Nhận thức của doanh nghiệp nhỏ và vừa về chuẩn mực kế toán Việt Nam và nhu cầu áp dụng chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Những chuẩn mực kế toán đầu tiên của Việt Nam ban hành năm 2001 đến nay vẫn chưa được cập nhật và sửa đổi. Bộ Tài Chính vừa ban hành Thông tư 200/2014/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp, mặc dù có nhiều cải tiến mới tiệm cận hơn với IFRS, nhưng cũng chỉ dừng lại ở góc độ thông tư hướng dẫn, chưa điều chỉnh toàn bộ hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS). Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp khi tham chiếu văn bản pháp quy để xử lý công việc kế toán, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs). Do đó, nghiên cứu đánh giá VAS áp dụng cho SMEs và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho SMEs (IFRS for SMEs) là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Bạn đang xem tài liệu "Nhận thức của doanh nghiệp nhỏ và vừa về chuẩn mực kế toán Việt Nam và nhu cầu áp dụng chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận thức của doanh nghiệp nhỏ và vừa về chuẩn mực kế toán Việt Nam và nhu cầu áp dụng chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
22 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật NHẬN THỨC CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VỀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM VÀ NHU CẦU ÁP DỤNG CHUẨN MỰC BÁO CÁO TÀI CHÍNH QUỐC TẾ CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Hồ Xuân Thủy* TÓM TẮT Những chuẩn mực kế toán đầu tiên của Việt Nam ban hành năm 2001 đến nay vẫn chưa được cập nhật và sửa đổi. Bộ Tài Chính vừa ban hành Thông tư 200/2014/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp, mặc dù có nhiều cải tiến mới tiệm cận hơn với IFRS, nhưng cũng chỉ dừng lại ở góc độ thông tư hướng dẫn, chưa điều chỉnh toàn bộ hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS). Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp khi tham chiếu văn bản pháp quy để xử lý công việc kế toán, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs). Do đó, nghiên cứu đánh giá VAS áp dụng cho SMEs và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho SMEs (IFRS for SMEs) là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Mục tiêu của bài viết này nhằm xác định quan điểm của các kế toán trưởng SMEs về VAS, về chất lượng thông tin báo cáo tài chính của SMEs trong thời gian vừa qua và xác định nhu cầu cần áp dụng IFRS for SMEs. Dữ liệu thu thập thông qua khảo sát bằng bảng câu hỏi với 358 kế toán trưởng của SMEs ở TP.HCM và một số tỉnh lân cận. Kết quả phân tích thống kê đã khẳng định chất lượng thông tin báo cáo tài chính SMEs không đáng tin cậy và VAS chỉ phù hợp với SMEs ở mức trung bình. Cho nên, SMEs ủng hộ xây dựng chuẩn mực kế toán riêng cho SMEs và có nhu cầu áp dụng IFRS for SMEs khá cao. Kết quả phân tích này rất hữu ích cho các nhà chuyên môn nghề nghiệp, các nhà ban hành quy định kế toán trong quá trình thay đổi, cải tiến các quy định về kế toán cho SMEs Việt Nam. Từ khóa: Chuẩn mực kế toán Việt Nam, báo cáo tài chính, SMEs, IFRS for SMEs PERCEPTIONS OF SMALL AND MEDIUM-SIZED ENTITIES REGARDING VIETNAMESE ACCOUNTING STANDARDS AND THE NEED OF IMPLEMENTING THE INTERNATIONAL FINANCIAL REPORTING STANDARDS FOR SMALL AND MEDIUM-SIZED ENTITIES ABSTRACT The very first Vietnamese accounting standards (VAS) introduced in 2001 has remained without updates and modifications since then. Although the Ministry of Finance recently issued the Circular 200/2014/TT-BTC regarding entity accounting regulations with some updates in line with the IFRS, it was but a superficial instruction without rational modifications to the current * GV.NCS. Trường Đại học Kinh tế - Luật TP.HCM. Email: hoxuanthuy@uel.edu.vn 23 Nhận thức của doanh nghiệp . . . Vietnamese Accounting Standard (VAS). This fact has caused substantial difficulties to entities, in particular small and medium-sized entities (SMEs), when referring to legal procedures