Phát triển tài nguyên số để trở thành một thư viện đặc thù

Trung tâm Thông tin - Tư liệu -

Thư viện thuộc Học viện Khoa học Xã

hội với nhiệm vụ đào tạo sau đại học

Được thành lập theo Quyết định số

35/QĐ-TTg ngày 10/1/2010 của Thủ

tướng Chính phủ, Học viện Khoa học Xã

hội (KHXH) là cơ sở giáo dục có chức

năng và nhiệm vụ chính là đào tạo và cấp

văn bằng thạc sĩ (ThS) và tiến sĩ (TS) về

KHXH, và cũng từ đây, nó đảm nhiêm

việc quản lý thống nhất các hoạt động đào

tạo sau đại học của các cơ sở đào tạo (đã

hoạt động trước đây, vốn là các viện

chuyên ngành hay khu vực) thuộc Viện

KHXH Việt Nam1.

Đặt trong hệ thống các thư viện

thuộc cơ quan ngang Bộ này, Trung tâm

Thông tin – Tư liệu – Thư viện (dưới đây,

gọi tắt là Trung tâm) mới ra đời theo

Quyết định số 231/QĐ-HVKHXH ngày

18/4/2011 của Giám đốc Học viện Khoa

học Xã hội (Học viện).

Đối tượng phục vụ của Trung tâm

bao gồm cán bộ giảng dạy và học viên cao

học, nghiên cứu sinh và những người đang

ôn tập chuẩn bị đăng kí theo học chương

trình sau đại học tại 21 Khoa của Học viện,

nhằm hoàn thành “chức năng phục vụ hoạt

động đào tạo và nghiên cứu khoa học

trong lĩnh vực Thông tin – Tư liệu – Thư

viện; triển khai ứng dụng các tiến bộ khoa

học và công nghệ nhằm tổ chức, xây dựng,

quản lý và khai thác có hiệu quả nguồn

Thông tin – Tư liệu của Trung tâm; hướng

dẫn và quản lý công tác quyền sở hữu trí

tuệ của Học viện theo các quy định của

pháp luật”.

pdf 6 trang kimcuc 6220
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển tài nguyên số để trở thành một thư viện đặc thù", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển tài nguyên số để trở thành một thư viện đặc thù

