Nhập môn về Báo cáo tài chính

Kế toán tài chính chi phối quá trình chuẩn bị các báo cáo tài chính. Trong phạm

vi của các hướng dẫn dựa trên những nguyên tắc kế toán được thừa nhận (GAAP -

Generally Accepted Accounting Principles), mục tiêu của kế toán tài chính là trình bày

một cách rõ ràng tình hình tài chính của công ty cho các cổ đông hoặc những người

cho vay hiện tại và tương lai, cho các nhà phân tích thị trường chứng khoán và cho

các đối tượng khác có quan tâm. Các báo cáo tài chính thường được các kế toán viên

công (CPAs - Certified Public Accountants) độc lập chứng thực sau khi nó được kiểm

tra bằng cách dùng các tiêu chuẩn kiểm toán được thừa nhận và (trong phần lớn các

trường hợp) được dùng để trình bày một cách rõ ràng tình hình tài chính của công ty

theo các nguyên tắc kế toán được thừa nhận

Thuật ngữ “Các nguyên tắc kế toán được thừa nhận” có thể gây ra ít nhiều

tranh luận trong lĩnh vực kế toán tài chính. Mặc dù thuật ngữ này đã được dùng phổ

biến trên 3 thập kỷ qua, nhưng dường như đó vẫn chưa phải là cách định nghĩa duy

nhất hoặc liệt kê đầy đủ mọi nguyên tắc có khả năng được các nhà lý thuyết và thực

hành nhất trí thừa nhận. Với tư cách là một định nghĩa để làm việc, chúng ta có thể

sử dụng cách nói sau đây về GAAP:

GAAP: là một hệ thống các mục tiêu, quy ước và nguyên tắc, được đúc kết qua

nhiều năm, chi phối quá trình chuẩn bị và trình bày các báo cáo tài chính. Các

nguyên tắc này áp dụng cho lĩnh vực kế toán tài chính, tách biệt với các lĩnh vực

khác của kế toán như kế toán thuế, kế toán quản lý và kế toán chi phí. Do lĩnh vực

kế toán tài chính được coi như là một khoa học xã hội chứ không phải là khoa họcvật lý, nên điều quan trọng cần chú ý là định nghĩa trên nhấn mạnh tới tính chất tiến

hoá của các quy tắc và các quy chế kế toán. GAAP còn tuỳ thuộc vào nhiều cách giải

thích và áp dụng khác nhau, và rất có thể trong cùng một ngành, hai công ty khác

nhau có thể tiến hành hạch toán cùng một hoạt động giao dịch theo những cách khác

nhau tuy cả hai đều nhằm trong phạm vi hướng dẫn do GAAP đưa ra. Chẳng hạn,

trong phạm vi của lĩnh vực kế toán khấu hao, một công ty có thể hạch toán hao mòn

các thiết bị tư bản của nó trên cơ sở tuyến tính, trong khi công ty khác trong cùng

ngành lại hạch toán theo phương pháp khấu hao nhanh. Bản thân khấu hao là một

chủ đề tương đối phức tạp và phần này sẽ được giải quyết chi tiết hơn trong chương

5. Hiện tại, ta chỉ cần nhận xét rằng kế toán khấu hao th ực ra chỉ là những phương

tiện để phân bổ phần hao phí của các tài sản lâu bền theo một số kỳ hạch toán có sử

dụng tài sản đó.

pdf 23 trang kimcuc 6840
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Nhập môn về Báo cáo tài chính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhập môn về Báo cáo tài chính

