Nhập môn về Báo cáo tài chính
Kế toán tài chính chi phối quá trình chuẩn bị các báo cáo tài chính. Trong phạm
vi của các hướng dẫn dựa trên những nguyên tắc kế toán được thừa nhận (GAAP -
Generally Accepted Accounting Principles), mục tiêu của kế toán tài chính là trình bày
một cách rõ ràng tình hình tài chính của công ty cho các cổ đông hoặc những người
cho vay hiện tại và tương lai, cho các nhà phân tích thị trường chứng khoán và cho
các đối tượng khác có quan tâm. Các báo cáo tài chính thường được các kế toán viên
công (CPAs - Certified Public Accountants) độc lập chứng thực sau khi nó được kiểm
tra bằng cách dùng các tiêu chuẩn kiểm toán được thừa nhận và (trong phần lớn các
trường hợp) được dùng để trình bày một cách rõ ràng tình hình tài chính của công ty
theo các nguyên tắc kế toán được thừa nhận
Thuật ngữ “Các nguyên tắc kế toán được thừa nhận” có thể gây ra ít nhiều
tranh luận trong lĩnh vực kế toán tài chính. Mặc dù thuật ngữ này đã được dùng phổ
biến trên 3 thập kỷ qua, nhưng dường như đó vẫn chưa phải là cách định nghĩa duy
nhất hoặc liệt kê đầy đủ mọi nguyên tắc có khả năng được các nhà lý thuyết và thực
hành nhất trí thừa nhận. Với tư cách là một định nghĩa để làm việc, chúng ta có thể
sử dụng cách nói sau đây về GAAP:
GAAP: là một hệ thống các mục tiêu, quy ước và nguyên tắc, được đúc kết qua
nhiều năm, chi phối quá trình chuẩn bị và trình bày các báo cáo tài chính. Các
nguyên tắc này áp dụng cho lĩnh vực kế toán tài chính, tách biệt với các lĩnh vực
khác của kế toán như kế toán thuế, kế toán quản lý và kế toán chi phí. Do lĩnh vực
kế toán tài chính được coi như là một khoa học xã hội chứ không phải là khoa họcvật lý, nên điều quan trọng cần chú ý là định nghĩa trên nhấn mạnh tới tính chất tiến
hoá của các quy tắc và các quy chế kế toán. GAAP còn tuỳ thuộc vào nhiều cách giải
thích và áp dụng khác nhau, và rất có thể trong cùng một ngành, hai công ty khác
nhau có thể tiến hành hạch toán cùng một hoạt động giao dịch theo những cách khác
nhau tuy cả hai đều nhằm trong phạm vi hướng dẫn do GAAP đưa ra. Chẳng hạn,
trong phạm vi của lĩnh vực kế toán khấu hao, một công ty có thể hạch toán hao mòn
các thiết bị tư bản của nó trên cơ sở tuyến tính, trong khi công ty khác trong cùng
ngành lại hạch toán theo phương pháp khấu hao nhanh. Bản thân khấu hao là một
chủ đề tương đối phức tạp và phần này sẽ được giải quyết chi tiết hơn trong chương
5. Hiện tại, ta chỉ cần nhận xét rằng kế toán khấu hao th ực ra chỉ là những phương
tiện để phân bổ phần hao phí của các tài sản lâu bền theo một số kỳ hạch toán có sử
dụng tài sản đó.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhập môn về Báo cáo tài chính
NHẬP MÔN VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH Lấy từ "Tài chính và kế toán giành cho các nhà quản lý không chuyên về tài chính” của William G.Drams tái bản. Bản quyền năm 1989 - Nhà xuất bản Addison - Wesley • Các mục tiêu của kế toán tài chính • Ý kiến của người kiểm toán • Các báo cáo tài chính cơ bản • Giá trị kế toán của các chứng khoán • Báo cáo thu nhập • Báo cáo về sự thay đổi tình hình tài chính Các mục tiêu của kế toán tài chính Kế toán tài chính chi phối quá trình chuẩn bị các báo cáo tài chính. Trong phạm vi của các hướng dẫn dựa trên những nguyên tắc kế toán được thừa nhận (GAAP - Generally Accepted Accounting Principles), mục tiêu của kế toán tài chính là trình bày một cách rõ ràng tình hình tài chính của công ty cho các cổ đông hoặc những người cho vay hiện tại và tương lai, cho các nhà phân tích thị trường chứng khoán và cho các đối tượng khác có quan tâm. Các báo cáo tài chính thường được các kế toán viên công (CPAs - Certified Public Accountants) độc lập chứng thực sau khi nó được kiểm tra bằng cách dùng các tiêu chuẩn kiểm toán được thừa nhận và (trong phần lớn các trường hợp) được dùng để trình bày một cách rõ ràng tình hình tài chính của công ty theo các nguyên tắc kế toán được thừa nhận Thuật ngữ “Các nguyên tắc kế toán được thừa nhận” có thể gây ra ít nhiều tranh luận trong lĩnh vực kế toán tài chính. Mặc dù thuật ngữ này đã được dùng phổ biến trên 3 thập kỷ qua, nhưng dường như đó vẫn chưa phải là cách định nghĩa duy nhất hoặc liệt kê đầy đủ mọi nguyên tắc có khả năng được các nhà lý thuyết và thực hành nhất trí thừa nhận. Với tư cách là một định nghĩa để làm việc, chúng ta có thể sử dụng cách nói sau đây về GAAP: GAAP: là một hệ thống các mục tiêu, quy ước và nguyên tắc, được đúc kết qua nhiều năm, chi phối quá trình chuẩn bị và trình bày các báo cáo tài chính. Các nguyên tắc này áp dụng cho lĩnh vực kế toán tài chính, tách biệt với các lĩnh vực khác của kế toán như kế toán thuế, kế toán quản lý và kế toán chi phí. Do lĩnh vực kế toán tài chính được coi như là một khoa học xã hội chứ không phải là khoa học vật lý, nên điều quan trọng cần chú ý là định nghĩa trên nhấn mạnh tới tính chất tiến hoá của các quy tắc và các quy chế kế toán. GAAP còn tuỳ thuộc vào nhiều cách giải thích và áp dụng khác nhau, và rất có thể trong cùng một ngành, hai công ty khác nhau có thể tiến hành hạch toán cùng một hoạt động giao dịch theo những cách khác nhau tuy cả hai đều nhằm trong phạm vi hướng dẫn do GAAP đưa ra. Chẳng hạn, trong phạm vi của lĩnh vực kế toán khấu hao, một công ty có thể hạch toán hao mòn các thiết bị tư bản của nó trên cơ sở tuyến tính, trong khi công ty khác trong cùng ngành lại hạch toán theo phương pháp khấu hao nhanh. Bản thân khấu hao là một chủ đề tương đối phức tạp và phần này sẽ được giải quyết chi tiết hơn trong chương 5. Hiện tại, ta chỉ cần nhận xét rằng kế toán khấu hao th ực ra chỉ là những phương tiện để phân bổ phần hao phí của các tài sản lâu bền theo một số kỳ hạch toán có sử dụng tài sản đó. Hiện có một số nguồn thông tin đáng tin cậy cho chúng ta những hướng dẫn chi tiết để xây dựng một phương pháp kế toán chấp nhận được. Các nguyên tắc này có thể tạm coi là hệ thống các “quy tắc” chi phối quá trình chuẩn bị các báo cáo tài chính. Phần chủ yếu trong số các quy tắc này là do Viện đào tạo các k ế toán viên công (AICPA - American Institute of Certified Public Accountants) xây dựng 51 chuyên san nghiên cứu kế toán (ARBs - Accounting Research Bullentins) do AICPA phát hành và 31 luận đề trong các bảng nguyên tắc kế toán của AICPA (APB - Accounting Principles Board) là một bộ tài liệu chi tiết về quan điểm của Viện trên một phạm vi rất rộng lớn các vấn đề về kế toán. Mỗi luận đề của APB đề cập tới một chủ đề chuyên môn hóa và đưa ra hướng dẫn chi tiết về lĩnh vực này. Chẳng hạn, luận đề số 15 của APB đề cập tới cách tính toán và trình bày về mức tiền lãi ban đầu. Theo hướng tương tự, ủy ban chứng khoán và hối đoái (SEC - Securities and Exchange Commission) đã đưa ra khá nhiều chỉ dẫn dưới hình thức những giải đáp tuần tự về kế toán (Accounting Series Release). Mới đây nhất, bảng các tiêu chuẩn kế toán tài chính (FASB - Financial Accounting Standards Board) thay thế cho APB vào năm 1973 đã đưa ra một loạt luận đề về FASB đáp ứng cho yêu cầu liên tiếp của các nhà kế toán và phân tích tài chính cần làm sáng tỏ đầy đủ tình hình tài chính của mỗi công ty. Một số luận đề đầu tiên của FASB như luận đề FASB số 8 đề cập tới vấn đề lỗ lãi ngoại tệ và FASB số 13 đề cập tới vấn đề kế toán cho thuê đã có ảnh hưởng lớn tới cách báo cáo và diễn giải các thông tin tài chính công ty. Một danh mục tóm tắt tiện lợi nhưng tất nhiên không phải là đầy đủ tất cả các nguồn thông tin về các “quy tắc” kế toán là: • Những giải đáp tuần tự về kế toán của SEC (SEC Accounting Series Release); • Các chuyên gia nghiên cứu kế toán của AICPA (AICPA Accounting Research Bulletins - ARB); • Bảng các nguyên tắc kế toán của AICPA (AICPA Accounting Principles Board-APB); • Bảng các tiêu chuẩn kế toán tài chính (Financial Accounting Standards Boards - FASB). Cuối cùng, nhận xét về định nghĩa của GAAP, chúng tôi muốn lưu ý rằng GAAP chí áp dụng cho lĩnh vực kế toán tài chính chứ không d ù ng cho các lĩnh vực kế toán chủ yếu khác như kế toán thuế, quản lý và chi phí. Các lĩnh vực kế toán này có những mục tiêu khác và do đó không nên hi vọng là chúng có thể thích hợp với hệ thống các nguyên tắc thiết kế nhằm đáp ứng những nhu cầu của kế toán tài