Phát triển tài nguyên số để trở thành một thư viện đặc thù
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2012 
4
PHÁT TRIỂN TÀI NGUYÊN SỐ ĐỂ TRỞ 
THÀNH MỘT THƯ VIỆN ĐẶC THÙ 
(phục vụ đào tạo sau đại học) 
 PGS. TS VƯƠNG TOÀN 
(Nguyên PVT Viện Thông tin Khoa học Xã hội) 
1. Trung tâm Thông tin - Tư liệu - 
Thư viện thuộc Học viện Khoa học Xã 
hội với nhiệm vụ đào tạo sau đại học 
Được thành lập theo Quyết định số 
35/QĐ-TTg ngày 10/1/2010 của Thủ 
tướng Chính phủ, Học viện Khoa học Xã 
hội (KHXH) là cơ sở giáo dục có chức 
năng và nhiệm vụ chính là đào tạo và cấp 
văn bằng thạc sĩ (ThS) và tiến sĩ (TS) về 
KHXH, và cũng từ đây, nó đảm nhiêm 
việc quản lý thống nhất các hoạt động đào 
tạo sau đại học của các cơ sở đào tạo (đã 
hoạt động trước đây, vốn là các viện 
chuyên ngành hay khu vực) thuộc Viện 
KHXH Việt Nam1. 
Đặt trong hệ thống các thư viện 
thuộc cơ quan ngang Bộ này, Trung tâm 
Thông tin – Tư liệu – Thư viện (dưới đây, 
gọi tắt là Trung tâm) mới ra đời theo 
Quyết định số 231/QĐ-HVKHXH ngày 
18/4/2011 của Giám đốc Học viện Khoa 
học Xã hội (Học viện). 
Đối tượng phục vụ của Trung tâm 
bao gồm cán bộ giảng dạy và học viên cao 
học, nghiên cứu sinh và những người đang 
ôn tập chuẩn bị đăng kí theo học chương 
1 
thieu-Hoc-vien-khoa-hoc-xa-hoi-17 
trình sau đại học tại 21 Khoa của Học viện, 
nhằm hoàn thành “chức năng phục vụ hoạt 
động đào tạo và nghiên cứu khoa học 
trong lĩnh vực Thông tin – Tư liệu – Thư 
viện; triển khai ứng dụng các tiến bộ khoa 
học và công nghệ nhằm tổ chức, xây dựng, 
quản lý và khai thác có hiệu quả nguồn 
Thông tin – Tư liệu của Trung tâm; hướng 
dẫn và quản lý công tác quyền sở hữu trí 
tuệ của Học viện theo các quy định của 
pháp luật”. 
Ngoài nguồn sách báo và tạp chí về 
các ngành KHXH và nhân văn trực tiếp 
mua, tài nguyên thông tin của Trung tâm 
còn được bổ sung từ nguồn ấn phẩm của 
Nhà xuất bản KHXH, và từ nhiều cá nhân 
biếu tặng, đặc biệt là đã được nhận bàn 
giao toàn bộ số sách và tạp chí từ quỹ Ford 
(trong một chương trình hỗ trợ Viện 
KHXH Việt Nam, qua Ban Hợp tác Quốc 
tế). 
Trung tâm cũng được giao nhiệm 
vụ thu nhận các giáo trình, bài giảng và 
sản phẩm của các đề tài nghiên cứu khoa 
học các cấp mà Học viện là cơ quan chủ 
quản (lâu nay được lưu trữ ở Ban Quản lý 
Khoa học). Đây cũng là nguồn thông tin 
nội sinh quan trọng có thể số hoá và đưa 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2012 
5
vào cơ sở dữ liệu (CSDL) phục vụ bạn đọc 
thông qua thư viện điện tử của Học viện. 
Sau một năm hoạt động, gần 8.000 
đơn vị sách báo và tạp chí đã được đăng kí 
và đưa vào CSDL, thuận tiện cho tìm kiếm 
thông tin. Đặc biệt là kho luận văn ThS và 
luận án TS hiện đã tập hợp được gần 500 
đơn vị tài liệu2. Phòng đọc của Trung tâm 
hiện có 14 tên báo và 30 tên tạp chí (trong 
đó có 25 tạp chí của Viện KHXH Việt 
Nam). Bạn đọc hiện nay đã có thể khai 
thác trực tiếp gần 10 ngàn đơn vị tài liệu 
tại Trung tâm phục vụ cho việc giảng dạy 
và học tập sau đại học3. 
Trong đường hướng hoạt động 
thông tin – thư viện phi tập trung hóa ở cơ 
quan ngang Bộ này [Xem; Vương Toàn 
(2010)], Trung tâm cần tạo cho mình 
(những) tài nguyên thông tin đặc thù, và 
đương nhiên hoạt động của nó cũng cần có 
những nét đặc thù so với các thư viện đã 
có, với tinh thần mỗi thư viện cần tạo cho 
mình (những) tài nguyên thông tin đặc thù 
- Chúng tôi muốn chia sẻ quan niệm này 
đối với hoạt động thư viện của một học 
giả, đó là GS triết học Trần Văn Đoàn, 
Việt kiều ở Đài Loan trong buổi thuyết 