Nhập môn về Báo cáo tài chính
NHẬP MÔN VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH 
Lấy từ "Tài chính và kế toán giành cho các nhà quản lý không chuyên về tài 
chính” của William G.Drams tái bản. Bản quyền năm 1989 - Nhà xuất bản Addison - 
Wesley 
• Các mục tiêu của kế toán tài chính 
• Ý kiến của người kiểm toán 
• Các báo cáo tài chính cơ bản 
• Giá trị kế toán của các chứng khoán 
• Báo cáo thu nhập 
• Báo cáo về sự thay đổi tình hình tài chính 
Các mục tiêu của kế toán tài chính 
Kế toán tài chính chi phối quá trình chuẩn bị các báo cáo tài chính. Trong phạm 
vi của các hướng dẫn dựa trên những nguyên tắc kế toán được thừa nhận (GAAP - 
Generally Accepted Accounting Principles), mục tiêu của kế toán tài chính là trình bày 
một cách rõ ràng tình hình tài chính của công ty cho các cổ đông hoặc những người 
cho vay hiện tại và tương lai, cho các nhà phân tích thị trường chứng khoán và cho 
các đối tượng khác có quan tâm. Các báo cáo tài chính thường được các kế toán viên 
công (CPAs - Certified Public Accountants) độc lập chứng thực sau khi nó được kiểm 
tra bằng cách dùng các tiêu chuẩn kiểm toán được thừa nhận và (trong phần lớn các 
trường hợp) được dùng để trình bày một cách rõ ràng tình hình tài chính của công ty 
theo các nguyên tắc kế toán được thừa nhận 
Thuật ngữ “Các nguyên tắc kế toán được thừa nhận” có thể gây ra ít nhiều 
tranh luận trong lĩnh vực kế toán tài chính. Mặc dù thuật ngữ này đã được dùng phổ 
biến trên 3 thập kỷ qua, nhưng dường như đó vẫn chưa phải là cách định nghĩa duy 
nhất hoặc liệt kê đầy đủ mọi nguyên tắc có khả năng được các nhà lý thuyết và thực 
hành nhất trí thừa nhận. Với tư cách là một định nghĩa để làm việc, chúng ta có thể 
sử dụng cách nói sau đây về GAAP: 
GAAP: là một hệ thống các mục tiêu, quy ước và nguyên tắc, được đúc kết qua 
nhiều năm, chi phối quá trình chuẩn bị và trình bày các báo cáo tài chính. Các 
nguyên tắc này áp dụng cho lĩnh vực kế toán tài chính, tách biệt với các lĩnh vực 
khác của kế toán như kế toán thuế, kế toán quản lý và kế toán chi phí. Do lĩnh vực 
kế toán tài chính được coi như là một khoa học xã hội chứ không phải là khoa học 
vật lý, nên điều quan trọng cần chú ý là định nghĩa trên nhấn mạnh tới tính chất tiến 
hoá của các quy tắc và các quy chế kế toán. GAAP còn tuỳ thuộc vào nhiều cách giải 
thích và áp dụng khác nhau, và rất có thể trong cùng một ngành, hai công ty khác 
nhau có thể tiến hành hạch toán cùng một hoạt động giao dịch theo những cách khác 
nhau tuy cả hai đều nhằm trong phạm vi hướng dẫn do GAAP đưa ra. Chẳng hạn, 
trong phạm vi của lĩnh vực kế toán khấu hao, một công ty có thể hạch toán hao mòn 
các thiết bị tư bản của nó trên cơ sở tuyến tính, trong khi công ty khác trong cùng 
ngành lại hạch toán theo phương pháp khấu hao nhanh. Bản thân khấu hao là một 
chủ đề tương đối phức tạp và phần này sẽ được giải quyết chi tiết hơn trong chương 
5. Hiện tại, ta chỉ cần nhận xét rằng kế toán khấu hao th ực ra chỉ là những phương 
tiện để phân bổ phần hao phí của các tài sản lâu bền theo một số kỳ hạch toán có sử 
dụng tài sản đó. 
Hiện có một số nguồn thông tin đáng tin cậy cho chúng ta những hướng dẫn chi 
tiết để xây dựng một phương pháp kế toán chấp nhận được. Các nguyên tắc này có 
thể tạm coi là hệ thống các “quy tắc” chi phối quá trình chuẩn bị các báo cáo tài 
chính. Phần chủ yếu trong số các quy tắc này là do Viện đào tạo các k ế toán viên 
công (AICPA - American Institute of Certified Public Accountants) xây dựng 51 
chuyên san nghiên cứu kế toán (ARBs - Accounting Research Bullentins) do AICPA 
phát hành và 31 luận đề trong các bảng nguyên tắc kế toán của AICPA (APB - 
Accounting Principles Board) là một bộ tài liệu chi tiết về quan điểm của Viện trên 
một phạm vi rất rộng lớn các vấn đề về kế toán. Mỗi luận đề của APB đề cập tới một 
chủ đề chuyên môn hóa và đưa ra hướng dẫn chi tiết về lĩnh vực này. Chẳng hạn, 
luận đề số 15 của APB đề cập tới cách tính toán và trình bày về mức tiền lãi ban đầu. 
Theo hướng tương tự, ủy ban chứng khoán và hối đoái (SEC - Securities and 
Exchange Commission) đã đưa ra khá nhiều chỉ dẫn dưới hình thức những giải đáp 
tuần tự về kế toán (Accounting Series Release). Mới đây nhất, bảng các tiêu chuẩn 
kế toán tài chính (FASB - Financial Accounting Standards Board) thay thế cho APB 
