Nguyên nhân và biện pháp xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng qua báo cáo kiểm toán của kiểm toán Nhà nước

Dòng vốn từ các tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay đối với các tổ chức, cá nhân được ví như huyết mạch của nền kinh tế thì nợ xấu luôn được ví như “cục máu đông” có thể gây tắc nghẽn hoạt động của hệ thống TCTD và cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Tỷ lệ nợ xấu của các TCTD hiện tại tương đối cao, nợ tiềm ẩn có thể phát sinh thành nợ xấu lớn.

Trước thách thức của việc nợ xấu ngày càng gia tăng, Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã triển khai một loạt

các biện pháp để xử lý nợ xấu nhằm khai thông những cục máu đông của nền kinh tế, nhưng việc xử lý nợ

xấu thời gian qua còn nhiều khó khăn, xử lý chưa nhiều, nhiều khoản nợ xấu xử lý chỉ là hình thức, chưa

triệt để và hiệu quả, trong việc xử lý còn xuất hiện nhiều sự bất cập thể hiện qua các vướng mắc, khó khăn

từ cơ chế, chính sách pháp luật và thực tế thực hiện.

pdf 5 trang kimcuc 20920
Bạn đang xem tài liệu "Nguyên nhân và biện pháp xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng qua báo cáo kiểm toán của kiểm toán Nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nguyên nhân và biện pháp xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng qua báo cáo kiểm toán của kiểm toán Nhà nước

Nguyên nhân và biện pháp xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng qua báo cáo kiểm toán của kiểm toán Nhà nước
12
Minh baïch hoùa hoaït ñoäng taøi chính tín duïng - nôï xaáu vaø sôû höõu cheùo
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 116 - tháng 6/2017
NGUyEÂN NHAÂN VAØ bIEÄN PHAÙP
xÖû lyÙ NÔÏ xAáU CUûA CAÙC TOÅ CHÖÙC TÍN dUÏNG 
QUA bAÙO CAÙO KIEÅM TOAÙN CUûA
KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC 
TS. LÊ THẾ Sáu*
*Kiểm toán nhà nước chuyên ngành VII
Dòng vốn từ các tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay đối với các tổ chức, cá nhân được ví như huyết mạch của nền kinh tế thì nợ xấu luôn được ví như “cục máu đông” có thể gây tắc nghẽn hoạt động của hệ thống TCTD và cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Tỷ lệ nợ xấu của các TCTD hiện tại tương đối cao, nợ tiềm ẩn có thể phát sinh thành nợ xấu lớn. 
Trước thách thức của việc nợ xấu ngày càng gia tăng, Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã triển khai một loạt 
các biện pháp để xử lý nợ xấu nhằm khai thông những cục máu đông của nền kinh tế, nhưng việc xử lý nợ 
xấu thời gian qua còn nhiều khó khăn, xử lý chưa nhiều, nhiều khoản nợ xấu xử lý chỉ là hình thức, chưa 
triệt để và hiệu quả, trong việc xử lý còn xuất hiện nhiều sự bất cập thể hiện qua các vướng mắc, khó khăn 
từ cơ chế, chính sách pháp luật và thực tế thực hiện.
Từ khóa: nợ xấu
Reasons and solutions to handle bad debt of the credit institutions through SAV’S auditing report
Capital flows from credit institutions to organizations and individuals are considered as the lifeblood of 
the economy. Bad debts are always like “blood clots” that can obstruct the operation of credit institutions 
and obstruct the development of the economy. The current bad debt ratio of the existing credit institutions 
is relatively high. Potential debt can arise as bad debts. In the face of the challenge of increasing bad debt, the 
Party, State and Government have implemented a series of measures to deal with bad loans aimed at clearing 
the blood clots of the economy. In recent years, many difficulties have been dealt with, many bad debts have 
been handled in an inefficient and effective manner, tracing from mechanisms, policies and practices.