trình tại Viện Thông tin KHXH. 
Với suy nghĩ ấy, chúng tôi muốn 
chỉ ra trong bài viết này những lý do để 
Trung tâm nên coi việc phát triển tài 
2 Nghĩa là mới chỉ bắt đầu công việc này, vì được 
biết: “Tính đến tháng 12 năm 2009, Viện 
KHXH Việt Nam đã đào tạo được trên 
1800 TS và ThS về KHXH và hiện đang 
đào tạo 1300 TS và ThS trong đó có 739 
TS và 561 ThS». 
3 Thông tin do Mai Kim Hạnh, Phó Giám đốc phụ 
trách Trung tâm này cung cấp (tháng 
5/2012). 
nguyên số, nhằm trở thành một thư viện 
đặc thù, có chỗ đứng xứng đáng trong hệ 
thống các thư viện ở cơ quan ngang Bộ 
này nói riêng, ở Việt Nam nói chung. 
 2. Phát triển tài nguyên thư viện 
số, góp phần đào tạo các chuyên gia 
tương lai về KHXH 
Nhằm góp phần phục vụ việc đào 
tạo sau đại học ở Học viện, cần ứng dụng 
những thành quả tiên tiến của công nghệ 
thông tin vào hoạt động thư viện: coi việc 
phát triển tài nguyên thư viện số như một 
loại tài nguyên thông tin đặc thù ở Trung 
tâm này, vì những lý do sau đây: 
2.1. Để hoàn thành tốt các chức 
năng và nhiệm vụ được giao 
Phát triển tài nguyên thư viện nằm 
trpng sáu nhiệm vụ chính được Trung tâm 
được giao, đó là thực hiện các hoạt động 
"Bổ sung và phát triển nguồn thông tin về 
KHXH ở trong nước và nước ngoài nhằm 
đáp ứng nhu cầu giảng dạy, học tập, 
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công 
nghệ của Học viện" và "Tổ chức xử lý, sắp 
xếp, lưu trữ, bảo quản các loại tài liệu; xây 
dựng hệ thống tra cứu thích hợp, thiết lập 
mạng lưới truy cập và tìm kiếm thông tin 
tự động hóa, xây dựng hệ thống CSDL, tạo 
thuận lợi cho việc tra tìm tài liệu của cán 
bộ nghiên cứu, giảng dạy và học viên của 
Học viện". 
Việc phát triển tài nguyên số sẽ 
mang lại cho Trung tâm nét đặc trưng của 
một thư viện hiện đại, bởi trong xã hội 
thông tin, vốn tài liệu thu thập không nhất 
thiết ở dạng giấy mà có thể / và nên là ở 
dạng số hoá. Thư viện hiện đại phục vụ 
giảng viên và nhất là học viên và nghiên 
cứu sinh cũng hết sức dễ dàng, vì khả năng 
tiếp cận với các phương tiện mang tin hiên 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2012 
6
đại của thế hệ nghiên cứu trẻ nay đã khác 
xưa rất nhiều. 
Như thế, các nhiệm vụ trên sẽ được 
thực hiện tốt, nếu Trung tâm phát triển tài 
nguyên thư viện số, cũng là ưu thế của một 
đơn vị mới ra đời trong một cơ quan khoa 
học có truyền thống lịch sử tuy mới hơn 
nửa thế kỷ, nhưng có những tài liệu đã 
được lưu trữ ở thư viện từ hơn một thế kỷ. 
2.2. Để phát huy thế mạnh của một 
thư viện “sinh sau đẻ muộn, nhưng đông 
anh chị” 
Là một cơ sở thư viện mới ra đời, 
nguồn nhân lực và tài chính của Trung tâm 
dù có được ưu tiên thì cũng còn hết sức 
hạn chế, lại cần và phải đáp ứng nhu cầu 
đa dạng về chuyên sâu của người dùng tin 
(NDT), trong khi đã có 30 thư viện tại các 
viện chuyên ngành hay khu vực (mà phần 
lớn vốn là cơ sở có truyền thống đào tạo 
sau đại học) và lại có Thư viện điện tử (dù 
chỉ là một thư viện ảo, không xác định đối 
tượng phục vụ riêng) trực thuộc Viện 
KHXH Việt Nam, trong số đó đặc biệt là 
Thư viện KHXH với truyền thống trăm 
năm, đã lưu trữ được hàng triệu đơn vị tài 
liệu [Xem; Hồ Sĩ Quý - Vương Toàn 
(2010)], nhiều CSDL đã được xây dựng và 
đưa vào khai thác. 
Cũng cần phải nói ngay rằng tài 
nguyên thông tin được sưu tập từ lâu, với 
số lượng lớn và từng bước được số hóa 
không chỉ có ở Thư viện KHXH mà một số 
thư viện chuyên ngành hay khu vực, ví 
như: Viện Văn học, Viện Sử học, Viện 
Kinh tế Việt Nam, Viện Dân tộc học, Viện 