chính. Nói một cách nôm na thì mục tiêu của kế toán thuế là nhằm cực tiểu hóa nghĩa vụ đóng thuế của công ty trong phạm vi những giới hạn của các luật thuế thu nhập hiện hành. Trong khi mục tiêu của kế toán quản lý là để thu thập, báo cáo và giải thích những thông tin cần thiết cho việc ra quyết định quản lý. Còn trong kế toán chi phí, mục tiêu chủ yếu là xác định và phân bố các chi phí thích hợp trong tổ chức kinh doanh. Những mục tiêu khác nhau này rõ ràng là khá đa dạng và người ta cần phải tìm ra nhiều biện pháp kỹ thuật khác biệt cho các lĩnh vực khác nhau. Như vậy, rất dễ hiểu đối với hiện tượng này là cùng một hoạt động giao dịch nhưng lại được kế toán theo những cách khác nhau. Một lần nữa, lại có thể thấy ví dụ rõ nhất về tính đa dạng này là trong lĩnh vực kế toán khấu hao. Một điều rất phổ biến là các công ty thường sử dụng phương pháp khấu hao tuyến tính trong các báo cáo tài chính của họ nhằm trình bày rõ ràng các kết quả hoạt động trong năm cho các cổ đông, trong khi đồng thời lại báo cáo dưới dạng khấu hao nhanh cho Sở thuế vụ để cực tiểu hóa nghĩa vụ đóng thuế hiện tại của công ty. Tất nhiên, cách khấu hao nhanh không cho phép công ty lẩn tránh được việc nộp thuế nhưng nó cho phép hoãn nghĩa vụ nộp thuế sang một thời kỳ tương lai và cung cấp thêm nguồn quỹ cho việc tái đầu tư hiện tại - nói tóm lại, thời gian là tiền bạc. Ở đây, ta càng thấy rõ ràng một lĩnh vực dường như hoàn toàn chính xác là kế toán lại phụ thuộc vào mức tự do diễn giải nào đó. Điều này tự nhiên làm cho người ta phải suy xét tới tầm quan trọng của sự hiểu biết về “bản chất của con mồi” trước khi tiến hành thảo luận về những loại hình báo cáo tài chính khác nhau hoặc khai thác những phương pháp - kỹ thuật kế toán máy móc. Do đó, bây giờ, chúng ta hãy tập trung sự chú ý vào ý nghĩa và tầm quan trọng trong ý kiến của một nhà kiểm toán và nghệ thuật tinh tế trong việc đọc lời chú thích. Ý kiến của người kiểm toán Cách tốt nhất để bắt đầu thảo luận về ý kiến của nhà kiểm toán là xem xét cái gọi là “một ý kiến rõ ràng”. Minh họa 3.1 thể hiện một ý rõ ràng (chỗ nhấn mạnh là do tác giả thực hiện). Ít nhất thì việc ghi nhận xem điều gì không được nói tới trong minh hoạ 3.1 cũng quan trọng như việc ghi nhận điều được nói đến. Nó không nói rằng tất cả các hoạt động giao dịch đều được kiểm toán, nó không chứng thực độ chính xác của các báo cáo, nó không nói rằng công ty được quản lý tốt và rằng các cổ đông không phải lo ngại về khoản đầu tư của họ. Nó không nói rằng những người kiểm toán tin tưởng là không thể có một diễn giải sai hoặc một sự gian lận nào. Thậm chí nó cũng không cho biết, liệu công ty có khả năng sinh lợi hay không. Không có một điểm nào trong số các quan sát này có ý nghĩa là sự phê phán của các kiểm toán viên - chẳng qua họ chỉ phản ánh bản chất của kiểm toán và tình trạng của các đối tượng trong kế toán. Vì có những vấn đề phức tạp trong thế giới kinh doanh hiện đại và những giới hạn của thời gian và nguồn lực trong quá trình kiểm toán, những ý kiến mà các kiểm toán viên nêu ra là rất đầy đủ. Trừ trường hợp người ta sẵn sàng chấp nhận lùi thời hạn sau một năm hoặc hơn nữa giữa lúc chuẩn bị báo cáo tài chính và lúc hoàn thành việc kiểm toán, còn nếu không thì phải đánh giá là các mục tiêu của quá trình kiểm toán có lẽ là quá tham vọng. Những điều được nêu trong báo cáo của minh họa 3.1 rất có ý nghĩa cho những người sử dụng các báo cáo tài chính. Đoạn đầu tiên được gọi là phạm vi, chỉ rõ những báo cáo nào đã được kiểm toán và thông báo cho người đọc các tiêu chuẩn được thừa nhận về kiểm toán đã được tuân thủ, và rằng những biện pháp kiểm định được người kiểm toán xem là cần thiết đã được thực hiện. Cần thấy rõ rằng không thể thực hiện được việc kiểm toán hoàn hảo đối với mọi hoạt động giao dịch đơn lẻ ở một công ty lớn, trong phạm vi thời gian và kinh phí có hạn. Do đó, người ta phải bằng lòng với việc tuân theo các chỉ tiêu chuẩn kiểm toán được thừa nhận và với việc hoàn thành những biện pháp kiểm định “cần thiết”. Tương tự, trong đoạn thứ hai được gọi là phần ý kiến, người ta phải bằng lòng