Quan điểm của đảng về phát triển kinh tế biển trong thời kỳ đổi mới

Kinh tế biển là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, có đóng góp quan trọng vào chiến lược phát triển

kinh tế quốc gia. Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận

thức được vai trò quan trọng của kinh tế biển đối với tổng thể kinh tế cả nước, gắn với bảo vệ chủ quyền

an ninh quốc gia, đặc biệt thời kì đổi mới toàn diện đất nước. Để khái quát một cách có hệ thống quan

điểm của Đảng về phát triển kinh tế biển trong thời kì đổi mới, bài viết đã phân tích: Quan điểm của

Đảng về phát triển kinh tế biển qua một số nghị quyết trong thời kì đổi mới. Trên cơ sở đó, bài viết cũng

đề cập đến một số giải pháp phát triển bền vững kinh tế biển ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

pdf 7 trang kimcuc 15120
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm của đảng về phát triển kinh tế biển trong thời kỳ đổi mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm của đảng về phát triển kinh tế biển trong thời kỳ đổi mới

Quan điểm của đảng về phát triển kinh tế biển trong thời kỳ đổi mới
MỤC LỤC 
Chỉ số ISSN: 2525 – 2569 Số 09, tháng 3 năm 2019 
Chuyên mục: THÔNG TIN & TRAO ĐỔI 
Nguyễn Mạnh Chủng - Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế biển trong thời kỳ đổi mới ............... 2 
Trịnh Hữu Hùng, Dƣơng Thanh Tình - Chi sự nghiệp môi trường tại tỉnh Bắc Ninh ........................... 8 
Chuyên mục: KINH TẾ & QUẢN LÝ 
Bùi Thị Tuyết Nhung, Nông Thị Minh Ngọc - Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của người dân đối 
với dịch vụ hành chính công cấp huyện - Mô hình nghiên cứu cụ thể tại huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ ....... 15 
Nguyễn Thị Gấm, Tạ Thị Thanh Huyền, Lƣơng Thị A Lúa, Lê Thu Hà - Vai trò của phụ nữ dân tộc 
Tày ở huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn trong các quyết định của hộ.................................................................20 
Nguyễn Bích Hồng, Phạm Thị Hồng - Hiệu quả kinh tế của sản xuất hồng không hạt theo tiêu chuẩn 
VietGap tại huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn ................................................................................................... 26 
Phạm Thị Mai Hƣơng, Nguyễn Thành Vũ - Ảnh hưởng của đặc điểm hộ đến chuyển dịch lao động 
nông thôn nghiên cứu điển hình tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên ..................................................... 35 
Nguyễn Ngọc Hoa, Lê Thị Thu Huyền - Ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới bất bình đẳng 
thu nhập nông thôn - Thành thị tại Việt Nam ........................................................................................... 42 
Chuyên mục: QUẢN TRỊ KINH DOANH & MARKETING 
Đoàn Mạnh Hồng, Phạm Thị Ngà - Nghiên cứu sự hài lòng của sinh viên Đại học Thái Nguyên về 
dịch vụ h tr ............................................................................................................................................ 48 
Đàm Thanh Thủy, Mai Thanh Giang - Thực trạng lao động tại các doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh 
Thái Nguyên ............................................................................................................................................. 54 
Mohammad Heydari, Zheng Yuxi, Kin Keung Lai, Zhou Xiaohu
- Đánh giá những nhân tố ảnh 
hưởng đến mối quan hệ giữa phong cách lãnh đạo và sự hài lòng trong công việc dựa trên phân tích nhân 
tố............62 
 Chuyên mục: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG 
Nguyễn Thị Kim Nhung, Nguyễn Thanh Minh, Hoàng Văn Dƣ - Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện 
đại tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thái Nguyên ........ 81 
Chu Thị Kim Ngân, Nguyễn Thị Ngọc Uyên - Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại các chi nhánh 
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam, tỉnh Bắc Ninh .................................... 88 
Bùi Thị Ngân, Nguyễn Thị Linh Trang - Ứng dụng lý thuyết M&M trong quyết định cơ cấu vốn tại 
Công ty Cổ phần Than Vàng Danh - Vinacomin ..................................................................................... 95 
Tạp chí 
Kinh tế và Quản trị Kinh doanh 
Journal of Economics and Business Administration 
Chuyên mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 09 (2019) 
2 
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN TRONG 
THỜI KỲ ĐỔI MỚI 
 Nguyễn Mạnh Chủng 
Tóm tắt 
Kinh tế biển là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, có đóng góp quan trọng vào chiến lược phát triển 
kinh tế quốc gia. Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận 
thức được vai trò quan trọng của kinh tế biển đối với tổng thể kinh tế cả nước, gắn với bảo vệ chủ quyền 
an ninh quốc gia, đặc biệt thời kì đổi mới toàn diện đất nước. Để khái quát một cách có hệ thống quan 
điểm của Đảng về phát triển kinh tế biển trong thời kì đổi mới, bài viết đã phân tích: Quan điểm của 
Đảng về phát triển kinh tế biển qua một số nghị quyết trong thời kì đổi mới. Trên cơ sở đó, bài viết cũng 
đề cập đến một số giải pháp phát triển bền vững kinh tế biển ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. 