key word: bad debt
1. Thực trạng tình hình nợ xấu của TCTD 
trong thời gian vừa qua
Theo số liệu của Báo cáo kiểm toán của KTNN 
cho thấy nợ xấu của hệ thống các TCTD trong 
những năm vừa qua đã hình thành, tăng nhanh và 
ở mức rất lớn mặc dù các TCTD, NHNN và Chính 
phủ đã thực hiện rất nhiều giải pháp để xử lý nợ 
xấu, hạn chế phòng ngừa nợ xấu, cụ thể:
 - Tại thời điểm cuối năm 2015 nếu tính đầy 
đủ nợ xấu sẽ vào khoảng 476.860 tỷ đồng tương 
đương tỷ lệ 8,85%, bao gồm: nợ xấu nội bảng là 
131,8 nghìn tỷ đồng, nợ xấu tồn đọng tại VaMC 
197,316 nghìn tỷ đồng, nợ xấu được cơ cấu lại 107 
nghìn tỷ đồng, các khoản nợ xấu chưa chuyển theo 
kết luận thanh tra 40,746 nghìn tỷ đồng; 
- Tại thời điểm cuối năm 2016, nếu tính đầy đủ 
nợ xấu sẽ vào khoảng là 600,01 nghìn tỷ đồng so 
13NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 116 - tháng 6/2017
với 5.949,5 nghìn tỷ đồng tổng dư nợ cho vay, đầu 
tư đối với nền kinh tế chiếm tỷ lệ 10,08% tổng dư 
nợ cho vay. Cụ thể, nợ xấu nội bảng là 150.124,4 
tỷ đồng, nợ xấu VaMC đã mua nhưng chưa xử lý 
là 195,75 nghìn tỷ đồng; nợ xấu được cơ cấu lại là 
136,8 nghìn tỷ đồng; trái phiếu doanh nghiệp tiềm 
ẩn trở thành nợ xấu là 23,76 nghìn tỷ đồng; các 
khoản khác phải thu 49,53 nghìn tỷ đồng; lãi phải 
thu bất hợp lý phải thoái 44,04 nghìn tỷ đồng.
2. Nguyên nhân nợ xấu của các TCTD thời 
gian qua 
Việc nợ xấu phát sinh lớn và tăng nhanh như 
vậy có nhiều nguyên nhân, một số nguyên nhân 
chính như: xuất phát từ phía người vay vốn, từ phía 
ngân hàngvà từ những bất ổn của nền kinh tế:
Thứ nhất, Từ sự bất ổn của nền kinh tế, cụ thể: 
những năm vừa qua xuất phát chính từ cuộc khủng 
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, nền kinh tế thế 
giới bắt đầu khủng hoảng, với tín dụng dưới chuẩn 
ở Mỹ và sau đó là nợ công ở khu vực đồng tiền 
chung Châu Âu. Cùng với những yếu kém được tích 
tụ qua nhiều năm trong nội tại của nền kinh tế, nền 
kinh tế Việt Nam bắt đầu suy giảm, đặc biệt là lạm 
phát tăng cao, sản xuất kinh doanh đình trệ (lạm 
phát năm 2010 là 11,75%; năm 2011 là 18,58%); lãi 
suất ngân hàng tăng cao nhanh chóng (năm 2011 
lãi suất cho vay VNĐ khoảng 17-20%/năm, thậm 
chí trên mức 37%/năm), thanh khoản và khả năng 
sinh lời của hệ thống ngân hàng suy giảm dẫn đến 
có nhiều doanh nghiệp phải giải thể, ngừng hoạt 
động (năm 2011: 54.114 doanh nghiệp; năm 2012: 
54.261 doanh nghiệp; chỉ số hàng tồn kho tăng cao 
trên 20%/năm trong giai đoạn 2011-2012) cũng đã 
tạo ra nợ xấu.