với ý kiến (chứ không phải là lời xác nhận) rằng các báo cáo “trình bày rõ” tình hình tài chính của công ty, phù hợp với các nguyên tắc kế toán được thừa nhận. Minh họa 3.1 Kính gửi: Các cổ đông và Ban giám đốc công ty XYZ. Chúng tôi đã xem xét báo cáo tình hình tài chính của công ty XYZ và các chi nhánh hợp nhất cho đến ngày 31 tháng 12 năm 1983 và năm 1982 cùng các báo cáo có liên quan tới số tiền lãi vãng lai, còn lại và những thay đổi về tình hình tài chính vào lúc kết thúc của các năm. Việc xem xét của chúng tôi đã được tiến hành theo các tiêu chuẩn kiểm toán được thừa nhận, bao gồm kiểm định về các hồ sơ kế toán và những thủ tục kiểm toán khác mà chúng tôi cho là cần thiết trong trường hợp này. Theo ý kiến của chúng tôi, các báo cáo tài chính nói trên trình bày rõ tình hình tài chính của công ty XYZ và các chi nhánh hợp nhất cho đến ngày 31 tháng 12 năm 1983 và 31 tháng 12 năm 1982 cùng các kết quả hoạt động của họ cũng như những thay đổi về tình hình tài chính vào cuối các năm, phù hợp với các nguyên tắc kế toán được thừa nhận được áp dụng trên một cơ sở phù hợp. Các kế toán công Credit và Debit, Inc Một loại ý kiến khác với các “ý kiến rõ ràng” được gọi là “ý kiến dè dặt” và thường chỉ ra rằng có sự nghi ngờ nào đó là trên thực tế không biết báo cáo tài chính đã được kiểm tra có trình bày rõ về tình hình tài chính của công ty hay không? Nếu ý kiến dè dặt này được nêu ra thì một điều quan trọng đối với những người sử dụng báo cáo tài chính này là họ phải có sự phán xét độc lập về ý nghĩa của nhận xét dè dặt có liên quan tới tình trạng của công ty không. Việc đọc cẩn thận nhận xét này có ý nghĩa quan trọng để biết chắc rằng, người đọc hiểu rõ sự cấp bách của vấn đề. Đoạn trích sau đây rút ra từ một ý kiến dè dặt về bản báo cáo hàng năm của một công ty với tổng số tài sản xấp xỉ 9,5 triệu $, là một thí dụ tốt về nhận xét dè dặt. “Khi xem xét đầy đủ hơn điểm lưu ý thứ hai của báo cáo tài chính ngày 31/10/19...., các phiếu nợ và lãi cộng dồn của công ty Manufacturing Corporations tổng cộng đã lên tới xấp xỉ 800.000 $. Việc thu hồi phần tài sản này phụ thuộc vào giá trị thuần túy có thể thực hiện được của phần tài sản bị cầm cố như đồ ký gửi hoặc phụ thuộc vào thành tích hoạt động trong tương lai của Manufacturing Corporations”. Nói cách khác, trong số tổng tài sản 9,5 triệu $ được tuyên bố của công ty thì gần 800.000 $ hay 8,5 % là do khoản cho vay phải thu nhưng có lẽ không thể thu hồi được! Khi thẩm tra đôi chút, người ta có thể nhận ra qua điểm lưu ý thứ hai của báo cáo tài chính là công ty Manufacturing Corporations đã bị lưu ý về các khoản nợ, nó đang hoạt động thua lỗ với tài khoản cổ phần của các cổ đông bị thâm hụt và hiện nay đang tiến hành thương lượng để tái lập các thỏa thuận về nợ. Như vậy, bằng cách phân tích tình trạng nợ của công ty, có lẽ khôn ngoan là nên tính tổng giá trị tài sản của công ty là 8.700.000 $ chứ không phải là 9.500.000 $. Tinh thần của câu chuyện ngắn này là cần phải thận trọng khi đọc tới diễn giải ý kiến của người kiểm toán. Cũng cần phải thận trọng khi đọc các chú thích trong các báo cáo tài chính. Các chú thích là một bộ phận không tách rời được của các báo cáo tài chính và cho ta một tóm tắt quan trọng và hữu ích về các chính sách kế toán của công ty. Ngay cả khi đối với một người không phải là nhà phân tích tài chính chuyên môn thì việc đọc qua các chú thích dẫu chỉ để có một cảm nghĩ vắn tắt về các chính sách kế toán của công ty cũng sẽ có nhiều ý nghĩa. Khi đã nắm được những thông tin này, người ta có thể sẵn sàng tiến hành việc xem xét kỹ tất cả các báo cáo tài chính. Các báo cáo tài chính cơ bản Minh họa 3.2 đưa ra một bảng cân đối kế toán điển hình của một công ty chế tạo. Có thể hình dung bảng cân đối kế toán là một “bức ảnh chụp nhanh” về tình trạng tài chính của công ty vào thời điểm đang xét. Theo ngôn ngữ của nhà kinh tế, bảng cân đối kế toán là một báo cáo hàng tồn trữ do nó thể hiện lượng tồn trữ của các khoản có, khoản nợ và các cổ phần vào các thời điểm xem xét - trong trường hợp này là ngày 31/12/1983 và năm 1982. Bảng cân đối