đồng nhất, hài hòa, chất phác với “đạo” tự nhiên, con người hòa mình vào khoảng không, nhưng lại biết dành cho người khác một chỗ mà không làm mất chỗ của mình. Đã là con người thì cần phải biết giảm ánh sáng của mình để có thể đắm mình vào bóng tối của kẻ khác. Trong học thuyết “vô vi”, Lão Tử còn cho rằng, “vô vi” không chỉ là sống một cách tự nhiên, thuần phác, không ham muốn dục vọng mà không cần đến cả tri thức, văn hóa, kỹ thuật và cả sự tiến bộ xã hội. Ông nói: “Trí tuệ sinh thì có đại ngụy” (Đạo đức kinh, Chương 18). Bởi theo ông, hiểu biết càng nhiều thì trí xảo càng nhiều, trí xảo càng nhiều càng ham muốn, tranh đoạt, chiếm đoạt, xâm phạm lẫn nhau, trái với đạo tự nhiên. Vì vậy: “ Theo học thì càng thêm phiền phức, mà theo đạo thì ngày càng bớt, bớt rồi thì lại bớt, bớt đến mức vô vi” (Đạo đức kinh, Chương 48). Cho nên, tốt nhất người ta hãy: “bỏ hẳn cái học đi thì không lo lắng gì cả, hiện ra cái nõn nà, ôm lấy cái chất phác, ít lòng tư, bớt lòng dục” (Đạo đức kinh, Chương 20). Quan điểm về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên còn được thể hiện khi Lão Tử chủ trương trị nước bằng đạo “vô vi”, tức là trả bản chất con người về cho giới tự nhiên, không được trái với tạo hóa, phải gạt bỏ hết những gì trái với tự nhiên, trái với bản chất tự nhiên của con người, vượt quá bản tính, khả năng, nhu cầu tự nhiên, cần thiết của con người. Con người cần phải trở về với trạng thái tự nhiên, nguyên thủy, chất phác, không ham muốn, không dục vọng, không lễ giáo, không thể chế, không pháp luật, không bị ràng buộc bởi truyền thống đạo đức, văn hóa, không cần tri thức, trí xảo, văn hóa, kỹ thuật, mà theo bản tính, khả năng sở thích tự nhiên, mọi người tự làm những việc mà mỗi người cần phải làm một cách tự nhiên. Lão Tử nói: “Thiên hạ nhiều kỵ húy thì dân càng nghèo, dân nhiều khí giới nhà nước càng loạn, người nhiều tài khéo vật xảo càng thêm, pháp luật càng tăng trộm cướp càng nhiều” (Đạo đức kinh, Chương 57). Cho nên phải “dứt thánh, bỏ trí dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa dân quay về lòng hiếu thảo và tự ái; dứt kỹ xảo, bỏ lợi trộm cướp không còn” (Đạo đức kinh, Chương 19). Kết quả là: “Không chuộng hiền khiến dân không tranh, không trọng vật nên dân không trộm cướp, không thấy vật đáng ham khiến lòng dân khỏi loạn. Cho nên lối trị dân của bậc thánh nhân là làm cho dân lòng trống, bụng no, ý chí yếu, xương cốt mạnh, thường khiến dân không biết, không muốn” (Đạo đức kinh, Chương 3). Hơn nữa, Lão Tử còn chủ trương đưa đức tính con người trở lại với thời kỳ trẻ thơ, hồn nhiên, chân chất, vô dục. Ông nói: 77 “Không xa đức trở lại thời kỳ trẻ thơ”. Ông chủ trương “không làm cho dân sáng mà làm cho dân ngu” (Đạo đức kinh, Chương 65). Dân không sáng mà dân ngu ở đây, theo Lão Tử, không hàm nghĩa là sự ngu dốt, tối tăm, mà là đức tính chất phác, giản dị, tự nhiên, vô tội. Người lý tưởng trở về với đạo tự nhiên “vô vi”, theo Lão Tử, là người mà “người đời sáng chói, riêng ta lù mù; người đời rạch ròi, riêng ta hỗn độn Người đời đều có chỗ dùng, riêng ta ngu dốt, thô lậu” (Đạo đức kinh, Chương 20). Cái lù mù, ngu dốt, hỗn độn, thô lậu của Lão Tử chính là cái thấu suốt mọi lẽ của tự nhiên mà sống hòa vào tự nhiên, theo đúng bản tính quy luật của nó, không tự mãn, không tự phụ, không xáo động, không phô trương, không thái quá, không bất cập. Cái ngu đó của ông là bậc “thượng trí”. Trong học thuyết “vô vi”, Lão Tử mơ ước trở lại đời sống chất phác của thời đại công xã nguyên thủy, không thể chế, không pháp luật, không có chế độ tư hữu và trao đổi hàng hóa, sống tự cấp tự túc. Đó là cảnh mộc mạc, sống hòa vào tự nhiên, thống nhất với tự nhiên, như đạo vô danh của ông. Theo đó: “Nước nhỏ, dân ít. Dù có khí cụ gấp trăm gấp chục sức người cũng không dùng đến. Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi đâu xa. Có xe thuyền mà không ai ngồi. Có gươm giáo mà không bao giờ dùng. Bỏ văn tự, bắt người ta trở lại dùng lối thắt dây ghi dấu thời thượng cổ. Ai nấy đều chăm chú vào việc ăn no, mặc ấm, ở yên, vui với phong tục của mình. Ở nước này có thể nghe thấy tiếng gà gáy chó sủa của nước kia, nhân dân trong những nước ấy đến già chết mà vẫn không qua lại lẫn nhau” (Đạo đức kinh, Chương 80). Với quan niệm này, một mặt, nó có giá trị to lớn và sâu sắc, khi nó khuyên con người cần phải sống hài hòa với tự nhiên, tuân theo các quy luật của tự nhiên, sống một cách thanh tao, không ham muốn, không vụ lợi; sống một cách thanh thản, không suy tính, không ganh đua, không thủ đoạn theo đúng với quy luật của tự nhiên và phù hợp với bản tính tự nhiên của mình. Với cách hiểu ấy, con người có được một hệ thống giá trị tinh thần sâu sắc, góp phần tạo nên sự ổn định xã hội. Nhưng mặt khác, quan niệm ấy không thấy được tầm quan trọng của tri thức, kỹ thuật của con người trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, nó thủ tiêu khả năng nhận thức của con người về bản chất và các quy luật của tự nhiên. Do vậy, nó phủ nhận vấn đề chinh phục giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên vì cuộc sống của con người; nó làm cho con người ta an phận, trì trệ, không cầu tiến và thờ ơ lãnh đạm trước cuộc đời. Chính vì thế, quan niệm ấy kìm hãm sự phát triển xã hội. Hơn nữa, trong xã hội có giai cấp mà lại phủ nhận mọi truyền thống đạo đức, luân lý, chính trị, pháp luật, văn hóa,, có nghĩa là, rút cuộc, quan niệm ấy đã kéo thụt lùi lịch sử, nó muốn đưa xã hội trở về thời kỳ nguyên thủy. Như vậy, dưới góc độ này, quan niệm “vô vi”của Lão Tử mang tính chất ảo tưởng và bộc lộ rõ nét những hạn chế về mặt lịch sử. Mặc dù vậy, quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc ứng xử một cách nhân văn đối với giới tự nhiên và giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay. 3. Ý nghĩa của quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên đối với việc giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay Tư tưởng về sự thống nhất, hài hòa với tự nhiên; về sự gìn giữ, bảo vệ giới tự 78 nhiên mà Lão Tử nêu ra vẫn có ý nghĩa sâu sắc đối với cuộc sống đương đại. Ngày nay, môi trường tự nhiên thường được gọi là môi trường sinh thái. Vấn đề môi trường sinh thái là một trong những vấn đề toàn cầu cấp bách và khó giải quyết trong thời đại ngày nay. Nghiên cứu quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên, chúng ta có thể rút ra những bài học sau đây: Thứ nhất,con người không nên quá tự hào về những thành quả của mình trong việc chinh phục giới tự nhiên. Trong thời đại ngày nay con người dùng khoa học, kỹ thuật và công nghệ để khai thác và biến đổi giới tự nhiên, đồng thời cũng đã làm nảy sinh mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên, làm kiệt quệ tài nguyên, thiên nhiên, đặt loài người trước sự “trả thù của giới tự nhiên”. Nhưng cũng chỉ bằng cách dùng khoa học, kỹ thuật và công nghệ, con người mới quay trở về với cội nguồn của mình là giới tự nhiên. Vì vậy, con người phải sống hài hòa thực sự với tự nhiên trong một môi trường sống mới – trí tuệ quyển, trên cơ sở hiểu biết sâu sắc các quy luật của tự nhiên và điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ mật thiết giữa con người và tự nhiên. Hai là, con người phải thực hiện nguyên tắc đồng tiến hóa giữa con người và tự nhiên Phương thức