vào năm 1973 đã đưa ra một loạt luận đề về FASB đáp ứng cho yêu cầu liên tiếp của 
các nhà kế toán và phân tích tài chính cần làm sáng tỏ đầy đủ tình hình tài chính của 
mỗi công ty. Một số luận đề đầu tiên của FASB như luận đề FASB số 8 đề cập tới vấn 
đề lỗ lãi ngoại tệ và FASB số 13 đề cập tới vấn đề kế toán cho thuê đã có ảnh hưởng 
lớn tới cách báo cáo và diễn giải các thông tin tài chính công ty. Một danh mục tóm 
tắt tiện lợi nhưng tất nhiên không phải là đầy đủ tất cả các nguồn thông tin về các 
“quy tắc” kế toán là: 
• Những giải đáp tuần tự về kế toán của SEC (SEC Accounting Series 
Release); 
• Các chuyên gia nghiên cứu kế toán của AICPA (AICPA Accounting 
Research Bulletins - ARB); 
• Bảng các nguyên tắc kế toán của AICPA (AICPA Accounting Principles 
Board-APB); 
• Bảng các tiêu chuẩn kế toán tài chính (Financial Accounting Standards 
Boards - FASB). 
Cuối cùng, nhận xét về định nghĩa của GAAP, chúng tôi muốn lưu ý rằng GAAP 
chí áp dụng cho lĩnh vực kế toán tài chính chứ không d ù ng cho các lĩnh vực kế toán 
chủ yếu khác như kế toán thuế, quản lý và chi phí. Các lĩnh vực kế toán này có 
những mục tiêu khác và do đó không nên hi vọng là chúng có thể thích hợp với hệ 
thống các nguyên tắc thiết kế nhằm đáp ứng những nhu cầu của kế toán tài chính. 
Nói một cách nôm na thì mục tiêu của kế toán thuế là nhằm cực tiểu hóa nghĩa vụ 
đóng thuế của công ty trong phạm vi những giới hạn của các luật thuế thu nhập hiện 
hành. Trong khi mục tiêu của kế toán quản lý là để thu thập, báo cáo và giải thích 
những thông tin cần thiết cho việc ra quyết định quản lý. Còn trong kế toán chi phí, 
mục tiêu chủ yếu là xác định và phân bố các chi phí thích hợp trong tổ chức kinh 
doanh. 
Những mục tiêu khác nhau này rõ ràng là khá đa dạng và người ta cần phải tìm 
ra nhiều biện pháp kỹ thuật khác biệt cho các lĩnh vực khác nhau. Như vậy, rất dễ 
hiểu đối với hiện tượng này là cùng một hoạt động giao dịch nhưng lại được kế toán 
theo những cách khác nhau. Một lần nữa, lại có thể thấy ví dụ rõ nhất về tính đa 
dạng này là trong lĩnh vực kế toán khấu hao. Một điều rất phổ biến là các công ty 
thường sử dụng phương pháp khấu hao tuyến tính trong các báo cáo tài chính của họ 
nhằm trình bày rõ ràng các kết quả hoạt động trong năm cho các cổ đông, trong khi 
đồng thời lại báo cáo dưới dạng khấu hao nhanh cho Sở thuế vụ để cực tiểu hóa 
nghĩa vụ đóng thuế hiện tại của công ty. Tất nhiên, cách khấu hao nhanh không cho 
phép công ty lẩn tránh được việc nộp thuế nhưng nó cho phép hoãn nghĩa vụ nộp 
thuế sang một thời kỳ tương lai và cung cấp thêm nguồn quỹ cho việc tái đầu tư hiện 
tại - nói tóm lại, thời gian là tiền bạc. 
Ở đây, ta càng thấy rõ ràng một lĩnh vực dường như hoàn toàn chính xác là kế 
toán lại phụ thuộc vào mức tự do diễn giải nào đó. Điều này tự nhiên làm cho người 
ta phải suy xét tới tầm quan trọng của sự hiểu biết về “bản chất của con mồi” trước 
khi tiến hành thảo luận về những loại hình báo cáo tài chính khác nhau hoặc khai 
thác những phương pháp - kỹ thuật kế toán máy móc. Do đó, bây giờ, chúng ta hãy 
tập trung sự chú ý vào ý nghĩa và tầm quan trọng trong ý kiến của một nhà kiểm 
toán và nghệ thuật tinh tế trong việc đọc lời chú thích. 
Ý kiến của người kiểm toán 
Cách tốt nhất để bắt đầu thảo luận về ý kiến của nhà kiểm toán là xem xét cái gọi là 
“một ý kiến rõ ràng”. Minh họa 3.1 thể hiện một ý rõ ràng (chỗ nhấn mạnh là do tác 
giả thực hiện).
Ít nhất thì việc ghi nhận xem điều gì không được nói tới trong minh hoạ 3.1 
cũng quan trọng như việc ghi nhận điều được nói đến. Nó không nói rằng tất cả các 
hoạt động giao dịch đều được kiểm toán, nó không chứng thực độ chính xác của các 
báo cáo, nó không nói rằng công ty được quản lý tốt và rằng các cổ đông không phải 
lo ngại về khoản đầu tư của họ. Nó không nói rằng những người kiểm toán tin tưởng 
là không thể có một diễn giải sai hoặc một sự gian lận nào. Thậm chí nó cũng không 
cho biết, liệu công ty có khả năng sinh lợi hay không. Không có một điểm nào trong 
số các quan sát này có ý nghĩa là sự phê phán của các kiểm toán viên - chẳng qua 
họ chỉ phản ánh bản chất của kiểm toán và tình trạng của các đối tượng trong kế 
toán. Vì có những vấn đề phức tạp trong thế giới kinh doanh hiện đại và những giới 
hạn của thời gian và nguồn lực trong quá trình kiểm toán, những ý kiến mà các kiểm 
toán viên nêu ra là rất đầy đủ. Trừ trường hợp người ta sẵn sàng chấp nhận lùi thời 