Từ khóa: Quan điểm của Đảng, kinh tế biển, thời kì đổi mới. 
THE COMMUNIST PARTY’S VIEWPOINTS OF MARINE ECONOMIC 
DEVELOPMENT IN INNOVATION PERIOD 
Abstract 
Marine economy is a part of the national economy, making an important contribution to the national 
economic development strategy. During the revolutionary leadership process, the Communist Party of 
Vietnam is increasingly aware of the important role of the marine economy in the overall economy of 
the country, associated with protecting national sovereignty, especially the period of comprehensive 
renovation of the country. To systematically generalize the Party's position on marine economic 
development in the renovation period, the article analyzed the Party’s views on marine economic 
development through a number of resolutions. On that basis, the article also mentioned some solutions 
for sustainable development of marine economy in Vietnam during the period of accelerating 
industrialization, modernization and international integration today. 
Keywords: Party’s viewpoint, marine economics, innovation period. 
JEL classification: A10; A13; A14
1. Mở đầu 
Kinh tế biển có thể hiểu là các hoạt động 
kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt động kinh tế 
trực tiếp liên quan đến khai thác biển ở dải đất 
liền ven biển. Việt Nam là một quốc gia có biển 
với những ưu thế về vị trí chiến lư c đặc biệt 
quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Với 3 
mặt tiếp giáp biển, có diện tích biển rộng hơn 
một triệu km², gấp hơn 3 lần diện tích đất liền, 
trong đó 28 trên 63 tỉnh thành phố nằm ven biển 
và là nơi sinh sống của hơn 1/5 dân số cả nước 
[3]. Từ bao đời nay, biển luôn gắn bó chặt chẽ 
với mọi hoạt động sản xuất, đời sống của dân tộc 
Việt Nam. Tuy nhiên, nhận thức về kinh tế biển 
phải căn cứ vào xu thế của thế giới, thực trạng 
kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt 
Nam để hoạch định chiến lư c phát triển kinh tế 
biển cho phù h p. 
Trước thời kì đổi mới, Đảng Cộng sản Việt 
Nam chưa nhận thức hết về kinh tế biển và tầm 
quan trọng của kinh tế biển đối với nền kinh tế 
quốc dân. Quan niệm về kinh tế biển mới chỉ là 
các hoạt động “đánh bắt, nuôi thủy sản ở các 
vùng nước mặn, nước l và nước ngọt; phát triển 
đội tàu biển, xây dựng, mở rộng và quản lý tốt hệ 
thống cảng biển; thực hiện tốt việc h p tác với 
Liên Xô nhằm đẩy mạnh thăm dò và tiến tới khai 
thác dầu, khí ở thềm lục địa phía nam” [2, 
tr.211]. Vì thế, chưa có chủ trương bố trí lại lực 
lư ng sản xuất, lực lư ng lao động, đưa dân ra 
vùng biển, xây dựng nền kinh tế biển một cách 
toàn diện; chưa chú trọng kết h p chặt chẽ giữa 
phát triển kinh tế bển với bảo vệ an ninh trên 
biển. Là một quốc gia biển nhưng chưa hoạch 
định đư c chiến lư c phát triển kinh tế biển một 
cách lâu dài và bền vững. 
Bước vào thời kì đổi mới toàn diện đất 
nước, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI 
(1986) đánh dấu bước chuyển quan trọng trong 
tư duy lí luận của Đảng. Một trong những tư 
tưởng lớn bao trùm xuyên suốt đường lối đổi mới 
là xóa bỏ cơ chế quản lí kinh tế tập trung quan 
liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù h p với 
quy luật khách quan và với trình độ phát triển 
của nền kinh tế. Tuy nhiên, nhận thức về phát 
triển kinh tế biển chưa thật toàn diện, mới dừng 
lại ở mức độ “sắp xếp h p lý lực lư ng lao động 
ngư nghiệp, khuyến khích nhân dân phát triển, 
nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, mở mang ngành 
nghề ven biển” [3, tr.170]. Đồng thời đẩy 
Chuyên mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 09 (2019) 
3 
mạnh “thăm dò và khai thác dầu ở thềm lục địa 
phía nam” [3, tr.185]. Đại hội đại biểu toàn quốc 
lần thứ VII (1991), lần đầu tiên Đảng ta đề cập 
đến phát triển kinh tế biển một cách toàn diện. 