Nghiên cứu Tôn giáo,  và Thư viện 
KHXH tại TP Hồ Chí Minh. Nhiều tài liệu 
chắc chắn chỉ có ở Viện Khảo cổ học, Viện 
Nghiên cứu Hán Nôm,  Trung tâm được 
giao nhiệm vụ “Liên kết và hợp tác với các 
Thư viện, các cá nhân trong nước và nước 
ngoài, trước hết của Viện KHXH Việt 
Nam để trao đổi nguồn lực thông tin, kinh 
nghiệm chuyên môn nhằm đáp ứng nhu 
cầu đào tạo và nghiên cứu khoa học của 
Học viện; tham gia các mạng thông tin thư 
viện 
Trong mối tương quan ấy, công 
việc của Trung tâm là phối hợp các nguồn 
lực con người và tài chính với tài nguyên 
thông tin để xây dựng (những) CSDL thư 
mục tích hợp. Đương nhiên, chúng ta đều 
hiểu thư viện hiện đại không phải chỉ cần 
dàn máy tính nối mạng, một vài CSDL 
được gọi là tích hợp nhưng mới chỉ gồm 
những dữ liệu được tich (từ nhiều nguồn) 
mà chưa hợp được (một khi các biểu ghi 
cho những tài liệu giống hệt nhau, được 
tích vào những đợt nhập tin khác nhau, 
vẫn nằm ở những vị trí khác nhau). 
Do là một thư viên phục vụ đào tạo 
sau đại học, ngoài những chuyên ngành 
của Học viện KHXH, còn phải chú ý đến 
những thông tin khoa học liên ngành. 
Là một thư viện phục vụ đào tạo 
sau đại học, Trung tâm cần xây dựng và 
kết nối với các CSDL về một số chủ đề 
then chốt nhất định mà KHXH và nhân 
văn thường quan tâm. Ngoài phần miêu tả 
thư mục, có tóm tắt và/hoặc toàn văn ở 
dạng số hoá, với những tài liệu dự tính 
nhiều NDT cần tham khảo và sao chụp. 
Đưong nhiên, đã là CSDL thì cần có kế 
hoạch thường xuyên bổ sung và cập nhật . 
Nguồn thu thập được xác định là 
gồm những tư liệu do các cơ quan, tổ 
chức, tập thể, cá nhân trong và ngoài nước 
xuất bản (hoặc công bố) hiện đang được 
các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở trung ương 
và địa phương lưu giữ, đặc biệt là luận 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2012 
7
văn ThS và luận án TS về KHXH và 
nhân văn. 
Nội dung dữ liệu thư mục rất cần có 
(các) địa chỉ tài liệu,vì chúng giúp ta xác 
định tài liệu có thể khai thác được tại cơ 
quan lưu trữ nào, đang nằm ở chỗ/kho nào, 
ký hiệu là bao nhiêu. Như thế, người cần 
có thể phát huy mọi khả năng cá nhân để 
tiếp cận cho được, khi Trung tâm không 
thể thu thập và/hoặc chưa đủ điều kiện số 
hoá toàn văn. Nếu tài liệu được biết chỉ là 
của cá nhân thì ta cũng có thể chỉ rõ, vì 
như vậy, người cần có thể tìm ra những 
mói quan hệ riêng. Được biết, lâu nay trên 
thị trường đã có không ít công trình thư 
mục khá đồ sộ nhưng giá trị sử dụng còn 
hạn chế: do không có yếu tố (các) địa chỉ 
tài liệu nên bạn đọc khó tìm đến tài liệu 
toàn văn, vì không biết nơi lưu trữ. 
Tính chất đặc thù này có thể dược 
thể hiện ở vốn tài liệu quý hiếm về các lĩnh 
vực chuyên ngành của cơ sở đào tạo (nhờ 
ưu thế được biếu tặng hay trao đổi mà ít 
nơi có được, hay có nhưng thường không 
đầy đủ, thiếu hệ thống, không thành bộ, đủ 
tập - ở đây là do Trung tâm được quyền 
“thu nhận các tài liệu do Học viện xuất 
bản, công trình nghiên cứu khoa học các 
cấp đã dược nghiệm thu, tài liệu các dự án, 
hội nghị, hội thảo khoa học, chương trình 
đào tạo, giáo trình, luận văn ThS, luận án 
TS”, do có quyền “cấp giấy xác nhận đã 
nộp luận văn ThS, luận án TS cho học viên 
cao học và nghiên cứu sinh” được đào tạo 
tại Học viện, cùng với các ấn phẩm tài trợ, 
biếu tặng, tài liệu trao đổi giữa các thư 
viện. 
Để hấp dẫn người sử dụng, một khi 
phải tồn tại trong thể thống nhất nhưng 
không thể sáp nhập, nên cần duy trì tính đa 
dạng trong khác biệt, Trung tâm phải thể 