Thứ hai, Do sở hữu của nhóm cổ đông chi phối, 
sở hữu chéo giữa ngân hàng với doanh nghiệp tại 
Việt Nam trong những năm gần đây làm cho quan 
hệ cho vay trở nên rất phức tạp, cụ thể: Nhiều công ty 
không thuộc lĩnh vực tài chính nhưng lại đầu tư dài 
hạn với vai trò nhà sáng lập, nhà đầu tư chiến lược 
trong các ngân hàng dẫn đến tình trạng một số ngân 
hàng thu xếp vốn cho những dự án đầu tư chưa minh 
bạch. Việc sở hữu chéo này đã dẫn đến tình trạng các 
ngân hàng tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp sở 
hữu ngân hàng có thể dễ dàng vay được vốn, hoặc dễ 
dàng cho các công ty con của các doanh nghiệp có 
vốn sở hữu tại ngân hàng vay vốn. Việc cho vay dễ 
dàng, thiếu kiểm soát cộng với việc thẩm định vốn 
vay thiếu cẩn trọng tất yếu sẽ dẫn đến nợ xấu. Đây 
14
Minh baïch hoùa hoaït ñoäng taøi chính tín duïng - nôï xaáu vaø sôû höõu cheùo
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 116 - tháng 6/2017
chính là nguyên nhân gây ra tình trạng bất ổn nhất 
trong hệ thống ngân hàng và dẫn đến tình trạng nợ 
xấu đặc biệt tăng cao. Nổi bật là các khoản nợ xấu lên 
đến hàng chục nghìn tỷ đồng liên quan đến các vụ 
án trọng điểm của các ngân hàng như nhóm nợ xấu 
của 06 Công ty liên quan đến ông Nguyễn Đức Kiên 
tại Ngân hàng aCB, nhóm khách hàng Thiên Thanh 
tại Ngân hàng Xây dựng, các khoản nợ của ông Tạ Bá 
Long, Đoàn Văn an tại GP Bank...
Thứ ba, Do tình hình hoạt động của ngân hàng 
còn nhiều yếu kém như: Ngân hàng quá đề cao chỉ 
tiêu doanh thu, lợi nhuận, tăng trưởng tín dụng 
nóng; các ngân hàng đua nhau mở rộng mạng 
lưới chi nhánh, điểm giao dịch, cạnh tranh chiếm 
thị trường, sẵn sàng áp dụng mọi hình thức kinh 
doanh để tận thu trong khi còn nhiều hạn chế về 
năng lực quản lý, điều hành, điều kiện cấp tín dụng 
lỏng lẻo và quy trình kinh doanh quản lý tín dụng 
chưa chặt chẽ. Bên cạnh đội ngũ cán bộ yếu kém, 
hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ để phòng, 
chống các hành vi vi phạm trong hoạt động tín 
dụng tại một số ngân hàng còn kém hiệu quả, chưa 
đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa, phát hiện và xử 
lý từ đó tạo ra kẽ hở về cơ chế, chính sách để những 
người làm việc trong ngân hàng lợi dụng thực hiện 
hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ tư, Xuất phát từ phía khách hàng vay vốn 
như: Khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân 
hàng như khách hàng cung cấp thông tin sai lệch 
trên hồ sơ vay vốn, làm sai lệch về tình hình tài 
chính, tính khả thi của việc sử dụng vốn vay và khả 
năng trả nợ; cố tình gian lận liên quan đến giá trị 
tài sản thế chấp bao gồm nâng giá trị tài sản thế 
chấp và thế chấp cùng một tài sản tại nhiều ngân 
hàng; làm giả một số giấy tờ chứng nhận quyền sở 
hữu tài sản... Ngoài ra còn trường hợp khách hàng 
kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ do 
khách hàng có trình độ yếu kém trong dự đoán các 
vấn đề kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sản 
phẩm chất lượng thấp không bán được dẫn đến 
không trả được nợ của ngân hàng.
Thứ năm, Quy định pháp luật nhằm hạn chế, 
giải quyết tình trạng nợ xấu đã có nhưng chưa rõ 
ràng, chưa hợp lý.