Đây là điểm mới trong tư duy, lí luận của Đảng 
về phát triển kinh tế biển và không ngừng bổ 
sung, phát triển ở các kì đại hội tiếp theo. Vì thế 
kinh tế biển, các vùng ven biển ở Việt Nam hiện 
nay đang trở thành động lực phát triển đất nước. 
Để thấy đư c quá trình phát triển tư duy lí luận 
của Đảng về phát triển kinh tế biển ở Việt Nam. 
Bằng các phương pháp so sánh, lịch sử và lôgic 
bài viết tập trung phân tích quan điểm của Đảng 
Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế biển từ 
Đại Đảng lần thứ VII (1991) đến nay và một số 
giải pháp phát triển bền vững kinh tế biển ở nước 
ta hiện nay. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế 
biển qua một số nghị quyết trong thời kì đổi mới 
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), 
trong chiến lư c ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 
đến năm 2000, Đảng xác định:“Từng bước khai thác 
toàn diện các tiềm năng to lớn của kinh tế biển, phát 
triển kinh tế ở hải đảo, làm chủ lãnh hải và thềm lục 
địa, thực hiện chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh 
tế” [3, tr.353]. Các tỉnh ven biển phát huy thuận l i 
mở cửa ra bên ngoài, điều chỉnh phương hướng sản 
xuất và xây dựng thích nghi với điều kiện bất l i về 
thiên tai, phát triển và bảo vệ kinh tế gắn với củng cố 
quốc phòng, an ninh. Đây là quan điểm tạo bước 
ngoặt quan trọng trong phát triển kinh tế biển. Lần 
đầu tiên Đảng ta đề cập phát triển kinh tế biển là khai 
thác toàn diện mọi tiềm năng từ biển đem lại, đồng 
thời phát triển kinh tế phải kết h p với bảo vệ chủ 
quyền, tăng cường quốc phòng và an ninh trên các 
vùng biển, đảo nước ta. 
Thực hiện quan điểm Đại hội VII, ngày 
06/5/1993 Bộ Chính trị ra nghị quyết về một số 
nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những 
năm trước mắt. Nghị quyết chủ trương đẩy mạnh 
phát triển kinh tế biển đi đôi với bảo vệ chủ 
quyền và l i ích quốc gia; bảo vệ tài nguyên môi 
trường sinh thái biển phấn đấu đưa nước ta trở 
thành một nước mạnh về biển vào năm 2020. 
Nghị quyết 03 của Bộ Chính trị đã thể hiện rõ 
nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế 
biển trong tiến trình phát triển của quốc gia. 
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII 
(1996) đánh dấu mốc lịch sử quan trọng, khẳng 
định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã 
hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. 
Nhiệm vụ của chặng đường đầu thời kỳ quá độ là 
chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản 
hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kì mới 
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất 
nước. Phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế 
- xã hội 5 năm (1996 - 2000) Đảng xác định: 
“Kết h p phát triển các vùng kinh tế trọng điểm 
với các vùng khác, tạo điều kiện cho các vùng 
đều phát triển, phát huy đư c l i thế của m i 
vùng” [3, tr.546]. Theo đó, Đảng chủ trương phát 
triển kinh tế biển với phương châm “phát triển 
đồng bộ và hiện đại hóa kết cấu hạ tầng ven biển 
và các huyện đảo, gắn với vùng kinh tế trọng 
điểm. Hình thành các trung tâm kinh tế biển, các 
đô thị lớn, các khu công nghiệp, khu chế xuất, 
khu du lịch và thương mại”[3, tr.584]. Quy 
hoạch phát triển kinh tế biển trong một chương 
trình liên kết các ngành kinh tế quan trọng tạo ra 
nguồn tích lũy cao và ổn định cho nền kinh tế 
quốc dân là một trong những nhiệm vụ quan 
trọng cần tập trung lãnh đạo. 