hạn sau một năm hoặc hơn nữa giữa lúc chuẩn bị báo cáo tài chính và lúc hoàn 
thành việc kiểm toán, còn nếu không thì phải đánh giá là các mục tiêu của quá trình 
kiểm toán có lẽ là quá tham vọng. 
Những điều được nêu trong báo cáo của minh họa 3.1 rất có ý nghĩa cho những 
người sử dụng các báo cáo tài chính. Đoạn đầu tiên được gọi là phạm vi, chỉ rõ 
những báo cáo nào đã được kiểm toán và thông báo cho người đọc các tiêu chuẩn 
được thừa nhận về kiểm toán đã được tuân thủ, và rằng những biện pháp kiểm định 
được người kiểm toán xem là cần thiết đã được thực hiện. Cần thấy rõ rằng không 
thể thực hiện được việc kiểm toán hoàn hảo đối với mọi hoạt động giao dịch đơn lẻ ở 
một công ty lớn, trong phạm vi thời gian và kinh phí có hạn. 
Do đó, người ta phải bằng lòng với việc tuân theo các chỉ tiêu chuẩn kiểm toán 
được thừa nhận và với việc hoàn thành những biện pháp kiểm định “cần thiết”. 
Tương tự, trong đoạn thứ hai được gọi là phần ý kiến, người ta phải bằng lòng với ý 
kiến (chứ không phải là lời xác nhận) rằng các báo cáo “trình bày rõ” tình hình tài 
chính của công ty, phù hợp với các nguyên tắc kế toán được thừa nhận. 
Minh họa 3.1 
Kính gửi: Các cổ đông và Ban giám đốc công ty XYZ. 
Chúng tôi đã xem xét báo cáo tình hình tài chính của công ty XYZ và các chi 
nhánh hợp nhất cho đến ngày 31 tháng 12 năm 1983 và năm 1982 cùng các báo cáo 
có liên quan tới số tiền lãi vãng lai, còn lại và những thay đổi về tình hình tài chính 
vào lúc kết thúc của các năm. Việc xem xét của chúng tôi đã được tiến hành theo các 
tiêu chuẩn kiểm toán được thừa nhận, bao gồm kiểm định về các hồ sơ kế toán và 
những thủ tục kiểm toán khác mà chúng tôi cho là cần thiết trong trường hợp này. 
Theo ý kiến của chúng tôi, các báo cáo tài chính nói trên trình bày rõ tình hình 
tài chính của công ty XYZ và các chi nhánh hợp nhất cho đến ngày 31 tháng 12 năm 
1983 và 31 tháng 12 năm 1982 cùng các kết quả hoạt động của họ cũng như những 
thay đổi về tình hình tài chính vào cuối các năm, phù hợp với các nguyên tắc kế toán 
được thừa nhận được áp dụng trên một cơ sở phù hợp. 
Các kế toán công 
Credit và Debit, Inc 
Một loại ý kiến khác với các “ý kiến rõ ràng” được gọi là “ý kiến dè dặt” và 
thường chỉ ra rằng có sự nghi ngờ nào đó là trên thực tế không biết báo cáo tài chính 
đã được kiểm tra có trình bày rõ về tình hình tài chính của công ty hay không? Nếu ý 
kiến dè dặt này được nêu ra thì một điều quan trọng đối với những người sử dụng 
báo cáo tài chính này là họ phải có sự phán xét độc lập về ý nghĩa của nhận xét dè 
dặt có liên quan tới tình trạng của công ty không. Việc đọc cẩn thận nhận xét này có 
ý nghĩa quan trọng để biết chắc rằng, người đọc hiểu rõ sự cấp bách của vấn đề. 
Đoạn trích sau đây rút ra từ một ý kiến dè dặt về bản báo cáo hàng năm của một 
công ty với tổng số tài sản xấp xỉ 9,5 triệu $, là một thí dụ tốt về nhận xét dè dặt. 
“Khi xem xét đầy đủ hơn điểm lưu ý thứ hai của báo cáo tài chính ngày 
31/10/19...., các phiếu nợ và lãi cộng dồn của công ty Manufacturing Corporations 
tổng cộng đã lên tới xấp xỉ 800.000 $. Việc thu hồi phần tài sản này phụ thuộc vào 
giá trị thuần túy có thể thực hiện được của phần tài sản bị cầm cố như đồ ký gửi 
hoặc phụ thuộc vào thành tích hoạt động trong tương lai của Manufacturing 
Corporations”. 
Nói cách khác, trong số tổng tài sản 9,5 triệu $ được tuyên bố của công ty thì 
gần 800.000 $ hay 8,5 % là do khoản cho vay phải thu nhưng có lẽ không thể thu 
hồi được! Khi thẩm tra đôi chút, người ta có thể nhận ra qua điểm lưu ý thứ hai của 
báo cáo tài chính là công ty Manufacturing Corporations đã bị lưu ý về các khoản nợ, 
nó đang hoạt động thua lỗ với tài khoản cổ phần của các cổ đông bị thâm hụt và hiện 
nay đang tiến hành thương lượng để tái lập các thỏa thuận về nợ. Như vậy, bằng 
cách phân tích tình trạng nợ của công ty, có lẽ khôn ngoan là nên tính tổng giá trị tài 
sản của công ty là 8.700.000 $ chứ không phải là 9.500.000 $. 
Tinh thần của câu chuyện ngắn này là cần phải thận trọng khi đọc tới diễn giải 
ý kiến của người kiểm toán. Cũng cần phải thận trọng khi đọc các chú thích trong các 
báo cáo tài chính. Các chú thích là một bộ phận không tách rời được của các báo cáo 
tài chính và cho ta một tóm tắt quan trọng và hữu ích về các chính sách kế toán của 