Có thể thấy rằng, pháp luật hiện hành đã có 
những khung pháp lý cơ bản trong việc hạn chế 
cũng như giải quyết nợ xấu của các TCTD như: quy 
định về phân loại nợ; quy định về xử lý tài sản đảm 
bảo nợ; quy định về quyền khởi kiện yêu cầu các tổ 
chức cá nhân hoàn trả vốn vay; quy định về hoạt 
động mua bán nợ Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy, 
quy định khi đi vào thực tế còn có điểm chưa phù 
hợp, bị lợi dụng và không phát huy được hiệu quả 
trong việc giải quyết nợ xấu, dẫn đến tình trạng nợ 
xấu không được cải thiện mà còn có xu hướng tăng 
lên. Có thể kể đến những hạn chế như:
- Về quy định phân loại nợ và quy định về cơ cấu 
lại nợ: Quy định phân loại nợ xấu những năm vừa 
qua còn những điểm chưa rõ ràng, đó là NHNN 
vẫn đang cho phép các ngân hàng được lựa chọn 
1 trong 2 phương pháp phân loại nợ (định tính 
hoặc định lượng) tùy theo khả năng và điều kiện 
thực hiện của từng ngân hàng khiến cho các ngân 
hàng vẫn có thể che giấu được tình trạng nợ xấu 
của mình; nhiều ngân hàng đã lợi dụng quy định về 
điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ để phản ánh 
sai lệch chất lượng tín dụng, biến nợ xấu thành nợ 
đủ tiêu chuẩn, cố tình đánh giá hoạt động sản xuất 
kinh doanh của khách hàng theo chiều hướng tích 
cực và có khả năng trả nợ tốt sau khi điều chỉnh kỳ 
hạn trả nợ, gia hạn nợ để giữ nguyên nhóm nợ của 
khách hàng.
- Về hệ thống quy định pháp luật để vận hành 
thị trường mua bán nợ còn chưa đầy đủ: Quyền 
và trách nhiệm của người mua nợ, người bán nợ, 
người xử lý nợ chưa được quy định rõ ràng; chủ 
thể tham gia thị trường mua bán nợ đang bị hạn 
chế; việc định giá khoản nợ đến nay chưa có quy 
định cụ thể, cơ sở xác định giá trị của khoản nợ rất 
phức tạp.
- Về vướng mắc khi xử lý tài sản bảo đảm để thu 
hồi nợ: Để bán được tài sản bảo đảm thì trước hết 
cần phải thu giữ được tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, 
việc thu giữ tài sản bảo đảm trong thực tế là hết 
15NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 116 - tháng 6/2017
Xử 
lý nợ 
xấu
Xử lý nợ xấu (tỷ đồng)
Tổng 
số
kH 
trả nợ
TCTD 
nhận TSBĐ 
thay cho 
nghĩa vụ 
trả nợ
Bán 
phát mại 
TSBĐ để 
thu hồi 
nợ
Sử 
dụng 
DPRR
Chuyển 
nợ xấu 
thành 
vốn góp
Bán nợ
Hình 
thức 
khác
Bên 
thứ 3 
trả nợ
Tổng 
số
Bán 
cho 
VAMC
Năm 
2012 74.676 25.322 0 4.077 35.176 0 0 3.743 0 6.358
Năm 
2013 87.976 15.944 0 2.533 30.387 0 0 36.150 29.578 2.962
Năm 
2014 143.549 21.610 199 3.374 30.556 0 437 83.448 79.612 3.926
Năm 
2015 186.894 29.069 1.656 3.931 35.433 136 690 96.607 95.049 19.372
Trong tất cả các biện pháp nêu trên, việc xử lý 
nợ xấu bằng biện pháp bán nợ cho VaMC chiếm tỷ 
lệ cao nhất. Sau 4 năm đi vào hoạt động, tính đến 
31/12/2016 tổng dư nợ xấu đã mua và được VaMC 
quản lý là 235.872 tỷ đồng với mệnh giá trái phiếu 
đã phát hành (bằng với giá mua nợ) là 207.685 tỷ 
đồng và lũy kế từ khi thành lập đến 31/12/2016, 
VaMC đã thu hồi được 50.165 tỷ đồng nợ xấu, 
trong đó bao gồm: bán lại nợ cho TCTD số tiền 
8.083 tỷ đồng; bán TSĐB số tiền 12.219 tỷ đồng; 
khách hàng tự trả nợ số tiền 29.863 tỷ đồng; tổng 
số nợ xấu được điều chỉnh lãi suất là 1.981 tỷ đồng; 
nợ xấu được cơ cấu lại thời hạn trả nợ là 907 tỷ 
đồng; nợ xấu được miễn giảm lãi là 2.137 tỷ đồng. 