in daily accounting activities and hence has justified the current demand for researches about VAS for SMEs and the International Financial Reporting Standards (IFRS) for SMEs. This paper, therefore, aims to determine the general perceptions of Chief Accountants in many SMEs about VAS, the quality of recent financial reports of their SMEs, and the need for implementing IFRS for SMEs. Data are collected from questionnaires to 385 Chief Accountants of SMEs in HCM City and neighbouring provinces. Our analysis shows that financial reports from SMEs are of unreliable qualities and the level of compatibility of VAS to SMEs can only be rated “average”. Therefore, we conclude that SMEs are largely in favour of a separate set of accounting standards and that the need of implementing of IFRS for SMEs is considerably high. Our findings are particularly useful for professional experts and accounting regulators to amend and improve accounting regulations and policies for SMEs in Vietnam. Keywords: Vietnamese accounting standards, financial reporting, SMEs, IFRS for SMEs 1. GIỚI THIỆU SMEs là thành phần kinh tế nhiều tiềm năng và là xương sống cho sự phát triển của cả các quốc gia phát triển và đang phát triển. Vì thế, thông tin kế toán được cung cấp bởi các doanh nghiệp (DN) này là đặc biệt quan trọng [24]. Chuẩn mực kế toán thích hợp sẽ giúp DN lập báo cáo tài chính (BCTC) có chất lượng đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng thông tin. VAS được ban hành đầu tiên năm 2001. Mặc dù, VAS được xây dựng trên cơ sở của IFRS nhưng đã lạc hậu do không được cập nhật, sửa đổi trong một thời gian dài và còn khác biệt quá nhiều so với IFRS nên không thể đảm bảo cung cấp thông tin có thể so sánh với các DN khác trên thế giới. Trong thời gian vừa qua, Bộ Tài Chính (BTC) ban hành thông tư (TT) 200/2014/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán DN [4], dù có nhiều cải tiến mới tiệm cận hơn với IFRS nhưng cũng chỉ dừng lại ở góc độ thông tư hướng dẫn, chưa điều chỉnh toàn bộ VAS. Hơn nữa, thông tư đề cập “những nội dung tại các thông tư hướng dẫn VAS không trái với TT 200/2014/TT-BTC thì vẫn còn hiệu lực”. Điều này gây khó khăn cho các DN khi tham chiếu văn bản pháp quy để xử lý công việc kế toán, đặc biệt là SMEs trong quá trình áp dụng VAS vì BTC không quy định bỏ quyết định (QĐ) số 48/2006/QĐ-BTC mà chỉ yêu cầu SMEs tự dựa vào TT 200/2014/TT- BTC để kế toán cho phù hợp. Mặt khác, SMEs Việt Nam (VN) ngày càng tăng cường tham gia vào các hoạt động quốc tế, yêu cầu thông tin tài chính minh bạch trở nên bức thiết. “Chiến lược kế toán- kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo QĐ 480/2013/ QĐ-TTg cũng đã xác định quan điểm là “hoàn thiện khuôn khổ pháp lý hệ thống chuẩn mực”, “hòa nhập với thông lệ quốc tế” [10]. Vì thế, cũng như các quốc gia khác, Việt Nam cũng đang có những áp lực về hội tụ kế toán quốc tế. Trong bối cảnh đó, việc thực hiện nghiên cứu về VAS và IFRS for SMEs dựa trên nhận thức của SMEs là thật sự cần thiết trong điều kiện hội tụ kế toán quốc tế diễn ra mạnh mẽ đồng thời IFRS for SMEs đã ban hành và được áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. 24 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Người tạo lập thông tin BCTC của SMEs là một trong những thành phần quan trọng nhất đóng vai trò quyết định sự thành công quá trình áp dụng VAS cũng như hội tụ với kế toán quốc tế ở VN. Bài viết này nhằm thu thập quan điểm của kế toán trưởng (KTT) SMEsvề VAS hiện hành, về chất lượng thông tin BCTC của SMEs trong thời gian vừa qua và xác định nhu cầu của SMEs cần hội tụ với IFRS for SMEs. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích thống kê dựa trên dữ liệu được thu thập thông qua bảng câu hỏi khảo sát 358 KTT SMEs ở TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Long An Kết quả nghiên cứu này thật sự cần thiết và thu hút sự quan tâm của các nhà chuyên môn nghề nghiệp kế toán và các nhà ban hành chuẩn mực trong quá trình xem xét, cải tiến các quy định kế toán cho SMEs VN vì thiếu hụt các nghiên cứu đánh giá VAS áp dụng cho SMEs trong thời gian vừa qua.