Như vậy, điểm mới trong quan điểm của 
Đảng về phát triển kinh tế biển ở Đại hội VIII là 
phát triển kinh tế biển nhằm phục vụ mục tiêu 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Theo đó, 
ngày 22 - 9 - 1997 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 
số 20 CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển 
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đưa 
ra một số quan điểm phát triển kinh tế biển, khẳng 
định thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh 
tế biển hướng vào xuất khẩu, dựa trên những tiến 
bộ khoa học, công nghệ làm động lực vừa thúc 
đẩy nghiên cứu, quản lý, khai thác tiềm năng biển 
có hiệu quả, vừa tái tạo tài nguyên biển, bảo vệ 
môi trường, đào tạo nhân lực. 
Thực hiện mục tiêu trở thành một quốc gia 
mạnh về biển và giàu lên từ biển, Đại hội IX của 
Đảng (4 - 2001) khẳng định: “Xây dựng chiến 
lư c phát triển kinh tế biển và hải đảo, phát huy 
thế mạnh đặc thù của hơn một triệu km² thềm lục 
địa. Tăng cường điều tra cơ bản làm cơ sở cho 
các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế biển. 
Đẩy mạnh công tác nuôi trồng, khai thác và chế 
biến hải sản; thăm dò khai thác, chế biến dầu khí; 
phát triển đóng tàu thuyền và vận tải biển, mở 
mang du lịch” [1, tr.181]. Như vậy, ở Đại hội IX 
Đảng ta đã nhận thức về phát kinh tế biển là vấn 
đề quan trọng đối với chiến lư c phát triển kinh 
tế quốc gia, vì thế cần thiết phải có một chiến 
lư c phát triển kinh tế biển một cách bền vững. 
Vì thế, Đại hội chủ trương phát triển kinh tế 
biển: “Tiến mạnh ra biển và làm chủ vùng biển; 
phát triển tổng h p kinh tế biển và ven biển; khai 
thác l i thế của các khu vực cửa biển, hải cảng 
để tạo thành vùng phát triển cao, thúc đẩy các 
vùng khác. Xây dựng căn cứ hậu cần ở một số 
Chuyên mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 09 (2019) 
4 
đảo để tiến ra khơi. Kết h p chặt chẽ giữa phát 
triển kinh tế biển với bảo vệ an ninh trên biển” 
[1, tr.182]. 
Đại hội X của Đảng (4 - 2006) đưa ra quan 
điểm chỉ đạo phát triển mạnh kinh tế biển đối với 
các thành phố ven biển và hải đảo, các địa 
phương có tiềm năng, l i thế về biển nhằm “xây 
dựng và thực hiện chiến lư c phát triển kinh tế 
biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; sớm 
đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về kinh 
tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc 
phòng an ninh và h p tác quốc tế. Phát triển hệ 
thống cảng biển, vận tải biển, khai thác và chế 
biến dầu khí, hải sản, dịch vụ biển; đẩy nhanh 
các ngành công nghiệp đóng tàu biển và công 
nghiệp khai thác, chế biến hải sản. Phát triển 
mạnh, đi trước một bước một số vùng kinh tế 
biển và hải đảo” [4, tr.93]. 
Trên cơ sở quan điểm Đại hội IX, X và thực 
tế quy mô kinh tế biển ở nước ta chưa tương 
xứng với tiềm năng. Yêu cầu cấp bách đối với 
Đảng và Nhà nước cần nâng các quan điểm lên 
tầm chiến lư c. Đáp ứng yêu cầu đó, Hội nghị 
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã 
thông qua nghị quyết về Chiến lư c biển Việt 
Nam đến năm 2020 (Nghị quyết số 09 NQ/TW 
ngày 2 - 9 - 2007). Trong đó, quan điểm chỉ đạo 
là “nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, 
làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm 
năng biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề 
biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ 
phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm 
nhìn dài hạn” [5, tr.92]. Mục tiêu phấn đấu “đến 
năm 2020 kinh tế biển đóng góp khoảng 53 - 
55% CDP, 55 - 56% kim ngạch xuất khẩu của cả 
nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện 
một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng ven 
biển” [5, tr.93]. 