kế toán có ba phần chính: các tài sản được liệt kê ở phía trái; các khoản nợ được liệt kê ở phía phải; và các cổ phần cũng được liệt kê ở phía phải. Hai phía đó của bảng cân đối kế toán phải bằng nhau - đó là logic căn bản của cách thể hiện bảng cân đối kế toán. Các tài sản của bảng cân đối liệt kê tổng các nguồn lực của công ty dưới dạng dollar. Ở đây, ta thấy các khoản mục như tiền mặt, các khoản phải thu, nhà máy và thiết bị, tài sản dưới dạng các khoản cho thuê vốn và các nguồn lực kinh doanh khác. Phía phải của bảng cân đối liệt kê những yêu cầu đặt ra đối với bên tài sản. Các khoản nợ như các khoản nợ phải trả, các phiếu nợ phải trả, nghĩa vụ trả nợ các hợp đồng thuê vốn và các khoản nợ dài hạn thể hiện những yêu cầu đòi nợ của những người cho vay khác nhau đối với các loại tài sản này. Phần trội hơn của các tài sản so với những yêu cầu đòi nợ của những người cho vay thể hiện phần giá trị thuần túy thuộc về những người sở hữu công ty. Giá trị thuần túy này được biểu thị trong phần vốn cổ phần của bảng cân đối. Như vậy, nhìn toàn cục, bảng cân đối cho ta một bản liệt kê chi tiết các tài khoản cấu thành của cái gọi là phương trình kế toán cơ bản sau đây: Các tài sản = Các khoản nợ + Các cổ phần hay là: Tổng các nguồn lực của doanh nghiệp = Quyền của những người cho vay + Quyền của những người sở hữu. Như vậy, ta có thể thấ ... biệt là các giá trị tính toán trong phần cổ phần thường. Trước hết, trong hầu hết các trường hợp, điều hợp lý là nên giả thiết về cái mà các nhà kế toán gọi là “mối quan tâm lo lắng hiện có”. Người ta có thể cho rằng, không có nguy cơ phá sản sắp xảy ra và do đó, giá trị thanh lý của công ty sẽ không phải là một biến số thích hợp để xác định giá trị các chứng khoán. Thứ hai là ta cần nhớ rằng việc tính toán giá trị kế toán ngầm định rằng toàn bộ tài sản có thể bán được theo giá trị kế toán để thỏa mãn các yêu cầu đòi nợ khác nhau. Tùy theo từng hoàn cảnh, điều này có thể đúng hoặc sai. Nếu việc thanh lý xảy ra, trên thực tế các tài sản có thể bán với giá cao hơn hoặc thấp hơn so với giá trị kế toán. Cuối cùng, người ta có thể thấy rằng các giá trị thị trường của các chứng khoán được quy định bởi các lực lượng thị trường mà chúng có thể chỉ có liên hệ với các giá trị kế toán khi xét theo giá trị giới hạn. Đối với các trái phiếu và cổ phần ưu đãi, giá trị thị trường chủ yếu được xác định bởi tỷ lệ tín dụng của công ty và lãi suất hiện hành. Đối với các cổ phần thường, phần lãi của công ty và viễn cảnh kinh tế tương lai là điểm cốt yếu cho việc định giá trị. Báo cáo thu nhập Minh họa 3.3 trình bày hình thái phổ biến của một báo cáo thu nhập. Nếu ta có thể coi bảng cân đối kế toán như là một báo cáo dưới dạng “bức ảnh chụp nhanh” hoặc báo cáo về “dự trù”, khi ấy có thể hình dung báo cáo thu nhập như một “bức tranh chuyển động” hoặc nội dung báo cáo về “luồng”. Báo cáo thu nhập trình bày về “luồng” các nguồn thu, các chi phí và các chi tiêu trong toàn công ty vào một năm đã biết. Có thể hình dung mối liên hệ giữa báo cáo thu nhập với bảng cân đối như sau: Sơ đồ này thể hiện một cách rõ ràng sự khác biệt chủ yếu và mối liên hệ then chốt giữa bảng cân đối với báo cáo thu nhập. Bảng cân đối trình bày tình hình tài chính của công ty tại thời điểm đang xét, trong khi báo cáo thu nhập miêu tả các kết quả hoạt động trong một khoảng thời gian nào đó. Theo ví dụ ở đây, hai bảng cân đối cho ta thấy tình hình của công ty vào 31/12/1982 và 31/12/1983 trong khi báo cáo thu nhập cung cấp các thông tin có liên quan tới vấn đề là công ty chuyển dịch như thế nào từ trạng thái hiện có vào cuối năm 1982 tới trạng thái vào cuối năm 1983. Nửa trên của báo cáo về phần thu nhập vãng lai và còn giữ lại trong minh họa 3.3 cho thấy doanh thu trong năm của công ty, các loại chi phí và chi tiêu khác nhau, thu nhập thuần túy trước và sau thuế và thu nhập tính cho một cổ phần thường. Doanh số thể hiện tổng doanh thu của công ty trong vòng một năm chưa tính, số thực lãi trong mọi hoạt động kinh doanh hoặc các khoản chiết khấu được phép. Chi phí cho các sản phẩm bán ra gồm các khoản mục như