Đồng thời,kết quả của nghiên cứu cũng góp phần bổ sung thêm vào các nghiên cứu trước quan điểm về nhu cầu cần áp dụng IFRS for SMEs của một quốc gia đang phát triển với đặc thù áp dụng IFRS còn khá hạn chế như VN. 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 2.1. VAS và các quy định pháp lý về kế toán cho SMES Việt Nam Tại VN, SMEs đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, và đóng góp cho ngân sách Nhà nước (NN). Vì thế, NN đã ban hành nhiều chính sách, quy định để hỗ trợ SMEs phát triển. Theo đó, xác định tiêu chí phân loại SMEs, bắt đầu bằng Công văn số 681/ CP-KTN ngày 20/6/1998 [13]. Theo quy định này, SMEs là DN có số lao động bình quân dưới 200 người và vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng. Tiếp sau, Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 quy định tiêu chí chính thức phân loại SMEs cũng dựa trên vốn và lao động [12]. Đó là, SMEs là DN có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng và số lao động không quá 300 người. Hiện nay, SMEs đã được phân loại chi tiết hơn theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP, chia thành 3 nhóm siêu nhỏ, nhỏ và vừa theo từng lĩnh vực kinh doanh dựa vào số lượng lao động hoặc quy mô vốn xác định theo tổng tài sản trên bảng cân đối kế toán [11]. Song song đó, các quy định về kế toán liên quan đến SMEs cũng được ban hành. Đầu tiên phải kể đến là chế độ kế toán cho SMEs ban hành theo quyết định số 1171/TC/ QĐ-CĐKT ngày 23/12/1996 [8], sau đó là quyết định số 144/TC/QĐ-CĐKT quy định sửa đổi bổ sung chế độ kế toán theo quyết định 1171/TC/QĐ-CĐKT ngày 21/12/2001 giúp SMEs có những hướng dẫn cụ thể trong xử lý công việc kế toán [7]. Để hội nhập với kế toán quốc tế, xây dựng khuôn khổ pháp lý về kế toán cho các DN, được sự trợ giúp của Liên minh Châu Âu, trong gần 7 năm nghiên cứu và triển khai, những VAS đầu tiên của VN đã được ban hành vào năm 2001. Cho đến nay, đã có tất cả 26 VAS được ban hành. Sau khi hoàn tất việc ban hành VAS, BTC cũng đã ra các quyết định về chế độ kế toán DN cho DN lớn (QĐ 15/2006/QĐ-BTC) và SMEs (QĐ 48/2006/QĐ-BTC) [5],[6]. Theo quyết định 48/2006/QĐ-BTC, trong 26 VAS, quy định áp dụng VAS cho SMEs được chia thành 3 nhóm, nhóm các VAS áp dụng đầy đủ, áp dụng không đầy đủ và nhóm các VAS không áp dụng đối với SMEs [6]. Tuy nhiên, đối tượng sử dụng thông tin và nhu cầu thông tin kế toán đối với SMEs mang tính đặc thù không giống các DN có quy mô lớn. Do đó, áp dụng chung VAS với những quy định giảm trừ dẫn đến thông tin kế toán dàn trải, không đáp ứng tập trung nhu cầu thông tin cho nhóm đối 25 Nhận thức của doanh nghiệp . . . tượng này. Một số VAS không áp dụng hoặc áp dụng không đầy đủ đã gây tình trạng thiếu quy định để tham chiếu khi xử lý công việc kế toán nhưng mặt khác vẫn tồn tại một số quy định không cần thiết. Trong xu thế hội nhập kế toán quốc tế ngày càng mạnh mẽ, VN cũng đã có những nỗ lực để hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kế toán. Dự thảo chỉnh sửa, bổ sung các nội dung liên quan đến 8 chuẩn mực kế toán đã ban hành lấy ý kiến. TT 200/2014/ TT-BTC về chế độ kế toán cho DN cũng đã ban hành vào ngày 22/12/2014 với các quy định phù hợp hơn với IFRS [4]. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa VAS và IFRS vẫn còn khá xa và tốc độ hội tụ được đánh giá còn chậm. Mặt khác, BTC cũng chỉ mới dừng lại ở thông tư hướng dẫn chế độ kế toán, chưa có sự đổi mới toàn diện liên quan đến hệ thống chuẩn mực kế toán. Đồng thời, QĐ 48/2006/QĐ-BTC vẫn còn hiệu lực với những quy định cũ đã gây nhiều khó khăn cho SMEs trong giai đoạn hiện nay [6]. 