Đại hội XI của Đảng (1 - 2011) một lần nữa 
khẳng định: “Phát triển mạnh mẽ kinh tế biển 
tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của 
nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm 
quốc phòng, an ninh, bảo vệ vùng biển. Nhiệm 
vụ cụ thể là phải “Phát triển nhanh một số khu 
kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên phát 
triển các ngành công nghiệp năng lư ng, đóng 
tàu, xi măng, chế biến thủy sản chất lư ng cao 
Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tạo thành các trung 
tâm kinh tế biển mạnh, tạo thế tiến ra biển, gắn 
với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, nhất là 
các ngành có giá trị tăng cao n ... n nay, những thách thức toàn 
cầu, nhất là suy thoái và ô nhiễm môi trường, suy 
giảm đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu đã và 
đang đe dọa nghiêm trọng sức khỏe biển và đại 
dương trên toàn thế giới cũng như tại Việt Nam. 
Nhìn lại giai đoạn trước đây ở nước ta, có thể 
thấy mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo 
vệ môi trường biển chưa đư c gắn kết chặt chẽ, 
trong một số trường h p còn tạo ra xung đột. Sức 
khỏe của các vùng biển của Việt Nam chưa đư c 
bảo đảm do chúng ta chưa thể hài hòa giữa khai 
thác, sử dụng tài nguyên, môi trường biển với 
bảo vệ, bảo tồn và phục hồi các hệ sinh thái biển, 
ven biển. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp bách về bảo 
vệ môi trường biển, ứng phó với biến đổi khí 
hậu, khai thác tài nguyên biển, đảo một cách bền 
vững. Đây cũng là mục tiêu phát triển của Liên 
h p quốc về bảo tồn và sử dụng bền vững biển, 
đại dương và tài nguyên biển đã trở thành thước 
đo phát triển của các quốc gia. 
Chuyên mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 09 (2019) 
5 
Trên cơ sở quan điểm Đại hội XII, tổng kết 
10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa 
X về Chiến lư c biển Việt Nam đến năm 2020. 
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương 
Khóa XII (10/2018) về “Chiến lư c phát triển bền 
vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm 
nhìn đến năm 2045” với quan điểm: “Việt Nam 
phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ 
biển, phát triển bền vững, thịnh vư ng, an ninh và 
an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn với 
bảo đảm quốc phòng, an ninh,..”[8, tr.81]. Trong 
đó lấy “phát triển bền vững kinh tế biển trên nền 
tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học 
các hệ sinh thái biển; bảo đản hài hòa giữa các hệ 
sinh thái kinh tế và tự nhiên và tự nhiên, giữa bảo 
tồn và phát triển, giữa l i ích của địa phương có 
biển và địa phương không có biển”[8, tr.82] là 
trọng điểm cho phát triển bền vững biển Việt 
Nam. Đồng thời phát triển kinh tế biển trên cơ sở 
“công bằng bình đẳng, tuân thủ Hiến pháp và 
pháp luật; Đẩy mạnh đầu tư vào bảo tồn và phát 
triển giá trị đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh 
thái biển; Lấy khoa học công nghệ tiên tiến, 
hiện đại và nguồn nhân lực chất lư ng cao làm 
nhân tố đột phá” [8, tr.82 - 83]. 
Nghị quyết xác định mục tiêu: “Đưa Việt 
Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản 
các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; 
hình thành văn hóa sinh thái biển; chủ động thích 
ứng với biến đổi khí hậu, nước biển 
dângNhững thành tựu khoa học mới, tiên tiến, 
hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát 
triển bền vững kinh tế biển”[8, tr.84]. Phấn đấu 
đến năm 2045 “Việt Nam trở thành quốc gia biển 
mạnh, phát triển bền vững, thịnh vư ng, an ninh, 
an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào 
nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta 
thành nước công nghiệp hiện đại theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa”[8, tr.87]. 
Như vậy, điểm mới trong Hội nghị Trung 
ương 8 khóa XII về chiến lư c biển là mục tiêu 
phát triển bền vững kinh tế biển. Đây là vấn đề có 
ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho phát triển kinh tế 
đất nước, tiếp thêm sức mạnh cho dân tộc ta trong 
cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo trước 
mắt và lâu dài. Tuy nhiên, để đưa Việt Nam trở 
thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, 
thịnh vư ng. Điều quan trọng nhất hiện nay là cần 
phải có những giải pháp đồng bộ và những cơ chế 
chính sách cụ thể thích h p để đưa Nghị quyết của 
Đảng vào hiện thực cuộc sống và thực hiện thắng 
l i các mục tiêu đã xác định. 
2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam 
về một số giải pháp phát triển bền vững kinh tế 
biển ở nước ta hiện nay 
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, 
nâng cao nhận thức toàn xã về phát triển bền 
vững kinh tế biển. 
Thế kỷ XXI - “Thế kỷ biển và đại dương”. 