chi phí nguyên vật liệu, chi phí lao động trực tiếp trong nhà máy và các chi phí chung (tổng phí) trong nhà máy. Phần khấu hao biểu thị tiền khấu hao nhà máy và thiết bị trong năm tính theo dollar, trong khi chi phí bán hàng và quản lý biểu thị toàn bộ các loại chi phí hoạt động khác. Trừ tổng chi phí hoạt động ra khỏi doanh số ta được số lợi nhuận hoạt động hoặc lãi gộp thu được từ các hoạt động thông thường của công ty. Khoản thu nhập khác, thường là các phần thu nhập linh tinh từ các nguồn khác nằm ngoài hoạt động bình thường như phần lãi thu được trên các phiếu nợ phải thu do công ty giữ, trên các phần lãi và lỗ của vốn đầu tư và các khoản mục tương tự. Tiếp theo là khoản chi phí trả lãi vay nợ. Thông thường, các khoản mục này được liệt kê riêng do nó biểu thị một khoản chi tiêu tài chính, đó là chi tiêu do quyết định của công ty trong vấn đề là trang trải tài chính bằng cách nào (vay nợ hay bán cổ phần) chứ không phải là chỉ tiêu sinh ra do các hoạt động bình thường của công ty. Cuối cùng, việc trừ chi phí trả lãi sẽ cho ta phần thu nhập trước thuế của công ty. Khấu trừ thuế ta sẽ được “dòng cuối cùng” - đó là thu nhập thuần túy trong vòng một năm. Minh họa 3.3 Liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp Hoya báo cáo về các khoản thu nhập vãng lai và còn giữ lại 1983 ($) 1983 ($) Doanh thu 13.413.000 11.575.000 Các chi phí hoạt động Giá vốn hàng bán 7.467.000 7.194.000 Khấu hao 376.000 334.000 Chi phí bán và quản lý 4.575.000 3.092.000 Tổng chi phí 12.418.000 10.620.000 Lợi nhuận hoạt động 995.000 955.000 Thu nhập khác 186.000 184.000 Tổng thu nhập 1.181.000 1.139.000 Chi trả lãi (180.000) (184.000) Thu nhập trước thuế 1.001.000 955.000 Đóng thuế thu nhập (382.000) (371.000) Thu nhập thuần túy 619.000 584.000 Cổ phần thường hiện có 104.000 102.000 Thu nhập thuần túy trên một cổ phần thường 5,71 5,38 Báo cáo về lãi tích lũy còn giữ lại Thu nhập còn giữ lại vào 1/1 2.684.000 2.390.000 Thu nhập thuần túy trong năm 619.000 584.000 Tổng số 3.303.000 2.974.000 Trừ đi cổ tức trả cho: hhhhh- Cổ phần ưu đãi 25.500 35.000 hhhhh- Cổ phần thường 276.000 255.000 Thu nhập còn giữ lại vào 31/12 3.001.000 2.684.000 Do những người sở hữu công ty thường quan tâm nhất đến số thu nhập tính cho mỗi cổ phần thường cho nên dòng cuối cùng được biểu thị trên cơ sở tính cho mỗi cổ phần. Con số này được tính bằng cách lấy thu nhập thuần túy trừ đi mọi khoản cổ tức ưu đãi rồi chia cho số cổ phần thường trung bình trong năm. Cần phải trừ đi số cổ tức ưu đãi, bởi vì khác với số trả lãi cho những người giữ trái phiếu, số lãi này không phải là được miễn trừ thuế kinh doanh. Cũng y như cổ phần thường, cổ phần ưu là một loại chứng khoán về quyền sở hữu và mọi khoản cổ tức đã trả sẽ được coi như khoản đóng góp lợi nhuận cho những người chủ hợp pháp của công ty. Trong trường hợp của liên hiệp Hoya, lãi cho mỗi cổ phần được tính như sau: 1983 ($) 1983 ($) Thu nhập thuần túy 619.000 584.000 Trừ đi cổ tức ưu đãi (25.500) (35.000) Thu nhập dành cho những người có cổ phần thường 593.500 549.000 Số cổ phần thường hiện có 104.000 1.020.000 Thu nhập trên một cổ phần thường 5,71 5,38 Phần dưới cùng của minh họa 3.3 là báo cáo về thu nhập tích lũy và còn giữ lại, nó minh họa cho mối liên hệ chủ yếu giữa bảng cân đối và báo cáo thu nhập. Số thu nhập còn giữ lại cho một năm đang khóa sổ (năm đang xét) cần phải bằng với số thu nhập tại đầu năm đó (hoặc số thu nhập còn lại của đầu năm trước), cộng với thu nhập thuần túy trong năm đang xét (hoặc trừ đi số lỗ thuần túy) trừ đi mọi khoản phân bố thu nhập thuần túy (thường là cổ tức). Đôi khi, những khoản phân bố cho các thua lỗ, chẳng hạn như giải quyết lần cuối cùng về chi phí tố tụng hoặc thuế thu nhập của năm trước, có thể khấu trừ vào tài khoản thu nhập còn giữ lại. Liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp Hoya minh họa cho trường hợp điển hình nhất (chú ý rằng số thu nhập còn giữ lại vào 31/12/1982 đúng bằng số thu nhập còn lại vào 1/1/1983): Sau khi đã xem xét báo cáo thu nhập, bây giờ chúng ta hãy chú ý đến phạm trù quan trọng thứ hai về các báo