2.2. IFRS FOR SMES và áp dụng IFRS FOR SMES trên thế giới Toàn cầu hóa đã thúc đẩy nhu cầu cần chuẩn mực BCTC riêng cho SMEs. SMEs ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động quốc tế, nhu cầu thông tin BCTC đáng tin cậy vả có thể so sánh được với các DN khác trên thế giới nảy sinh đòi hỏi phải có những quy định, chuẩn mực kế toán có có chất lượng. IFRS là một bộ chuẩn mực được đề nghị áp dụng. Tuy nhiên, SMEs bị hạn chế về nguồn lực, đồng thời không có nhiều nghiệp vụ phức tạp như các DN lớn nên việc áp dụng IFRS trở nên không cân xứng giữa chi phí và lợi ích. Với mục tiêu cung cấp cho SMEs trên toàn thế giới một bộ chuẩn mực phù hợp giúp SMEs thuận lợi hơn khi tham gia vào thị trường quốc tế, tháng 7/2009, Hội đồng Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) đã ban hành IFRS for SMEs. IFRS for SMEs là bộ chuẩn mực độc lập, dài 230 trang, trình bày thành 35 phần cho từng chuẩn mực. IFRS for SMEs đơn giản hơn IFRS về cả yêu cầu công bố, đo lường và phương pháp ghi nhận, đồng thời chú ý đến sự cân đối giữa chi phí và lợi ích khi áp dụng cho SMEs. Quyết định áp dụng IFRS for SMEs là tự nguyện, tuy nhiên IASB mong muốn bộ chuẩn mực này sẽ được chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới. Theo IASB, SMEs là: “các công ty không có trách nhiệm giải trình công khai và phát hành BCTC cho đối tượng bên ngoài DN”. IASB cho rằng, các quốc gia khi chấp nhận áp dụng IFRS for SMEs sẽ tự quyết định tiêu chí DN phù hợp nên áp dụng [16]. Theo Pacter [23], từ khi ban hành đến năm 2011, 74 quốc gia đã tiếp nhận và đang xây dựng lộ trình áp dụng trong 3 năm tiếp theo. Lý do một số quốc gia vẫn chưa áp dụng IFRS for SMEs được Ploybut [25] đề cập là: quốc gia đã có chuẩn mực BCTC cho SMEs, IFRS for SMEs quá phức tạp cho SMEs có quy mô nhỏ hay SMEs thích chuẩn mực kế toán quốc gia hơn vì phù hợp với kế toán thuế. Các quốc gia đã áp dụng IFRS for SMEs thường theo hai cách thức phổ biến là áp dụng hoàn toàn không sửa đổi như Nam Phi, Singapore, Philippines, Campuchia hoặc là có điều chỉnh nhưng không nhiều cho phù hợp với điều kiện của quốc gia như Hồng Kông, Brazil. Một số quốc gia khác cũng đã có kế hoạch cho việc áp dụng như Anh, mặc dù đã ban hành chuẩn mực kế toán quốc gia riêng cho các công ty chưa niêm yết nhưng cũng xây dựng dự thảo sửa đổi bộ chuẩn mực này dựa trên IFRS for SMEs và dự kiến áp dụng bắt đầu năm 2015[17], [18]. Malaysia từ tháng 2/2014 đã ban hành chuẩn mực BCTC 26 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật cho SMEs (MPERS) xây dựng dựa trên IFRS for SMEs và dự kiến áp dụng năm 2016[20]. 2.3. Tổng quan các nghiên cứu trước BCTC cho SMEs và chuẩn mực BCTC riêng cho SMEs bắt đầu thu hút sự quan tâm mạnh mẽ của các nhà nghiên cứu từ đầu những năm 2000, khi dự án xây dựng IFRS for SMEs được IASB ban hành. Các nghiên cứu trước được tổng quan trong bài viết này xoay quanh những vấn đề về BCTC cho SMEs và nhu cầu cần áp dụng IFRS for SMEs. Maingot & Zeghal [19] thực hiện nghiên cứu đánh giá nhận thức của 600 KTT, chủ DN, nhà quản lýSMEs Canada về những khó khăn khi lập BCTC và sự lựa chọn của các đối tượng này về mô hình BCTC tốt nhất cho SMEs Canada. Sử dụng phương pháp định lượng thông qua khảo sát bằng bảng câu hỏi đóng và thu được 162 bảng trả lời. Kết quả của nghiên cứu cho thấy mục đích lập BCTC của SMEs chủ yếu cho thuế và ngân hàng. SMEs nhận định chuẩn mực kế toán hiện hành quá phức tạp, tốn nhiều chi phí cho việc tuân thủ và không thích hợp cho SMEs. SMEs đề nghị áp dụng một bộ chuẩn mực kế toán chung cho tất cả DN nhưng có yêu cầu giảm trừ cho SMEs. Những yêu cầu giảm trừ được tán thành nhiều nhất là giảm những quy định phức tạp và giảm yêu cầu công bố, đồng thời bắt buộc SMEs phải kiểm toán BCTC.Kết quả nghiên cứu tương tự, Dang et al [15] thực hiện nghiên cứu định tính khi thực hiện phỏng vấn với 19 chuyên gia gồm cả người tạo lập và người sử dụng thông tin của BCTC SMEs về đối tượng sử dụng thông tin và nhu cầu của đối tượng sử dụng thông tin BCTC của SMEs VN. Kết quả cho thấy cơ quan thuế và các cơ quan NN khác là đối tượng chính sử dụng BCTC của SMEs. BCTC chủ yếu được lập để đảm bảo việc tuân thủ pháp luật, không sử dụng cho mục đích kinh tế. Chất lượng thông tin BCTC thấp vì chủ DN không nỗ lực để tăng chất lượng thông