công ty. Ngay cả khi đối với một người không phải là nhà phân tích tài chính chuyên 
môn thì việc đọc qua các chú thích dẫu chỉ để có một cảm nghĩ vắn tắt về các chính 
sách kế toán của công ty cũng sẽ có nhiều ý nghĩa. Khi đã nắm được những thông tin 
này, người ta có thể sẵn sàng tiến hành việc xem xét kỹ tất cả các báo cáo tài chính. 
Các báo cáo tài chính cơ bản 
Minh họa 3.2 đưa ra một bảng cân đối kế toán điển hình của một công ty chế 
tạo. Có thể hình dung bảng cân đối kế toán là một “bức ảnh chụp nhanh” về tình 
trạng tài chính của công ty vào thời điểm đang xét. Theo ngôn ngữ của nhà kinh tế, 
bảng cân đối kế toán là một báo cáo hàng tồn trữ do nó thể hiện lượng tồn trữ của 
các khoản có, khoản nợ và các cổ phần vào các thời điểm xem xét - trong trường hợp 
này là ngày 31/12/1983 và năm 1982. Bảng cân đối kế toán có ba phần chính: các 
tài sản được liệt kê ở phía trái; các khoản nợ được liệt kê ở phía phải; và các cổ phần 
cũng được liệt kê ở phía phải. Hai phía đó của bảng cân đối kế toán phải bằng nhau - 
đó là logic căn bản của cách thể hiện bảng cân đối kế toán. Các tài sản của bảng cân 
đối liệt kê tổng các nguồn lực của công ty dưới dạng dollar. Ở đây, ta thấy các khoản 
mục như tiền mặt, các khoản phải thu, nhà máy và thiết bị, tài sản dưới dạng các 
khoản cho thuê vốn và các nguồn lực kinh doanh khác. Phía phải của bảng cân đối 
liệt kê những yêu cầu đặt ra đối với bên tài sản. Các khoản nợ như các khoản nợ phải 
trả, các phiếu nợ phải trả, nghĩa vụ trả nợ các hợp đồng thuê vốn và các khoản nợ 
dài hạn thể hiện những yêu cầu đòi nợ của những người cho vay khác nhau đối với 
các loại tài sản này. Phần trội hơn của các tài sản so với những yêu cầu đòi nợ của 
những người cho vay thể hiện phần giá trị thuần túy thuộc về những người sở hữu 
công ty. Giá trị thuần túy này được biểu thị trong phần vốn cổ phần của bảng cân 
đối. Như vậy, nhìn toàn cục, bảng cân đối cho ta một bản liệt kê chi tiết các tài 
khoản cấu thành của cái gọi là phương trình kế toán cơ bản sau đây: 
Các tài sản = Các khoản nợ + Các cổ phần
hay là: 
Tổng các nguồn lực của doanh nghiệp = Quyền của những người cho vay + Quyền của 
những người sở hữu. 
Như vậy, ta có thể thấ ... biệt là các giá trị tính toán 
trong phần cổ phần thường. Trước hết, trong hầu hết các trường hợp, điều hợp lý là 
nên giả thiết về cái mà các nhà kế toán gọi là “mối quan tâm lo lắng hiện có”. Người 
ta có thể cho rằng, không có nguy cơ phá sản sắp xảy ra và do đó, giá trị thanh lý 
của công ty sẽ không phải là một biến số thích hợp để xác định giá trị các chứng 
khoán. Thứ hai là ta cần nhớ rằng việc tính toán giá trị kế toán ngầm định rằng toàn 
bộ tài sản có thể bán được theo giá trị kế toán để thỏa mãn các yêu cầu đòi nợ khác 
nhau. Tùy theo từng hoàn cảnh, điều này có thể đúng hoặc sai. Nếu việc thanh lý 
xảy ra, trên thực tế các tài sản có thể bán với giá cao hơn hoặc thấp hơn so với giá 
trị kế toán. Cuối cùng, người ta có thể thấy rằng các giá trị thị trường của các chứng 
khoán được quy định bởi các lực lượng thị trường mà chúng có thể chỉ có liên hệ với 
các giá trị kế toán khi xét theo giá trị giới hạn. Đối với các trái phiếu và cổ phần ưu 
đãi, giá trị thị trường chủ yếu được xác định bởi tỷ lệ tín dụng của công ty và lãi suất 
hiện hành. Đối với các cổ phần thường, phần lãi của công ty và viễn cảnh kinh tế 
tương lai là điểm cốt yếu cho việc định giá trị. 
Báo cáo thu nhập 
Minh họa 3.3 trình bày hình thái phổ biến của một báo cáo thu nhập. Nếu ta có 
thể coi bảng cân đối kế toán như là một báo cáo dưới dạng “bức ảnh chụp nhanh” 
hoặc báo cáo về “dự trù”, khi ấy có thể hình dung báo cáo thu nhập như một “bức 
tranh chuyển động” hoặc nội dung báo cáo về “luồng”. Báo cáo thu nhập trình bày về 
“luồng” các nguồn thu, các chi phí và các chi tiêu trong toàn công ty vào một năm đã 
biết. Có thể hình dung mối liên hệ giữa báo cáo thu nhập với bảng cân đối như sau: 
Sơ đồ này thể hiện một cách rõ ràng sự khác biệt chủ yếu và mối liên hệ then 
chốt giữa bảng cân đối với báo cáo thu nhập. Bảng cân đối trình bày tình hình tài 
chính của công ty tại thời điểm đang xét, trong khi báo cáo thu nhập miêu tả các kết 
quả hoạt động trong một khoảng thời gian nào đó. Theo ví dụ ở đây, hai bảng cân 
đối cho ta thấy tình hình của công ty vào 31/12/1982 và 31/12/1983 trong khi báo 
cáo thu nhập cung cấp các thông tin có liên quan tới vấn đề là công ty chuyển dịch 