Trong xu thế chung là h p tác, hội nhập và phát 
triển vẫn tồn tại những vấn đề phức tạp và nhạy 
cảm, tiềm ẩn những nhân tố khó lường tác động 
đến phát triển kinh tế xã hội nói chung và kinh tế 
biển nói riêng. Vì thế, nhận thức đư c những 
thuận l i và thách thức từ biển để khắc phục 
những trở lực, tranh thủ triệt để những l i thế 
đem lại thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế là 
vấn đề qua trọng. Do đó, tuyên truyền nâng cao 
nhận thức cho toàn xã hội về phát triển bền vững 
kinh tế biển, tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội 
là nội dung đặt lên hàng đầu hiện nay. Tuy nhiên, 
để công tác tuyên truyền có hiệu quả cần đa dạng 
hóa nội dung, hình thức và phương pháp tuyên 
truyền trong đó tập trung vào những vấn đề cơ 
bản sau: 
Thứ nhất, giáo dục sâu rộng, có hệ thống 
trong các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò 
chiến lư c, tiềm năng, thế mạnh của biển, đảo 
Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ 
Tổ quốc; các quan điểm, chủ trương, đường lối 
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về 
biển, đảo, như Luật Biển Việt Nam; những nội 
dung cơ bản Công ước Liên h p quốc về Luật 
Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên 
trên Biển Đông (DOC) và việc xây dựng Bộ quy 
tắc ứng xử mang tính pháp lý của các bên ở Biển 
Đông (COC). 
Thứ hai, tập trung tuyên truyền Nghị quyết 
Hội nghị Trung ương 8 khóa XII về “Chiến lư c 
phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến 
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Tuyên 
truyền, nhân rộng các nhân tố mới, điển hình tiên 
tiến trong phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã 
hội, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống 
vùng biển, đảo và ven biển gắn với giữ vững 
quốc phòng, an ninh. Phổ biến chuyển giao 
những tiến bộ khoa học - công nghệ và những 
kinh nghiệm tốt để ứng dụng vào việc nuôi trồng, 
đánh bắt, khai thác nguồn l i thủy, hải sản. 
Thứ ba, đẩy mạnh tuyên truyền, thông tin 
đối ngoại, làm cho bạn bè và dư luận quốc tế 
hiểu rõ lập trường chính nghĩa của Việt Nam; 
những cơ sở pháp lý, chứng cứ lịch sử và thực 
tiễn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 
hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa tạo sự đồng 
Chuyên mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 09 (2019) 
6 
tình, ủng hộ của bạn bè và dư luận quốc tế đối 
với Việt Nam. 
Từ những lí do trên, Hội nghị Trung ương 8 
khóa XII đã chủ trương “Nâng cao hiệu quả, đa 
dạng hóa các hình thức, nội dung tuyên truyền 
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của 
Nhà nước về biển, đảo, chiến lư c phát triển bền 
vững kinh tế biển Việt Nam trong toàn hệ thống 
chính trị, nhân dân, đồng bào ta ở nước ngoài và 
cộng đồng quốc tế; khẳng định chủ trương nhất 
quán của Việt Nam là duy trì môi trường hòa 
bình, ổn định, tôn trọng luật pháp quốc tế trên 
biển” [8, tr.99]. 
Hai là, không ngừng hoàn thiện thể chế 
chính sách, quy hoạch về phát triển bền vững 
kinh tế biển. 
Với quyết tâm đưa nước ta trở thành quốc 
gia mạnh về biển. Ngày 9-2-2007, Ban Chấp 
hành Trung ương khóa X ban hành Nghị quyết 
09-NQ/TW về “Chiến lư c biển Việt Nam đến 
năm 2020”. Một trong những thành tựu nổi bật 
sau 10 năm thực hiện chiến lư c này là Đảng, 
Nhà nước ta đã từng bước xây dựng, hoàn thiện 
hệ thống chính sách, pháp luật về biển, hải đảo 
hướng tới quản lý tổng h p biển và hải đảo với 
phương thức tiếp cận hệ sinh thái, tiêu biểu như: 
Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 12-6-2009 “Về 
một số giải pháp cấp bách trong quản lý Nhà 
nước về tài nguyên và môi trường biển”; Quyết 
định số 1353/QQĐ-TTg ngày 23-9-2010 của Thủ 
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Quy 
hoạch phát triển các khu kinh tế ven biển của 
Việt Nam đến năm 2020”; Quyết định số 
1570/QĐ-TTg ngày 6-9-2013 “Phê duyệt Chiến 
lư c khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và 
bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn 
đến năm 2030”; Nghị định số 25/2009/NĐ-CP 
ngày 6-3-2009 về quản lý tổng h p tài nguyên và 
bảo vệ môi trường biển, hải đảo và ngày 21-6-
2012, Quốc hội thông qua Luật Biển Việt Nam. 