tin mà còn chi phối đến kế toán để cung cấp những thông tin không chính xác phục vụ cho mục đích thuế. Ngoài ra, Atik [2] khám phá nhận thức của chủ sở hữu, nhà quản lý và KTT của SMEs Thổ Nhĩ Kỳ về IFRS for SMEs. Phương pháp chọn mẫu thuận tiện được sử dụng để gửi bảng câu hỏi khảo sát đến gần 2.700 SMEs. 216 chủ DN, nhà quản lý và kế toán viên SMEs phản hồi với tỷ lệ 8%. Kết quả khảo sát khẳng định SMEs chủ yếu lập BCTC cho mục đích thuế v ... BCTC cũng chưa phát huy vai trò cung cấp thông tin để ra quyết định cho các đối tượng sử dụng thông tin. Hình 4. Mục đích sử dụng BCTC của SMEs Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả 30 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 4.2.2. Mức độ tuân thủ chuẩn mực và chất lượng thông tin BCTC SMEs Bảng 2. Nhận thức của SMEs về mức độ tuân thủ VAS, sự phù hợp của VAS, độ tin cậy của TT BCTC Mean SD % trên tổng phản hồi 1 2 3 4 5 Mức độ tuân thủ chuẩn mực (1) 3,94 0,602 0 0 21,5 63,4 15,1 Sự phù hợp của VAS (2) 3,32 0,607 0,3 5,9 56,7 36,3 0,8 Độ tin cậy của thông tin BCTC (3) 3,26 0,757 2,5 6,7 57,8 28,2 4,7 (1): thang đo: 1- rất thấp, 2- thấp, 3- trung bình, 4- cao, 5- rất cao (2): thang đo: 1- rất không phù hợp 5- rất phù hợp (3): thang đo: 1- chưa đạt, 2- kém, 3- trung bình, 4- khá, 5- tốt Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả Mức độ tuân thủ chuẩn mực của SMEs được đa số đối tượng khảo sát đánh giá ở mức cao (xem bảng 2). Các lý do được đề nghị nhiều là kế toán viên nhận thức tốt về chuẩn mực kế toán (67,1%), trình độ chuyên môn của kế toán trưởng cao (53,9%) và chủ DN/ nhà quản lý quan tâm đến công việc kế toán (52,5%). Tuy nhiên, chỉ có 19,3% DN khẳng định việc tuân thủ cao là do DN nhận thức được lợi ích cao hơn chi phí khi tuân thủ (xem hình 5). Kết quả này có điểm giống với nghiên cứu của Dang (2006), SMEs không quan tâm đến chi phí và lợi ích của việc tuân thủ chuẩn mực kế toán. Hình 5. Lý do mức tuân thủ tuân thủ VAS cao Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả 21,5% số SMEs tham gia khảo sát thừa nhận mức độ tuân thủ không cao chủ yếu do VAS phức tạp và chủ DN/nhà quản lý không nhận thấy lợi ích khi tuân thủ VAS (> 50% tán thành) (xem hình 6). Hơn nữa, gần 50% ý kiến đồng ý lý do SMEs có mức tuân thủ chuẩn mực không cao vì BCTC không hữu ích cho việc ra quyết định. Lý do này tiếp tục hỗ trợ thêm có các kết luận trên về mục đích sử dụng thông tin BCTC. SMEs tuân thủ chuẩn mực xuất phát từ chính bản thân của người làm kế toán có nhận thấy tầm quan trọng của chuẩn mực kế toán đối với chất lượng thông tin BCTC hay không, 31 Nhận thức của doanh nghiệp . . . nếu SMEs không thấy được lợi ích từ việc tuân thủ chuẩn mực, BCTC chỉ lập để nộp theo yêu cầu quản lý của NN, ngoài ra không hữu ích đối với chính bản thân DN, thì vai trò của chuẩn mực kế toán trở nên vô nghĩa đối với SMEs. Hình 6. Lý do mức tuân thủ tuân thủ VAS thấp Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả Hơn nữa, 62,9% đối tượng khảo sát tán đồng ở mức cao là BCTC lập theo VAS hiện hành chỉ đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin hữu ích do cho các đối tượng sử dụng thông tin ở mức thấp và trung bình (xem bảng 2). Lý do được đề cập gồm chi phí cao hơn lợi ích khi áp dụng chuẩn mực, quy mô của DN không phù hợp để áp dụng và chủ yếu là các DN khảo sát phàn nàn về khả năng xử lý của VAS đối với các vấn đề liên quan đến hoạt động SXKD của DN còn thấp (71,4%) (xem hình 7). Hình 7. Lý do VAS hiện hành không phù hợp Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả Ngoài ý kiến về sự hữu ích của thông tin BCTC lập theo VAS hiện hành, SMEs còn đánh giá độ tin cậy về thông tin cung cấp trên BCTC chỉ ở mức trung bình (Mean = 3,26) (xem bảng 2). Lý giải tại sao BCTC theo VAS hiện hành không đáp ứng yêu cầu thông tin hữu ích và mức độ tin cậy của thông tin BCTC thấp, ngoài lý do chuẩn mực không phù hợp, DN không thấy lợi ích khi áp dụng chuẩn mực, SMEs thừa nhận kế toán của DN quan tâm đến việc tuân thủ các quy định của thuế nhiều hơn các chuẩn mực kế toán và tỷ lệ cũng khá cao khẳng định chủ DN cũng chỉ quan tâm đến kê khai thuế hơn là chất lượng thông tin BCTC (69,5%) (xem hình 8). 