Tuy nhiên thực tế cho thấy trong tổng số thu hồi nợ 
cũng như cơ cấu nợ, hầu hết VaMC ủy quyền cho 
các TCTD bán nợ xử lý, thu hồi, một phần khách 
hàng tự trả cho các TCTD. Năm 2016 VaMC chỉ 
thực hiện phối hợp với TCTD bán TSĐB thu hồi số 
tiền 603 tỷ đồng. Như vậy, VaMC chỉ hoàn thành 
nhiệm vụ mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt theo 
kế hoạch được NHNN phê duyệt, góp phần ổn 
định hệ thống các TCTD còn các nhiệm vụ khác 
như mua nợ theo giá thị trường, xử lý các khoản nợ 
đã mua... theo quy định tại khoản 1, điều 12 Nghị 
định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013, VaMC 
sức khó khăn, chưa có cơ chế nào để bắt buộc được 
chủ tài sản phải bàn giao tài sản bảo đảm. Nếu chủ 
tài sản không tự nguyện bàn giao thì bắt buộc phải 
yêu cầu tòa án giải quyết theo Điều 301 Luật Dân 
sự 2015, nên việc xử lý sẽ mất rất nhiều thời gian và 
công sức; trường hợp khách hàng đồng ý bàn giao 
tài sản để đấu giá thì lại gặp khó khăn khi xác định 
giá khởi điểm bán đấu giá.
3. Biện pháp xử lý nợ xấu thời gian qua
Để xử lý tình hình nợ xấu và phòng ngừa hạn 
chế nợ xấu gia tăng tại các TCTD, Đảng, Quốc hội 
và Chính phủ đã đề ra nhiều giải pháp xử lý nợ xấu 
được cụ thể hóa tại Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ 
thống các tổ chức tín dụng” và Đề án “Thành lập 
Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng 
Việt Nam” do Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm 
theo quyết định số 843/QĐ-CP ngày 31/05/2013.
Ngoài ra, nhiều biện pháp xử lý nợ xấu đã được 
các TCTD thực hiện như: Khách hàng trả nợ; bán, 
phát mại tài sản để thu hồi nợ; xử lý bằng nguồn dự 
phòng rủi ro; bán nợ xấu (trong đó có bán nợ cho 
Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam 
(VaMC) để các TCTD bán lại nợ xấu cho VaMC 
và nhận lại bằng Trái phiếu đặc biệt) Cụ thể kết 
quả xử lý nợ xấu đạt được như sau:
16
Minh baïch hoùa hoaït ñoäng taøi chính tín duïng - nôï xaáu vaø sôû höõu cheùo
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 116 - tháng 6/2017
chưa thực hiện hoặc thực hiện được rất ít theo chức 
năng nhiệm vụ được giao. 
Theo NHNN thì nguyên nhân là do một số cơ 
chế, chính sách tối thiểu bảo đảm cho VaMC được 
hoạt động an toàn, hiệu quả vẫn chưa hoàn chỉnh. 
VaMC chưa có các cơ chế, chính sách, quy định 
pháp lý mang tính đặc thù, đặc biệt để xử lý nhanh 
nợ và tài sản bảo đảm của khoản nợ đã mua... đang 
ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của VaMC, 
đặc biệt là việc mua bán nợ theo cơ chế thị trường 
và xử lý các khoản nợ xấu đã mua. Tuy nhiên thực 
tế cho thấy khả năng xử lý của VaMC còn chưa 
đáp ứng được yêu cầu vì bị hạn chế rất nhiều về các 
nguồn lực và việc nắm bắt thông tin các khoản nợ. 