cáo về luồng tài chính, đó là báo cáo về sự thay đổi tình hình tài chính. Báo cáo về sự thay đổi tình hình tài chính Minh họa 3.4 trình bày báo cáo của các liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp Hoya về sự thay đổi tình hình tài chính đối với năm 1983. Khi nhớ lại định nghĩa trước đây của chúng ta về vốn lưu động ròng là tài sản lưu động trừ đi nợ ngắn hạn và phần thảo luận về tầm quan trọng của vốn hoạt động thì không có gì đáng ngạc nhiên về sự tồn tại của một báo cáo tách biệt về luồng tài chính, trong đó trình bày sự thay đổi về tình hình vốn hoạt động của công ty qua một năm. Đó là mục đích của báo cáo về những thay đổi của tình hình tài chính hay cũng còn thường được gọi là báo cáo về các nguồn và các cách sử dụng ngân quỹ, hoặc báo cáo về luồng ngân quỹ. Thuật ngữ “ngân quỹ” thường gây sự hiểu lầm cho những người bình thường bởi vì đối với các kế toán giỏi và các nhà phân tích tài chính nó có ý nghĩa tương đối chuyên sâu vào chuyên môn khác với nghĩa sử dụng thông thường của thuật ngữ này khi đề cập tới tiền mặt, thuật ngữ ngân quỹ trong kế toán và tài chính nói về vốn hoạt động thuần tuý, còn báo cáo về luồng ngân quỹ nói về những thay đổi của vốn hoạt động qua suốt thời kỳ kế toán: Ngân quỹ bằng = vốn lưu động ròng = tài sản lưu động - nợ ngắn hạn Minh họa 3.4 Liên hiệp các nhà chế tạo công nghiệp hoya, inc Báo cáo về những thay đổi tình hình tài chính 1983 Các nguồn quỹ Từ các hoạt động: hhhhhThu nhập thuần túy hhhhhKhấu hao Tổng nguồn thu từ các hoạt động Sử dụng các tài khoản khác Vay thêm nợ dài hạn Bán các cổ phần thường Tổng các nguồn quỹ sử dụng quỹ Đầu tư thêm vào nhà máy và thiết bị Tái đầu tư vốn cổ phần ưu đãi Trả cổ tức cho cổ phần ưu Trả cổ tức cho cổ phần thường Tổng sử dụng quỹ 619.000 $ 376.000$ 995.000 $ 83.000$ 26.000$ 25.000$ 1.369.000$ 766.000$ 172.000$ 255.000$ 276.500$ 1.240.000$ Tăng thuần túy trong vốn hoạt động Phân tích những thay đổi về vốn hoạt động năm 1977 Tiền mặt và chứng khoán bán được Các khoản sẽ phải thu Dự trữ Các khoản phải trả Các phiếu nợ phải trả Chỉ tiêu cộng dồn phải trả Thuế cộng dồn phải trả Số tăng thuần túy vốn hoạt động 129.000$ 50.000 $ 417.000$ 271.000$ 178.000$ (680.000)$ (75.000)$ (32.000)$ 129.000$ Mục đích của báo cáo về những thay đổi trong tình hình tài chính có hai mặt. Thứ nhất là, nó chỉ ra các nguồn và cách sử dụng các nguồn qũy trong năm và sự thay đổi phát sinh trong tình hình vốn lưu động ròng của công ty. Thứ hai là, nó cho thấy những thay đổi trong các tài khoản vốn hoạt động riêng lẻ gây ra sự thay đổi toàn cục trong vốn lưu động ròng. Khi căn cứ vào định nghĩa, vốn lưu động ròng là tài sản lưu động trừ đi nợ ngắn hạn , ta có thể thấy số tăng trong tài sản luu động phản ánh sự đóng góp vào số gia tăng vốn hoạt động, trong khi sự gia tăng số nợ ngắn hạn phản ánh sự góp phần làm giảm vốn hoạt động. Ngược lại, sự giảm tài sản lưu động thể hiện việc góp phần làm giảm vốn lưu động ròng và sự giảm số nợ ngắn hạn thể hiện việc góp phần làm tăng vốn lưu động ròng. Tóm lại: Sự tăng vốn lưu động ròng: hhhhhhhSự tăng tài sản lưu động hhhhhhhSự giảm nợ ngắn hạn Sự giảm vốn lưu động ròng: hhhhhhhSự giảm tài sản lưu động hhhhhhhSự tăng nợ ngắn hạn Việc xây dựng báo cáo về những thay đổi tình hình tài chính là một nhiệm vụ tương đối phức tạp và tốt nhất là giao cho các nhà kế toán chuyên nghiệp. Tuy nhiên, việc hiểu rõ báo cáo rõ ràng là cần thiết và rất quan trọng cho những người sử dụng báo cáo tài chính. Về căn bản, báo cáo cung cấp những thông tin có liên quan tới tổng nguồn lực tài chính sẵn có cho công ty trong năm đã qua và cho việc phân bố các nguồn lực này. Trong trường hợp của liên hiệp Hoya, chúng ta nhận thấy sự thay đổi toàn cục về vốn lưu động ròng trong năm lịch 1983 như sau: Vốn lưu động ròng -1982 = 4.485.000 $ - 2.700.000$ = 1.785.000 $ Vốn lưu động ròng -1983 = 5.223.000 $ - 3.309.000 $ = 1.914.000 $ Thay đổi thuần túy trong vốn lưu động ròng -1983 bằng 129.000$. Khi chú ý vào phần cuối của minh họa 3.4- phần phân tích những thay đổi vốn lưu động ròng trong năm 1983, chúng ta thấy rằng