32 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Hình 8. Lý do mức độ tin cậy thông tin BCTC thấp Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả Thuế tác động mạnh mẽ đến DN nên chủ DN cũng tác động đến kế toán và cả bản thân người làm kế toán cũng sẽ lựa chọn những phương pháp kế toán tương tự như quy định của thuế nhiều hơn nhằm tránh sự khác biệt với thuế, để hạn chế khó khăn khi giải trình với chủ DN và cả cơ quan thuế. Những nguyên nhân này đã làm cho chất lượng BCTC kém. Kết quả nghiên cứu này tương tự nghiên cứu của Albu et al [1] và Dang et al [15]. Như vậy, dường như có sự mâu thuẫn trong trả lời khảo sát, SMEs khẳng định mức độ tuân thủ chuẩn mực của DN cao nhưng lại đánh giá mức độ tin cậy của thông tin BCTC rất thấp. Mẫu thuẫn này chứng tỏ tuân thủ chuẩn mực kế toán chỉ là hình thức, thực chất việc lựa chọn phương pháp kế toán theo thuế và thông tin BCTC của SMEs hiện hành cũng chỉ chủ yếu phục vụ cho thuế đối với hầu hết SMEs. 4.2. Sự cần thiết của chuẩn mực BCTC riêng cho SMEs và nhu cầu cần áp dụng IFRS for SMEs Hình 9. Nhu cầu cần xây dựng chuẩn mực BCTC riêng cho SMEs Hình 10. Nhu cầu cần áp dụng IFRS for SMEs Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả Từ nhận định thông tin BCTC SMEs không đáng tin cậy, kết hợp với việc đánh giá VAS hiện hành chưa phù hợp, phần lớn DN khảo sát cho rằng cần thiết phải xây dựng CMBCTC riêng cho SMEs (73,7%) (xem hình 9). Hình11 tổng kết một số nhân tố tác động làm nảy sinh nhu cầu này. Cụ thể là, chuẩn mực hiện hành phức tạp, đối tượng sử dụng thông tin và mức độ phức tạp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh của SMEs khác với công ty niêm yết, chi phí vượt quá lợi ích khi SMEs tuân thủ chuẩn mực hiện hành. Trong đó, sự khác biệt về đối tượng sử dụng thông tin giữa SMEs và các công ty niêm yết là nhân tố quan trọng nhất trong quyết định cho rằng chuẩn mực BCTC riêng thật sự cần thiết đối với SMEs (58,2%). Kết luận này phù hợp với lý do cần thiết phải có hệ thống BCTC khác nhau theo nghiên cứu của Morris & Campell [21]. 33 Nhận thức của doanh nghiệp . . . Hình 11. Lý do cần xây dựng CMBCTC riêng cho SMEs Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả Mặc dù SMEs VN có một số đặc tính không thuận lợi cho việc áp dụng IFRS for SMEs vì đa số SMEs có quy mô khá nhỏ, hoạt động chủ yếu ở thị trường trong nước, thông tin BCTC dường như hiếm khi được sử dụng cho việc ra quyết định đối với SMEs tổ chức dưới dạng gia đình, nhưng gần 60% DN đánh giá IFRS for SMEs cần thiết đối với nhu cầu của họ trong xu hướng VN ngày càng hội nhập với kế toán quốc tế (hình 10). Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Bohusova & Blaskova [3] khi thực hiện nghiên cứu về cách thức áp dụng của các quốc gia trên thế giới.Họ cho rằng các quốc gia đang phát triển có chất lượng BCTC thấp thường có xu hướng thích áp dụng IFRS for SMEs vì cần hội nhập kinh tế quốc tế và có nhu cầu mạnh mẽ trong việc xây dựng chuẩn mực báo cáo tài chính có chất lượng cao. 5. KẾT LUẬN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO Mục tiêu nghiên cứu của bài báo nhằm xác định nhận thức của KTT SMEs VN về VAS, chất lượng BCTC và nhu cầu cần hội tụ với IFRS for SMEs. Để thực hiện mực tiêu này, tác giả đã thực hiện khảo sát bằng bẳng câu hỏi và nhận được 358 phản hồi đạt yêu cầu đưa vào phân tích. Với kết quả khảo sát trên, một số đặc điểm của SMEs VN đã thể hiện khá rõ nét. Nhìn chung, SMEs của VN có quy mô không lớn so với SMEs của các quốc gia trên thế giới và còn khá hạn chế trong các hoạt động liên quan quốc tế. Những đặc điểm này là vấn đề cần cân nhắc khi khi quyết định áp dụng IFRS for SMEs ở VN. SMEs nhận định đối tượng chính sử dụng BCTC của SMEs là cơ quan thuế, chủ sở hữu, ngân hàng, nhà đầu tư. Mức độ tuân thủ VAS được đánh giá khá cao, nhưngtỷ lệ SMEs nhận định mức