như thế nào từ trạng thái hiện có vào cuối năm 1982 tới trạng thái vào cuối năm 
1983. 
Nửa trên của báo cáo về phần thu nhập vãng lai và còn giữ lại trong minh họa 
3.3 cho thấy doanh thu trong năm của công ty, các loại chi phí và chi tiêu khác nhau, 
thu nhập thuần túy trước và sau thuế và thu nhập tính cho một cổ phần thường. 
Doanh số thể hiện tổng doanh thu của công ty trong vòng một năm chưa tính, số 
thực lãi trong mọi hoạt động kinh doanh hoặc các khoản chiết khấu được phép. Chi 
phí cho các sản phẩm bán ra gồm các khoản mục như chi phí nguyên vật liệu, chi phí 
lao động trực tiếp trong nhà máy và các chi phí chung (tổng phí) trong nhà máy. 
Phần khấu hao biểu thị tiền khấu hao nhà máy và thiết bị trong năm tính theo dollar, 
trong khi chi phí bán hàng và quản lý biểu thị toàn bộ các loại chi phí hoạt động 
khác. Trừ tổng chi phí hoạt động ra khỏi doanh số ta được số lợi nhuận hoạt động 
hoặc lãi gộp thu được từ các hoạt động thông thường của công ty. Khoản thu nhập 
khác, thường là các phần thu nhập linh tinh từ các nguồn khác nằm ngoài hoạt động 
bình thường như phần lãi thu được trên các phiếu nợ phải thu do công ty giữ, trên 
các phần lãi và lỗ của vốn đầu tư và các khoản mục tương tự. Tiếp theo là khoản chi 
phí trả lãi vay nợ. Thông thường, các khoản mục này được liệt kê riêng do nó biểu thị 
một khoản chi tiêu tài chính, đó là chi tiêu do quyết định của công ty trong vấn đề là 
trang trải tài chính bằng cách nào (vay nợ hay bán cổ phần) chứ không phải là chỉ 
tiêu sinh ra do các hoạt động bình thường của công ty. 
Cuối cùng, việc trừ chi phí trả lãi sẽ cho ta phần thu nhập trước thuế của công 
ty. Khấu trừ thuế ta sẽ được “dòng cuối cùng” - đó là thu nhập thuần túy trong vòng 
một năm. 
Minh họa 3.3 
Liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp Hoya 
báo cáo về các khoản thu nhập vãng lai và còn giữ lại 
 1983 ($) 1983 ($) 
Doanh thu 13.413.000 11.575.000 
Các chi phí hoạt động 
Giá vốn hàng bán 7.467.000 7.194.000 
Khấu hao 376.000 334.000 
Chi phí bán và quản lý 4.575.000 3.092.000 
Tổng chi phí 12.418.000 10.620.000 
Lợi nhuận hoạt động 995.000 955.000 
Thu nhập khác 186.000 184.000 
Tổng thu nhập 1.181.000 1.139.000 
Chi trả lãi (180.000) (184.000) 
Thu nhập trước thuế 1.001.000 955.000 
Đóng thuế thu nhập (382.000) (371.000) 
Thu nhập thuần túy 619.000 584.000 
Cổ phần thường hiện có 104.000 102.000 
Thu nhập thuần túy trên một cổ phần thường 5,71 5,38 
Báo cáo về lãi tích lũy còn giữ lại 
Thu nhập còn giữ lại vào 1/1 2.684.000 2.390.000 
Thu nhập thuần túy trong năm 619.000 584.000 
Tổng số 3.303.000 2.974.000 
Trừ đi cổ tức trả cho: 
hhhhh- Cổ phần ưu đãi 25.500 35.000 
hhhhh- Cổ phần thường 276.000 255.000 
Thu nhập còn giữ lại vào 31/12 3.001.000 2.684.000 
Do những người sở hữu công ty thường quan tâm nhất đến số thu nhập tính 
cho mỗi cổ phần thường cho nên dòng cuối cùng được biểu thị trên cơ sở tính cho 
mỗi cổ phần. Con số này được tính bằng cách lấy thu nhập thuần túy trừ đi mọi 
khoản cổ tức ưu đãi rồi chia cho số cổ phần thường trung bình trong năm. Cần phải 
trừ đi số cổ tức ưu đãi, bởi vì khác với số trả lãi cho những người giữ trái phiếu, số lãi 
này không phải là được miễn trừ thuế kinh doanh. Cũng y như cổ phần thường, cổ 
phần ưu là một loại chứng khoán về quyền sở hữu và mọi khoản cổ tức đã trả sẽ 
được coi như khoản đóng góp lợi nhuận cho những người chủ hợp pháp của công ty. 
Trong trường hợp của liên hiệp Hoya, lãi cho mỗi cổ phần được tính như sau: 
 1983 ($) 1983 ($) 
Thu nhập thuần túy 619.000 584.000 
Trừ đi cổ tức ưu đãi (25.500) (35.000) 
Thu nhập dành cho những người có cổ phần thường 593.500 549.000 
Số cổ phần thường hiện có 104.000 1.020.000 
Thu nhập trên một cổ phần thường 5,71 5,38 
Phần dưới cùng của minh họa 3.3 là báo cáo về thu nhập tích lũy và còn giữ lại, 
nó minh họa cho mối liên hệ chủ yếu giữa bảng cân đối và báo cáo thu nhập. Số thu 
nhập còn giữ lại cho một năm đang khóa sổ (năm đang xét) cần phải bằng với số thu 
nhập tại đầu năm đó (hoặc số thu nhập còn lại của đầu năm trước), cộng với thu 
nhập thuần túy trong năm đang xét (hoặc trừ đi số lỗ thuần túy) trừ đi mọi khoản 
phân bố thu nhập thuần túy (thường là cổ tức). Đôi khi, những khoản phân bố cho 
các thua lỗ, chẳng hạn như giải quyết lần cuối cùng về chi phí tố tụng hoặc thuế thu 