Hiện tại số lượng nợ xấu đã mua là rất lớn nhưng 
việc VaMC nắm rõ tình trạng các khoản nợ cũng 
như tài sản đảm bảo thực chất còn hạn chế, các 
khoản nợ có thể xử lý để thu hồi nợ đều được các 
TCTD mua lại từ VaMC để tự xử lý. Hiện tại việc 
xử lý nợ xấu do các TCTD tự thực hiện vẫn đang 
hiệu quả hơn do TCTD nắm bắt được thực trạng 
khoản nợ, tài sản đảm bảo, có nguồn lực con người 
và gắn lợi ích trực tiếp của các TCTD. 
4. Các giải pháp hạn chế phòng ngừa nợ xấu
Hiệu quả trong công tác xử lý nợ xấu thời gian 
vừa qua cho thấy còn nhiều sự bất cập mà chưa thể 
xử lý được nhanh và thực chất, một phần nguyên 
nhân chủ yếu là xuất phát từ các khó khăn, vướng 
mắc của cơ chế, chính sách và pháp luật. 
Việc phòng ngừa và hạn chế nợ xấu có ý nghĩa 
hết sức quan trọng, quan trọng hơn việc xử lý nợ xấu 
thế nào cho nhanh và hiệu quả. Qua bức tranh nợ 
xấu, các biện pháp xử lý nợ xấu trong thời gian vừa 
qua cho thấy, để hạn chế, phòng ngừa nợ xấu có thể 
phát sinh tăng nhanh, ở mức cao như vừa qua cần có 
những giải pháp có tính lâu dài, đồng bộ, hiệu quả và 
thiết thực, thể hiện qua các mặt như sau:
(i) Về mặt điều hành nền kinh tế:
Chính phủ thực hiện điều hành chủ động, linh 
hoạt các chính sách để phát triển nền kinh tế; kịp 
thời ứng phó có hiệu quả đối với các bất ổn và ảnh 
hưởng xấu của các yếu tố trong và ngoài nước đến 
nền kinh tế; tạo mọi điều kiện thuận lợi, bình đẳng 
về mặt pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động sản 
xuất, kinh doanh.
(ii) Về hoàn thiện khung pháp lý:
- Khắc phục ngay các lỗ hổng pháp lý dẫn đến 
các nguy cơ hình thành nợ xấu như tình trạng sở 
hữu chéo, đầu tư chéo; thao túng, chi phối ngân 
hàng của một nhóm cổ đông, cổ đông lớn để cho 
vay sân sau dẫn đến các TCTD hoạt động kém hiệu 
quả và mất khả năng chi trả.
- Hạn chế và ngăn ngừa các Tập đoàn kinh tế, 
Tổng công ty nhà nước đầu tư ngoài lĩnh vực hoạt 
động chính tràn lan, thiếu sự kiểm soát, trong khi 
kinh nghiệm trong quản trị điều hành cũng như 
hiểu biết về các lĩnh vực đầu tư như tài chính, bảo 
hiểm, chứng khoán, vàng còn hạn chế.
(iii) Tăng cường quản lý nhà nước:
Tăng cường chức năng giám sát, kiểm tra, thanh 
tra của các cơ quan quản lý nhà nước đảm bảo hiệu 
quả và hiệu lực đối với hoạt động của các TCTD.
(iv) Nâng cao năng lực hoạt động của TCTD:
- TCTD cần phải kiểm soát và nâng cao được 
chất lượng tín dụng, hạn chế việc cho vay đầu tư 
vào những lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro như bất 
động sản, chứng khoán.
- Các TCTD phải nâng cao chất lượng thẩm 
định, xét duyệt cho vay đảm bảo chặt chẽ, tuân thủ 
đầy đủ các quy định của pháp luật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước và các 
ngân hàng thương mại năm 2015, 2016.

File đính kèm:

  • pdfnguyen_nhan_va_bien_phap_xu_ly_no_xau_cua_cac_to_chuc_tin_du.pdf