độ tuân thủ cao do DN nhận thức được lợi ích cao hơn chi phí khi tuân thủ thấp nhất trong các lý do, chỉ có 19,3%. Vì thế, việc tuân thủ VAS ở SMEs chỉ là hình thức. Điều này cũng bổ sung thêm cho kết quả khảo sát về mục tiêu sử dụng BCTC của SMEs, hơn 80% đối tượng khảo sát thừa nhận BCTC của SMEs hiện hành chủ yếu chỉ để đáp ứng yêu cầu quản lý của các cơ quan NN. Hơn nữa, 62,9 % SMEs thừa nhận mức VAS chỉ đáp ứng yêu cầu của SMEs ở mức độ trung bình, đồng thời độ tin cậy của thông tin BCTC cũng được đánh giá ở mức độ không cao. Như vậy, các kết quả khảo sát về lý do dẫn đến mức tuân thủ cao hay thấp, thông tin BCTC có đáng tin cậy và hữu ích đối với người sử dụng thông tin hay không đã có thể giúp nghiên cứu kết luận VAS không phù hợp với yêu cầu của SMEs. SMEs không quan tâm đến áp dụng chuẩn mực, hoặc áp dụng chỉ mang tính chất 34 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật đối phó. Mặt khác, các chính sách về thuế ảnh hưởng mạnh đến DN dẫn đến chất lượng thông tin BCTC không cao, mục đích sử dụng BCTC để ra các quyết định kinh tế đã không phát huy tác dụng. Vì vậy, để khuyến khích SMEs tự nguyện tuân thủ chuẩn mực kế toán, không chỉ là bản thân chuẩn mực kế toán phù hợp mà cả vấn đề thay đổi nhận thức của các cơ quan NN và của DN là một trong những vấn đề cần lưu ý. Với quan điểm đánh giá về VAS hiện hành, SMEs cho rằng cần thiết phải xây dựng chuẩn mực BCTC riêng cho SMEs. Mặc dù sự tham gia vào các hoạt động quốc tế của SMEs VN còn hạn chế nhưng nhu cầu cần áp dụng IFRS for SMEs cũng được đánh giá khá cao (trên 60%). Nghiên cứu của tác giả vẫn còn một vài giới hạn bởi vì tác giả chỉ khảo sát ý kiến của KTT SMEs, đây chỉ là một trong số các đối tượng liên quan đến BCTC của SMEs. Các khảo sát để thu thập ý kiến của các đối tượng tạo lập và sử dụng thông tin BCTC của SMEs nên được tiếp tục thực hiện. Mặc dù có một vài hạn chế, nhưng với kết quả phân tích trên, các vấn đề tồn tại của VAS, chất lượng thông tin BCTC của SMEs đã được đánh giá và giải thích lý do của những tồn tại trên nhiều khía cạnh. Đồng thời, bước đầu xác lập nhu cầu cần áp dụng IFRS for SMEs VN. Đây là một trong những điều kiện và động lựcthúc đẩy các nhà ban hành chuẩn mực nhanh chóng thực hiện các kế hoạch hội tụ với kế toán quốc tế. Với những đóng góp đó, tác giả tin rằng bài viết thật sự hữu ích đối với các nhà ban hành chuẩn mực, các chuyên gia kế toán, kiểm toán và cả những đối tượng có liên quan khác đến BCTC của SMEs. CHÚ THÍCH MỘT SỐ THUẬT NGỮ 1. IASB- International Accounting Standards Board: Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế 2. IFRS- International Financial Reporting Standards: Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế 3. IFRS for SMEs- International Financial Reporting Standards for small-medium sized entities: Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho các DN nhỏ và vừa 4. SMEs- Small- medium sized entities: DN nhỏ và vừa TÀI LIỆU THAM KHẢO [1].Albu, C.N., Albu, N., Pali-Pista, S. F., Girbina, M. M., Selimoglu, S. K., Kovacs, D. M., Lukacs, J., Mohl, G., Mullerova, L. (2013),Implementation of IFRS for Smes in emrging economies: Stakeholder perceptions in the Czech Republic, Hungary, Romania and Turkey,Journal of international financial management & accounting, 24(2), 141-75. [2]. Atik, A. (2010). SME’s views on the adopiton and application of “IFRS for SMEs” in Turkey. European research studies, XIII(4), 19-31. [3]. Bohusova, H. & Blaskova, V.