nhập của năm trước, có thể khấu trừ vào tài khoản thu nhập còn giữ lại. Liên hiệp 
các nhà chế tạo công nghiệp Hoya minh họa cho trường hợp điển hình nhất (chú ý 
rằng số thu nhập còn giữ lại vào 31/12/1982 đúng bằng số thu nhập còn lại vào 
1/1/1983): 
Sau khi đã xem xét báo cáo thu nhập, bây giờ chúng ta hãy chú ý đến phạm 
trù quan trọng thứ hai về các báo cáo về luồng tài chính, đó là báo cáo về sự thay 
đổi tình hình tài chính. 
Báo cáo về sự thay đổi tình hình tài chính 
Minh họa 3.4 trình bày báo cáo của các liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp 
Hoya về sự thay đổi tình hình tài chính đối với năm 1983. Khi nhớ lại định nghĩa 
trước đây của chúng ta về vốn lưu động ròng là tài sản lưu động trừ đi nợ ngắn hạn 
và phần thảo luận về tầm quan trọng của vốn hoạt động thì không có gì đáng ngạc 
nhiên về sự tồn tại của một báo cáo tách biệt về luồng tài chính, trong đó trình bày 
sự thay đổi về tình hình vốn hoạt động của công ty qua một năm. Đó là mục đích của 
báo cáo về những thay đổi của tình hình tài chính hay cũng còn thường được gọi là 
báo cáo về các nguồn và các cách sử dụng ngân quỹ, hoặc báo cáo về luồng ngân 
quỹ. Thuật ngữ “ngân quỹ” thường gây sự hiểu lầm cho những người bình thường bởi 
vì đối với các kế toán giỏi và các nhà phân tích tài chính nó có ý nghĩa tương đối 
chuyên sâu vào chuyên môn khác với nghĩa sử dụng thông thường của thuật ngữ này 
khi đề cập tới tiền mặt, thuật ngữ ngân quỹ trong kế toán và tài chính nói về vốn 
hoạt động thuần tuý, còn báo cáo về luồng ngân quỹ nói về những thay đổi của vốn 
hoạt động qua suốt thời kỳ kế toán: 
Ngân quỹ bằng = vốn lưu động ròng = tài sản lưu động - nợ ngắn hạn 
Minh họa 3.4 
Liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp hoya, inc
Báo cáo về những thay đổi tình hình tài chính 1983 
Các nguồn quỹ
Từ các hoạt động: 
hhhhhThu nhập thuần túy 
hhhhhKhấu hao 
Tổng nguồn thu từ các hoạt động 
Sử dụng các tài khoản khác 
Vay thêm nợ dài hạn 
Bán các cổ phần thường 
Tổng các nguồn quỹ sử dụng quỹ
Đầu tư thêm vào nhà máy và thiết bị 
Tái đầu tư vốn cổ phần ưu đãi 
Trả cổ tức cho cổ phần ưu 
Trả cổ tức cho cổ phần thường 
Tổng sử dụng quỹ
619.000 $ 
376.000$ 
995.000 $
83.000$ 
26.000$ 
25.000$ 
1.369.000$
766.000$ 
172.000$ 
255.000$ 
276.500$ 
1.240.000$
Tăng thuần túy trong vốn hoạt động 
Phân tích những thay đổi về vốn hoạt động năm 1977
Tiền mặt và chứng khoán bán được 
Các khoản sẽ phải thu 
Dự trữ 
Các khoản phải trả 
Các phiếu nợ phải trả 
Chỉ tiêu cộng dồn phải trả 
Thuế cộng dồn phải trả 
Số tăng thuần túy vốn hoạt động 
129.000$ 
50.000 $ 
417.000$ 
271.000$ 
178.000$ 
(680.000)$ 
(75.000)$ 
(32.000)$ 
129.000$ 
Mục đích của báo cáo về những thay đổi trong tình hình tài chính có hai mặt. 
Thứ nhất là, nó chỉ ra các nguồn và cách sử dụng các nguồn qũy trong năm và sự 
thay đổi phát sinh trong tình hình vốn lưu động ròng của công ty. Thứ hai là, nó cho 
thấy những thay đổi trong các tài khoản vốn hoạt động riêng lẻ gây ra sự thay đổi 
toàn cục trong vốn lưu động ròng. Khi căn cứ vào định nghĩa, vốn lưu động ròng là 
tài sản lưu động trừ đi nợ ngắn hạn , ta có thể thấy số tăng trong tài sản luu động 
phản ánh sự đóng góp vào số gia tăng vốn hoạt động, trong khi sự gia tăng số nợ 
ngắn hạn phản ánh sự góp phần làm giảm vốn hoạt động. Ngược lại, sự giảm tài sản 
lưu động thể hiện việc góp phần làm giảm vốn lưu động ròng và sự giảm số nợ ngắn 
hạn thể hiện việc góp phần làm tăng vốn lưu động ròng. Tóm lại: 
Sự tăng vốn lưu động ròng:
hhhhhhhSự tăng tài sản lưu động
hhhhhhhSự giảm nợ ngắn hạn
Sự giảm vốn lưu động ròng: 
hhhhhhhSự giảm tài sản lưu động
hhhhhhhSự tăng nợ ngắn hạn
Việc xây dựng báo cáo về những thay đổi tình hình tài chính là một nhiệm vụ 
tương đối phức tạp và tốt nhất là giao cho các nhà kế toán chuyên nghiệp. Tuy 
nhiên, việc hiểu rõ báo cáo rõ ràng là cần thiết và rất quan trọng cho những người sử 
dụng báo cáo tài chính. Về căn bản, báo cáo cung cấp những thông tin có liên quan 
tới tổng nguồn lực tài chính sẵn có cho công ty trong năm đã qua và cho việc phân 
bố các nguồn lực này. Trong trường hợp của liên hiệp Hoya, chúng ta nhận thấy sự 
thay đổi toàn cục về vốn lưu động ròng trong năm lịch 1983 như sau: 
Vốn lưu động ròng -1982 = 4.485.000 $ - 2.700.000$ = 1.785.000 $ 
Vốn lưu động ròng -1983 = 5.223.000 $ - 3.309.000 $ = 1.914.000 $ 