hiện rõ tính chất đăc thù, nhất là ở tài 
nguyên thư viện số, nhằm phục vụ những 
tìm kiếm thông tin cho (những) nghiên cứu 
cũng đặc thù, đó là các luận văn/luận án 
về KHXH và nhân văn. 
Để tránh cho việc trùng lặp ngay từ 
khâu lựa chọn đề tài, cũng nên thường 
xuyên cập nhật thông tin về các đề tài luận 
văn/luận án đã được một cơ sở đào tạo 
chấp nhận và đang được tiến hành, ít nhất 
là CSDL toàn bộ các luận văn và luận án 
về KHXH đã được bảo vệ từ trước đến nay 
(tại các cơ sở đào tạo nay thuộc Học viện 
và các cơ sở đào tạo khác cũng có (các) 
chuyên ngành này và các chuyên ngành có 
liên quan) gồm những thông tin thư mục, 
tóm tắt và cả nguyên văn (full text) - có 
thể hoàn thiện dần dần, nhưng thông tin 
cung cấp phải luôn chính xác. Cần lưu ý 
rằng một CSDL dù được thực hiện tổt đến 
đâu thì vẫn cần có ngay kế hoạch (và cùng 
với nó là nguồn tài chính) cho việc bổ 
sung và cập nhật. Để thu hút những người 
quan tâm, nên thông tin về các buổi bảo vệ 
(dù đã được đăng báo, theo quy định). 
Xin nêu một ví dụ : Trong buổi bảo 
vệ chính thức luận án TS ngày 04/8/2012 
tại Học viện KHXH, một thành viên của 
Hội đồng cho biết thông tin về luận án này 
đã khiến cho một nữ nghiên cứu sinh ở 
một Học viện nọ phải thay đôi đề tài luận 
án của mình (vì có sự trùng lặp hoàn toàn 
ngẫu nhiên), dù đã được cơ sở đào tạo này 
cho phép triển khai từ một năm nay. 
2.3. Phát huy lợi thế của công 
nghệ thông tin trong xã hội hiện dại 
Trong đời sống xã hội hiện nay, do 
những tiện ích của công nghệ thông tin 
được sử dụng phổ biến, cách đánh giá của 
người sử dụng đối với thư viện đã khác 
trước rất nhiều. Vì thế, nếu có nói đến một 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2012 
8
cuộc "cách mạng trong hoạt động thư 
viện" kể cũng không có gì là quá đáng! 
Thật vây, một thư viện ngày nay 
được NDT xem là quý không hẳn chỉ vì cơ 
sở đó sở hữu (những) toà nhà đồ sộ có hệ 
thống điều hoà nhiệt độ chung cho các 
phòng đọc và tra cứu/tham khảo, với số 
lượng rất lớn tài liệu đang lưu giữ mà 
nhiều NDT phải đến tân nơi khai thác. 
Giờ đây, với các phương tiện kỹ 
thuật truyền thông hiện đại, ta có thể gắn 
với thư viện truyền thống một thư viện 
điện tử mà nhiều người có thể cùng sử 
dụng khai thác, khi thư viện cho phép truy 
cập từ xa, ngay cả vào kho tài nguyên 
thông tin quý hiếm, có thể nói là đặc thù, 
đương nhiên là với chế độ khai thác hợp 
lý, kiểu như eLibraryUSA. 
Như vây,Trung tâm cần hình thành 
(những) kho tài nguyên thông tin đặc thù, 
đáp ứng nhu cầu riêng của việc day - học ở 
cơ sở đào tạo sau đại học này, đồng thời 
phối hợp khai thác các nguồn tài nguyên 
thông tin của các đơn vị bạn (trong và 
ngoài hệ thống đại học, theo những quy 
định và thoả thuận sử dụng hợp lý, ở 
những mức độ khác nhau). Và đương 
nhiên là thư viện nào có (những) kho tài 
nguyên thông tin đặc thù, thì chính là nhờ 
chúng, việc chia sẻ thông tin trở nên bình 
đẳng hơn, một khi trong hợp tác các bên 
cùng có lợi, và điều đó phù hợp với quy 
luật của nền kinh tế thị trường. 
Phát triển tài nguyên thư viện số tại 
Trung tâm là cách làm khoa học, tận dụng 
những thành quả hiện đại của công nghệ 
thông tin, cho phép Trung tâm này trong 
một thời gian ngắn nhất có thể thỏa mãn 
nhu cầu của NDT, do có thể liên kết với tất 
cả các cơ sở thông tin – thư viện ở Viện 
KHXH Việt Nam, vốn có truyền thống 
hoạt động phi tập trung hóa. 
Là một thư viện phục vụ đào tạo 
sau đại học, Trung tâm có thể tổ chức tốt 
các dịch vụ thư viện hỗ trợ khai thác và 