số tăng trong toàn bộ tài sản lưu động (tiền mặt, chứng khoán bán được trên thị trường, các khoản phải thu và các khoản dự trữ) và số giảm nợ ngắn hạn (các khoản phải trả) đã góp phần làm tăng số vốn lưu động ròng của công ty. Số tăng này bù trừ lại phần nào cho số tăng các khoản nợ ngắn hạn còn lại (các phiếu nợ phải trả, các chi phí dồn lại phải trả, các khoản thuế dồn lại phải trả). Tất nhiên, kết quả thuần túy cho số tăng là 129.000 $: Số tăng vốn lưu động hhhhhTăng tài sản lưu động hhhhhGiảm nợ ngắn hạn Tổng số tăng vốn lưu động ròng Sự giảm vốn lưu động ròng hhhhhTăng nợ ngắn hạn Số tăng thuần túy trong vốn lưu động ròng 738.000 $ 178.000 $ 916.000 $ (787.000) 129.000 $ Phần trên của minh họa 3.4 cho thấy các nguồn và cách sử dụng quỹ trong năm làm tăng vốn lưu động ròng là $ 129.000. Hầu hết phần các nguồn quỹ luôn luôn được bắt đầu với các nguồn quỹ do các hoạt động trong năm đem lại. Con số này bao gồm thu nhập thuần túy như đã báo cáo trong báo cáo thu nhập cộng với mọi thay đổi không phải là tiền mặt như chi phí khấu hao. Do phần khấu hao thể hiện phần phân bổ chi phí của các khoản đầu tư của công ty trong quá khứ cho nên chi phí khấu hao được khấu trừ đi trong báo cáo thu nhập không đòi hỏi phải chi dùng quỹ hiện tại và do đó cần phải được cộng lại vào thu nhập khi xác định nguồn tổng cộng do các hoạt động tạo ra. Bên cạnh toàn bộ nguồn qũy do các hoạt động tạo ra còn có các nguồn quỹ khác không phải do hoạt động đem lại như bán các tài sản cố định, vay nợ dài hạn mới, bán cổ phiếu và các khoản tương tự. Tổng các khoản này cộng với nguồn quỹ do hoạt động đem lại thể hiên toàn bộ nguồn quỹ mà công ty có trong năm. Phần sử dụng đã được thể hiện khá rõ ràng, ở đây, ta có thể thấy danh mục sử dụng quỹ của công ty trong năm. Trong trường hợp của Liên hiệp Hoya, quỹ đã được sử dụng để mua nhà máy và thiết bị mới, để mua lại một số cổ phần ưu đãi và để trả cổ tức. Tất nhiên, kết quả thuần túy của tất cả các hoạt động này cần phải bằng tổng số đã xác định trước đây là 129.000 $. Nguồn quỹ có được từ hoạt động Nguồn quỹ có được từ các nguồn ngoài hoạt động Tổng các nguồn quỹ Phần sử dụng quỹ Số tăng thuần túy trong vốn hoạt động 995.000 $ 374.000 $ 1.369.000 $ (1.240.000) 129.000 $ Như vậy, chúng ta thấy rằng báo cáo về luồng ngân quỹ cho ta thông tin quan trọng về sự quản lý của công ty đối với các nguồn lực của các cổ đông và cho ta một bức tranh hữu ích về luồng các nguồn quỹ trong toàn công ty. Sau khi đã xem xét toàn bộ các phạm trù chính của báo cáo tài chính, bây giờ chúng ta sẽ chuyển sang chương về cấu trúc của hệ thống thông tin tài chính, nhằm cho phép thu thập, báo cáo và giải thích một cách thông minh về thông tin tài chính. Tóm tắt Mục tiêu của kế toán tài chính là trình bày rõ ràng về tình hình tài chính của một tổ chức kinh doanh. Các nguyên tắc kế toán được thừa nhận (GAAP) đưa ra những hướng dẫn cho cách trình bày các báo cáo tài chính. GAAP chỉ áp dụng cho lĩnh vực kế toán tài chính và không áp dụng cho các lĩnh vực kế toán chủ yếu khác như kế toán thuế, quản lý và chi phí. Các kế toán gia công chứng kiểm toán các báo cáo tài chính và đưa ra ý kiến là liệu các báo cáo có trình bày rõ ràng về tình hình tài chính của một công ty hay không. Một ý kiến dè dặt thường chỉ ra một điểm nào đó chưa phù hợp với GAAP. Bản cân đối cho ta một “bức ảnh chụp nhanh” về tình tài chính của một công ty vào một ngày tháng đã định, danh mục các tài sản, các khoản nợ, và các cổ phần của công ty. Theo định nghĩa, các tài sản cần phải bằng tổng các khoản nợ và các cổ phần. Báo cáo thu nhập có thể được coi là một “bức tranh chuyển động” biểu thị các luồng doanh thu, chi phí, chi tiêu trong toàn công ty trong vòng một năm hoặc một thời kỳ kế toán đã cho. Báo cáo về những thay đổi tình hình tài chính cho thấy, các nguồn và các cách sử dụng quỹ trong một năm và kết quả thay đổi trong tình hình vốn lưu động ròng của công ty. Nó cũng cho thấy những thay đổi trong các tài khoản vốn lưu động riêng lẻ đã tạo ra sự thay đổi toàn cục trong vốn lưu
File đính kèm:
- nhap_mon_ve_bao_cao_tai_chinh.pdf