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để quản lý, bảo 
vệ và phát triển kinh tế biển gắn với đảm bảo an 
ninh - quốc phòng của nước ta. Nhờ đó, diện 
mạo kinh tế khu vực biên giới biển, đảo có sự 
thay đổi rõ rệt, việc thực thi pháp luật trên biển 
đư c tăng cường. 
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt 
đư c còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém như: 
Phát triển kinh tế biển chưa gắn kết hài hòa với 
phát triển xã hội và bảo vệ môi trường; sự kết nối 
giữa các vùng biển, vùng ven biển với vùng nội 
địa có địa phương thiếu chặt chẽ, kém hiệu quả; 
ô nhiễm môi trường biển ở nhiều nơi còn diễn ra 
nghiêm trọng và đã trở thành vấn đề cấp bách; 
một số tài nguyên biển bị khai thác quá mức; 
khoảng cách giàu – nghèo của người dân ven 
biển có xu hướng ngày càng tăng. 
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nhiều 
nguyên nhân, song một trong những nguyên 
nhân chủ quan đó là “chính sách, pháp luật về 
biển chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, một số chủ 
trương lớn của Đảng chưa đư c thể chế hóa kịp 
thời” [9, tr.80]. Trong khi đó, thực tế hiện nay 
nhiều vấn đề về tình hình quốc tế tiếp tục diễn 
biến phức tạp, đặc biệt là cạnh tranh chiến lư c 
giữa các nước lớn, tranh chấp chủ quyền ranh 
giới biển và bất đồng giữa các nước tại biển 
Đông vẫn diễn ra. Nhiều vấn đề về biển cần có 
thể chế, chính sách, quy hoạch tổng thể mang 
tính chiến lư c. Do đó, không ngừng hoàn thiện 
thể chế chính sách, quy hoạch về phát triển bền 
vững kinh tế biển là vấn đề cấp thiết đặt ra hiện 
nay. Hội nghị Trung ương 8, khóa XII đã chủ 
trương: “Rà soát, hoàn thiện hệ thống chính sách, 
pháp luật về biển theo hướng phát triển bền 
vững, bảo đảm tính khả thi, đồng bộ, thống nhất, 
phù h p với chuẩn mực luật pháp và điều ước 
quốc tế mà Việt Nam tham gia. Tạo hành lang 
pháp lý thuận l i để huy động các nguồn lực 
trong và ngoài nước đầu tư xây dựng hạ tầng, 
phát triển khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực 
và chuyển giao tri thức về biển”. Rà soát, bổ 
sung và xây dựng mới đồng bộ các chiến lư c, 
quy hoạch, kế hoạch liên quan đến biển theo 
hướng quản lý tổng h p” [8, tr.100-101]. 
Ba là, đẩy mạnh phát triển khoa học công 
nghệ và nguồn nhân lực biển tạo khâu đột phá 
cho phát triển bền vững kinh tế biển. 
Khoa học, công nghệ và nguồn nhân lực là 
một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong 
quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Đối với biển, 
khoa học, công nghệ và nguồn nhân lực chất 
lư ng cao đã trở thành động lực thúc đẩy phát 
triển kinh tế biển, bảo vệ tài nguyên và môi 
trường, bảo tồn tự nhiên, ngăn ngừa và phòng 
chống thiên tai, qua đó góp phần bảo đảm an 
ninh quốc phòng, chủ quyền và l i ích quốc gia 
trên biển hiện nay. 
Sau hơn 30 năm đổi mới, hoạt động khoa 
học, công nghệ biển ở nước ta đã đạt đư c một 
số thành tựu và có những đóng góp không nhỏ 
trong phát triển kinh tế - xã hội, góp phần bảo 
đảm an ninh quốc phòng, chủ quyền và l i ích 
quốc gia trên biển. Tuy nhiên, kinh tế biển Việt 
Nam vẫn chưa phát huy đư c tiềm năng to lớn 
của mình là do nguồn nhân lực và đội ngũ cán bộ 
khoa học, công nghệ về biển chưa đáp ứng yêu 
cầu về số lư ng, chất lư ng; trình độ, năng lực 
Chuyên mục: Thông tin & Trao đổi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 09 (2019) 
7 
khoa học, công nghệ về biển còn hạn chế so với 
các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. 