sống hài hòa với tự nhiên, thích nghi với sự vận động của tự nhiên để giữ trạng thái cân bằng của cả phức hợp hệ thống “con người – xã hội – tự nhiên” nhằm đảm bảo tính cân bằng, tính tự tổ chức, tự điều khiển, tự bảo vệ của sinh quyển, bảo đảm tính thống nhất giữa con người, xã hội và tự nhiên, đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững hiện nay. Bởi vậy, con người cần phải sống hòa nhập, hài hòa, thống nhất với tự nhiên, coi việc quay trở về với tự nhiên sẽ mang lại một hệ thống các giá trị tinh thần quý báu cho đời sống con người. Ba là, cần phải khai thác một cách hợp lý giới tự nhiên phục vụ đời sống con người. Việc bảo vệ môi trường tự nhiên không có nghĩa là con người phải ngừng tác động vào tự nhiên, hay tạm ngừng tăng trưởng và phát triển để giữ cân bằng sinh thái cho cả phức hợp hệ thống “tự nhiên – con người – xã hội”. Triết học chỉ ra rằng, điều kiện tự nhiên đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển xã hội, nhưng phải được khai thác một cách hợp lý, vận dụng chúng một cách chính xác. Cụ thể là, con người cần phải thay đổi phương thức hoạt động thực tiễn, không chỉ vì lợi ích vật chất mà còn vì lợi ích tinh thần, không chỉ vì thế hệ hôm nay mà cả vì thế hệ ngày mai. Muốn vậy, con người cần phải nắm vững các quy luật của tự nhiên và vận dụng các quy luật đó một cách phù hợp vào trong hoạt động thực tiễn của mình, trước hết là vào quá trình sản xuất xã hội. Bốn là, phát triển con người nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Mặc dù nhân tố tự nhiên đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội, nhưng chúng chỉ là những nhân tố thụ động, còn con người mới là tác nhân tích cực. Do vậy, phải có cơ chế, chính sách, biện pháp phát triển con người một cách phù hợp mới là nhân tố quyết định sự phát triển năng động và bền vững. Không phải ngẫu nhiên, Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã khẳng định, cần phải xây dựng và phát triển nền văn hóa và con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Trong đó, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng 79 và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường;” [2, tr. 50]. 4. Kết luận Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều triết gia, nhiều trường phái. Đặc biệt, quan niệm mà Lão Tử đã đặt ra cách đây trên hai ngàn năm khi giải quyết mối quan hệ giữa con người và tự nhiên không chỉ có ý nghĩa đối với thời đại lúc bấy giờ, mà ngay cả trong cuộc sống đương đại hiện nay. Quan niệm của ông đã để lại những giá trị gợi mở, có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc giải quyết vấn đề môi trường sinh thái hiện nay. Chỉ trên cơ sở thống nhất, hòa nhập, hài hòa giữa con người và tự nhiên, điều khiển có ý thức mối quan hệ ấy thì xã hội hiện đại mới có được một sự phát triển nhanh và bền vững. Vấn đề môi trường tự nhiên, vấn đề quan hệ giữa con người và tự nhiên hiện nay không đơn giản chỉ là vấn đề thuần túy khoa học hay kinh tế – kỹ thuật, nó còn là vấn đề tư tưởng chính trị. Do vậy, các khoa học xã hội, đặc biệt là triết học có vai trò phương pháp luận quan trọng trong việc làm rõ trách nhiệm của con người trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên không chỉ liên quan đến thế hệ hôm nay mà cả các thế hệ mai sau. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t. 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 3. Lão Tử (2008), Đạo đức kinh, Nxb Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh. Ngày nhận bài: 18/11/2015 Biên tập xong: 15/12/2015 Duyệt đăng: 20/12/2015
File đính kèm:
- quan_niem_cua_lao_tu_ve_moi_quan_he_con_nguoi_tu_nhien_va_y.pdf