(2012), In what way are countries which have already adopted IFRS for SMEs different,Acta. Univ. Agric. Silvic. Mendelianae Brun, 60(2), 37-44 [4]. Bộ Tài Chính (2014), Chế độ kế toán doanh nghiệp, theo Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014, Bộ Tài Chính, Hà Nội. [5]. Bộ Tài Chính (2006), Chế độ kế toán doanh nghiệp DN, theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006, Bộ Tài Chính, Hà Nội. [6]. Bộ Tài Chính (2006), Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa, theo Quyết định số 48/2006/QĐ- BTC ngày 14/09/2006, Bộ Tài Chính, Hà Nội. [7]. Bộ Tài Chính (2001), Sửa đổi chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ, theo QĐ 144/TC/QĐ-CĐKT ngày 21/12/2001, Bộ Tài Chính, Hà Nội. 35 Nhận thức của doanh nghiệp . . . [8]. Bộ Tài Chính (1996), Chế độ kế toán cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, theo Quyết định số 1171/TC/ QĐ-CĐKT ngày 23/12/1996, Bộ Tài Chính, Hà Nội. [9]. Bunea, S., Sacarin, M. & Minu, M. (2012),Romanian professional accountants’ perception on the differential financial reporting for small and medium-sized enterprises, Accounting and management information systems, 11(1), pp. 27- 43. [10]. Chính phủ (2013), Chiến lược kế toán- kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, theo Quyết định số 480/2013/QĐ-TTg ngày 18/03/2013, Hà Nội. [11]. Chính phủ (2009), Về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, theo Nghị định số 56/2009/ NĐ-CP ngày 30/06/2009, Hà Nội. [12]. Chính phủ (2001), Về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, theo Nghị định số 90/2001/ NĐ-CP ngày 23/11/2001, Hà Nội. [13]. Chính phủ (1998), Định hướng chiến lược và chính sách phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, theo Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/06/1998, Hà Nội. [14]. Chúc Anh Tú (2010), Chuẩn mực kế toán cho DN nhỏ và vừa, Tạp chí kế toán, Số 86, tháng 10/2010. [15]. Dang, D.S., Marriott, N. & Marriott, P. (2006), Users’ perceptions and users of financial reports of small and medium companies (SMCs) in transitional economies: qualitative evidence from VietNam,Qualitative research in accounting & management, 3(3), 218-235. [16]. IASB (2009), International financial reporting standards for small and medium- sized entities (IFRS for SMEs), truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2010. [17]. ICAEW (2013a),The future of UK GAAP, uk-gaap/uk-gaap-consultations/future-of-uk-gaap, truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2013. [18]. ICAEW (2013b),The new UK regime- new UK GAAP factsheet – Extract, media/Files/Join-us/Join-a-faculty-sig/the-new-uk-gaap-regime-09092013-sample.pdf, truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2014. [19]. Maingot, M. & Zeghal, D., 2006. Financial reporting of small business entities in Canada. Journal of small business management, 44(4), pp. 513-530. [20]. MASB (2013),MASB issues Roadmap for Private Entities Financial Reporting Framework (1 March 2013), temid=14, truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2013. [21]. Morris, P. & Campell, J., 2006. Big GAAP- little GAAP: does one- size- fits- all still work?. Journal of business & economics research, 4(5), pp. 73-81 [22]. Nguyễn Vũ Việt & Mai Ngọc Anh (2010), Chuẩn mực kế toán áp dụng cho DN nhỏ và vừa: Kinh nghiệm quốc tế và vận dụng ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp học viện. Học viện tài chính- Hà Nội. [23]. Pacter, P.(2011), Presentations about the SMEs- IFRS for SMEs. Meeting of Representatives of the CIS and Baltic States professional bodies and standard setters, Documents/1111CISBalticSMEEnglish.pdf,truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2012. [24]. Perera, D., Chand, P. (2015), Issues in the adoption of international financial reporting standards (IFRS) for small and medium- sized enterprises (SMEs), Advances in accounting, incorporating advances in international accounting, 31(2015), 165-178. [25]. Ploybut, S. (2012). Financial reporting by small and medium enterprises in Thailand. PhD thesis, university of Portsmouth, UK. [26]. Phạm Quang Huy (2011), Chuẩn mực lập và trình bày BCTC quốc tế đối với DN nhỏ và vừa: Những hướng dẫn mới năm 2010, Tạp chí kế toán, Số 90, tháng 3/2011. [27]. Trần Đình Khôi Nguyên (2011), Các nhân tố ảnh hưởng vận dụng chuẩn mực kế toán trong các DN nhỏ và vừa tại Đà Nẵng,Tạp chí Phát triển kinh tế, Số 252, tháng 10/2011.
File đính kèm:
- nhan_thuc_cua_doanh_nghiep_nho_va_vua_ve_chuan_muc_ke_toan_v.pdf