Do đó, khoa học, công nghệ hiện đại và 
nguồn nhân lực biển chất lư ng cao chính là 
nhân tố đột phá để phát triển bền vững biển Việt 
Nam trong giai đoạn mới. Cụ thể là: Để vươn ra 
biển và làm chủ biển, cần phải dựa trên nền tảng 
phát triển khoa học, công nghệ, thúc đẩy đổi 
mới, sáng tạo, tận dụng các thành tựu của cuộc 
cách mạng công nghiệp 4.0 kết h p tăng cường 
điều tra cơ bản biển, đẩy mạnh nghiên cứu, xác 
lập luận cứ khoa học cho việc hoạch định, hoàn 
thiện chính sách, pháp luật; ưu tiên đầu tư đánh 
giá tiềm năng và l i thế về điều kiện tự nhiên, tài 
nguyên, hệ sinh thái và các ngành, lĩnh vực kinh 
tế như hàng hải, chế biến hải sản, nuôi trồng 
thủy, hải sản, năng lư ng tái tạo, thông tin và 
công nghệ số biển, nano biển, sinh dư c học 
biển, thiết bị tự vận hành ngầm Đồng thời phải 
có nguồn nhân lực biển chất lư ng cao. Để làm 
đư c điều đó, ngay từ bây giờ cần phải chú trọng 
đầu tư phát triển đội ngũ nhà khoa học, chuyên 
gia chất lư ng cao đáp ứng nhu cầu thị trường và 
yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới. Bên cạnh 
đó, cần ưu tiên đầu tư cho công tác đào tạo, đào 
tạo lại nghề cho người dân, bảo đảm nhu cầu lao 
động của các ngành kinh tế biển khi tiến hành cơ 
cấu lại các ngành này. Vì thế, Hội nghị Trung 
ương 8, khóa XII chủ trương: “Phát triển khoa 
học, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực biển 
chất lư ng cao, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, tận 
dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, 
khoa học công nghệ mới, thu hút chuyên gia, nhà 
khoa học hàng đầu, nhân lực chất lư ng cao” [8, 
tr.98] là khâu đột phá trong phát triển bền vững 
kinh tế biển Việt Nam những năm tới. 
3. Kết luận 
Như vậy, nhận thức về kinh tế biển và phát 
triển kinh tế biển luôn đư c Đảng Cộng sản Việt 
Mam quan tâm, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới 
toàn diện đất nước. Đảng ta luôn coi phát triển 
kinh tế biển là một trong những nội dung quan 
trọng trong chiến lư c phát triển kinh tế - xã hội, 
nhằm đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về 
biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh 
vư ng, an ninh và an toàn. Đặc biệt Nghị quyết 
Trung ương 8, khóa XII, trên cơ sở mục tiêu, 
khâu đột phá, Hội nghị đã xác định một số giải 
pháp cụ thể phát triển bền vững kinh tế biển ở 
Việt Nam hiện nay. Những pháp đó là cơ sở để 
huy động nguồn lực của toàn xã hội mở cửa 
hướng ra biển để đón nhận những thời cơ, giải 
quyết những thách thức, đưa đất nước ta trở 
thành một quốc gia biển mạnh, hội nhập, phát 
triển bền vững và giữ vững chủ quyền biển, đảo 
của Tổ quốc. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Hà Nội: Nhà 
xuất bản Chính Trị Quốc Gia. 
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2005). Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính Trị 
Quốc Gia. 
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2005). Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi mới. Hà Nội: Nhà xuất bản 
Chính Trị Quốc Gia. 
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Hà Nội: Nhà xuất 
bản Chính Trị Quốc Gia. 
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2007). Các Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương 
Đảng khóa X. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia. 
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Hà Nội: Nhà 
xuất bản Chính Trị Quốc Gia. 
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng 
Trung ương Đảng, Hà Nội. 
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2018). Văn kiện Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương khóa 
XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 
[9]. Đinh Thế Huynh, Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Viết Thông. (2015). 30 
năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia. 
Thông tin tác giả: 
1. Nguyễn Mạnh Chủng 
- Đơn vị công tác: Khoa Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Trường Đại 
học Chính trị, Bộ Quốc phòng 
- Địa chỉ email: manhchung1975@gamil.com 
Ngày nhận bài: 25/02/2019 
Ngày nhận bản sửa: 24/03/2019 
Ngày duyệt đăng: 29/3/2019 

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_cua_dang_ve_phat_trien_kinh_te_bien_trong_thoi_ky.pdf