Thay đổi thuần túy trong vốn lưu động ròng -1983 bằng 129.000$. 
Khi chú ý vào phần cuối của minh họa 3.4- phần phân tích những thay đổi vốn 
lưu động ròng trong năm 1983, chúng ta thấy rằng số tăng trong toàn bộ tài sản lưu 
động (tiền mặt, chứng khoán bán được trên thị trường, các khoản phải thu và các 
khoản dự trữ) và số giảm nợ ngắn hạn (các khoản phải trả) đã góp phần làm tăng số 
vốn lưu động ròng của công ty. Số tăng này bù trừ lại phần nào cho số tăng các 
khoản nợ ngắn hạn còn lại (các phiếu nợ phải trả, các chi phí dồn lại phải trả, các 
khoản thuế dồn lại phải trả). Tất nhiên, kết quả thuần túy cho số tăng là 129.000 $: 
Số tăng vốn lưu động 
hhhhhTăng tài sản lưu động 
hhhhhGiảm nợ ngắn hạn 
Tổng số tăng vốn lưu động ròng 
Sự giảm vốn lưu động ròng 
hhhhhTăng nợ ngắn hạn 
Số tăng thuần túy trong vốn lưu động 
ròng
738.000 $ 
178.000 $ 
916.000 $ 
(787.000) 
129.000 $ 
Phần trên của minh họa 3.4 cho thấy các nguồn và cách sử dụng quỹ trong 
năm làm tăng vốn lưu động ròng là $ 129.000. Hầu hết phần các nguồn quỹ luôn 
luôn được bắt đầu với các nguồn quỹ do các hoạt động trong năm đem lại. Con số 
này bao gồm thu nhập thuần túy như đã báo cáo trong báo cáo thu nhập cộng với 
mọi thay đổi không phải là tiền mặt như chi phí khấu hao. Do phần khấu hao thể 
hiện phần phân bổ chi phí của các khoản đầu tư của công ty trong quá khứ cho nên 
chi phí khấu hao được khấu trừ đi trong báo cáo thu nhập không đòi hỏi phải chi 
dùng quỹ hiện tại và do đó cần phải được cộng lại vào thu nhập khi xác định nguồn 
tổng cộng do các hoạt động tạo ra. Bên cạnh toàn bộ nguồn qũy do các hoạt động 
tạo ra còn có các nguồn quỹ khác không phải do hoạt động đem lại như bán các tài 
sản cố định, vay nợ dài hạn mới, bán cổ phiếu và các khoản tương tự. Tổng các 
khoản này cộng với nguồn quỹ do hoạt động đem lại thể hiên toàn bộ nguồn quỹ mà 
công ty có trong năm. 
Phần sử dụng đã được thể hiện khá rõ ràng, ở đây, ta có thể thấy danh mục sử 
dụng quỹ của công ty trong năm. Trong trường hợp của Liên hiệp Hoya, quỹ đã được 
sử dụng để mua nhà máy và thiết bị mới, để mua lại một số cổ phần ưu đãi và để trả 
cổ tức. Tất nhiên, kết quả thuần túy của tất cả các hoạt động này cần phải bằng tổng 
số đã xác định trước đây là 129.000 $. 
Nguồn quỹ có được từ hoạt động 
Nguồn quỹ có được từ các nguồn ngoài 
hoạt động 
Tổng các nguồn quỹ 
Phần sử dụng quỹ 
Số tăng thuần túy trong vốn hoạt động 
995.000 $ 
374.000 $ 
1.369.000 
$ 
(1.240.000) 
129.000 $ 
Như vậy, chúng ta thấy rằng báo cáo về luồng ngân quỹ cho ta thông tin quan 
trọng về sự quản lý của công ty đối với các nguồn lực của các cổ đông và cho ta một 
bức tranh hữu ích về luồng các nguồn quỹ trong toàn công ty. Sau khi đã xem xét 
toàn bộ các phạm trù chính của báo cáo tài chính, bây giờ chúng ta sẽ chuyển sang 
chương về cấu trúc của hệ thống thông tin tài chính, nhằm cho phép thu thập, báo 
cáo và giải thích một cách thông minh về thông tin tài chính. 
Tóm tắt 
Mục tiêu của kế toán tài chính là trình bày rõ ràng về tình hình tài chính của 
một tổ chức kinh doanh. Các nguyên tắc kế toán được thừa nhận (GAAP) đưa ra 
những hướng dẫn cho cách trình bày các báo cáo tài chính. GAAP chỉ áp dụng cho 
lĩnh vực kế toán tài chính và không áp dụng cho các lĩnh vực kế toán chủ yếu khác 
như kế toán thuế, quản lý và chi phí. Các kế toán gia công chứng kiểm toán các báo 
cáo tài chính và đưa ra ý kiến là liệu các báo cáo có trình bày rõ ràng về tình hình tài 
chính của một công ty hay không. Một ý kiến dè dặt thường chỉ ra một điểm nào đó 
chưa phù hợp với GAAP. 
Bản cân đối cho ta một “bức ảnh chụp nhanh” về tình tài chính của một công ty 
vào một ngày tháng đã định, danh mục các tài sản, các khoản nợ, và các cổ phần 
của công ty. Theo định nghĩa, các tài sản cần phải bằng tổng các khoản nợ và các cổ 
phần. Báo cáo thu nhập có thể được coi là một “bức tranh chuyển động” biểu thị các 
luồng doanh thu, chi phí, chi tiêu trong toàn công ty trong vòng một năm hoặc một 
thời kỳ kế toán đã cho. Báo cáo về những thay đổi tình hình tài chính cho thấy, các 
nguồn và các cách sử dụng quỹ trong một năm và kết quả thay đổi trong tình hình 
vốn lưu động ròng của công ty. Nó cũng cho thấy những thay đổi trong các tài khoản 
vốn lưu động riêng lẻ đã tạo ra sự thay đổi toàn cục trong vốn lưu 

File đính kèm:

  • pdfnhap_mon_ve_bao_cao_tai_chinh.pdf