phát triển tài nguyên thông tin cho NDT là 
các cá nhân nhà nghiên cứu chuyên sâu, vì 
đây chắc chắn là những người biết đánh 
giá đúng mức giá trị của thông tin (khoa 
học và cập nhật), lại có năng lực tài chính 
nhưng thiếu thời gian (đôi khi cũng thiếu 
cả kinh nghiệm tra cứu).cho việc tìm kiếm 
và khai thác kịp thời, trong một khoảng 
thời gian nhất định (trước khi hoàn thành 
luận văn/luận án). Như thế, Trung tâm có 
thể cung cấp cả tài liệu dưới dạng số hóa 
phục vụ cho nghiên cứu, ngoài việc bán 
giáo trình (của Học viện và các cơ sở đào 
tạo khác). 
3. Kết luận 
Không chỉ phục vụ người học và 
giảng viên trong Học viên, khi Trung tâm 
trở thành môt thư viện hiện đại, với những 
tài nguyên thông tin đặc thù thì đây sẽ là 
một địa chỉ tìm tin cần tiếp cận đối với các 
nhà KHXH và nhân văn ở các cơ sở đào 
tạo khác trong nước và thế giới - ít ra là 
đối với các học giả quan tâm đến nghiên 
cứu về Việt Nam. 
Đương nhiên, ngoài đối tượng 
chính là giảng viên và sinh viên trong Học 
viện, Trung tâm muốn trở thành thư viện 
sau đại học đẳng cấp quốc tế không chỉ 
phục vụ quốc gia (một khi các chuyên gia 
trong nước muốn có được những thông tin 
chính thức và đầy đủ) mà còn có đủ khả 
năng đáp ứng nhu cầu thông tin của đồng 
nghiệp và sinh viên quốc tế (trong những 
chương trình hợp tác nghiên cứu và giảng 
dạy)  giữa các tổ chức đại học quốc gia 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2012 
9
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hồ Sĩ Quý - Vương Toàn chb (2011).- Thư viện khoa học xã hội. Hà Nội, Nxb Khoa 
học xã hội, 392 tr. 
2. Vương Toàn (2007).- Thư viện khoa học với tài nguyên thông tin đặc thù. "Bản tin 
Thư viện - Công nghệ thông tin". Trường ĐH Khoa học Tư nhiên TP Hồ Chí Minh, 
tháng 10, tr. 9-13.  
3. Vương Toàn (2010).- Phi tập trung hoá hoạt động thông tin - thư viện và chia sẻ tài 
nguyên thông tin ở Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. "Bản tin Thư viện - Công nghệ 
thông tin". Trường ĐH Khoa học Tư nhiên TP Hồ Chí Minh, tháng 12, tr. 38-43. 
4. Vương Toàn (2012).- Dịch vụ thư viện: Kinh nghiệm về hỗ trợ khai thác và phát triển 
tài nguyên thông tin. Bản tin Thư viện - Công nghệ thông tin, tháng 6, tr. 32-38. 
và quốc tế hoặc giữa các chuyên gia hoặc 
nhà khoa học. 
Ngoài nỗ lực của đội ngũ cán bộ tại 
Trung tâm, cần tranh thủ sự ủng hộ của 
bên ngoài và bên trong Viện KHXH Việt 
Nam đến mức tối đa để tạo điều kiện thuân 
lợi nhất cho việc thực hiện (những) dự án 
khả thi nhất. Với một cơ sở thư viện non 
trẻ, đôi khi việc tranh thủ sự cộng tác của 
những người có kinh nghiệm không chỉ là 
cần thiết mà có tính kinh tế cao, bởi có thể 
tiết kiệm thời gian và ngân sách hơn nhiều. 
Trong những hoàn cảnh nhất định, những 
gợi ý và đề xuất hợp lý của (nhiều) chuyên 
gia với cấp trên hoặc đối tác thường mang 
tính khách quan nên dễ được chấp nhận 
hơn (chẳng hạn như việc một Trung tâm 
thư viện đại học lớn đã nhận được một dự 
án không nhỏ của quỹ hỗ trợ thư viện từ 
nước ngoài, sau khi Ban Giám đốc và nhà 
tài trợ được nghe những phân tích của các 
chuyên gia tư vấn). Viết đến đây, tôi liên 
tưởng đến nhận xét rất xác đáng của một 
nữ ThS thư viện học: “Chính sách mà lãnh 
đạo đề ra cho một cơ quan đôi khi làm cho 
cơ quan đó hoặc phát triển hoặc dậm chân 
tại chỗ, thậm chí còn trở thành lạc hậu so 
với thời đại”. 
 Hà Nội 
 Tháng 8/2012

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_tai_nguyen_so_de_tro_thanh_mot_thu_vien_dac_thu.pdf