Nghiên cứu tác động của chất lượng thông tin kế toán đến quá trình ra quyết định của doanh nghiệp Việt Nam

NBắc Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình với 177 bảng hỏi sử dụng được từ 265 phiếu được gửi tới các nhà ghiên cứu đã được thực hiện tại 77 DN sản xuất trên địa bàn các thành phố Hà Nội, Hải Dương,

quản trị (NQT) cấp cao và những người phụ trách công tác kế toán nhằm tìm hiểu tác động của các đặc

tính chất lượng thông tin kế toán (CLTTKT) đến quá trình ra quyết định của DN. Kết quả phân tích cho thấy

cả 4 đặc tính CLTTKT trong mô hình nghiên cứu đề xuất đều có tác động cùng chiều với quá trình ra quyết

định của DN với mức độ tác động lớn nhất là tính hiệu quả, tiếp đó là các đặc tính hữu hiệu, kịp thời, bảo

mật và toàn vẹn. Từ kết quả nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị cần thiết nhằm nâng cao

CLTTKT, đáp ứng tốt hơn cho quá trình ra quyết định của các DN Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng

công nghiệp 4.0.

pdf 13 trang kimcuc 20360
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tác động của chất lượng thông tin kế toán đến quá trình ra quyết định của doanh nghiệp Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu tác động của chất lượng thông tin kế toán đến quá trình ra quyết định của doanh nghiệp Việt Nam

Nghiên cứu tác động của chất lượng thông tin kế toán đến quá trình ra quyết định của doanh nghiệp Việt Nam
Số 142/2020 thương mại
khoa học
1
2 
11 
24 
33 
45 
52 
62 
MỤC LỤC 
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ 
1. Cao Hoàng Long - Phân tích biến động năng suất lao động ngành công nghiệp thực phẩm Việt Nam 
giai đoạn 2010 - 2018. Mã số: 142.1MEco.11 
A Study on Productivity Changes in Vietnam’s Food Industry in the Period 2010- 2018 
2. Nguyễn Hoàng Chung - Đánh giá khả năng phân tích chính sách và dự báo của mô hình KEYNES 
mới: Phương pháp tiếp cận SVAR VÀ BVAR-DSGE. Mã số: 142.1MEIS.11 
Assessment on Policy Analysis and Forecast of New KEYNES Model: Approaches of SVAR 
and BVAR-DSGE 
QUẢN TRỊ KINH DOANH 
3. Phạm Hồng Chương, Nguyễn Hải Sơn và Phạm Thị Huyền - Ảnh hưởng của sự trải nghiệm tới 
sự hài lòng và hành vi mua lại của khách hàng: Nghiên cứu trong lĩnh vực nhà hàng. Mã số: 
142.2BAdm.21 
Customer’ experiences affecting satisfaction level and repurchase behavior: Empirical evi-
dences in F&B sector 
4. Nguyễn Quỳnh Trang - Nghiên cứu tác động của chất lượng thông tin kế toán đến quá trình ra 
quyết định của doanh nghiệp Việt Nam. Mã số: 1422.BAcc.21 
A Study on the Effects of Accounting Information on the Decision Making in Vietnamese 
Enterprises 
5. Nguyễn Thị Khánh Chi - Các nhân tố ảnh hưởng đến triển khai E-CRM thành công tại hãng Hàng 
không quốc gia Việt Nam. Mã số: 142.2BMkt.22 
The Factors Affecting Successful E-CRM Implementation at Vietnam Airlines 
6. Mai Thanh Lan và Đỗ Vũ Phương Anh - Các yếu tố ảnh hưởng đến thương hiệu nhà tuyển dụng 
của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn TP. Hà Nội. Mã số: 142.2BMkt.21 
Factors affecting employer’s brand of small and medium enterprises in Ha Noi city 
Ý KIẾN TRAO ĐỔI 
7. Ngô Mỹ Trân và Lương Thị Thanh Trang - Ảnh hưởng của sự không phù hợp bằng cấp, kỹ năng 
và ngành nghề đến thu nhập người lao động trong các doanh nghiệp ở vùng Đồng bằng sông Cửu 
Long. Mã số: 142.3OMIs.31 
The Impacts of Unmatched Qualifications, Skills, and Employment on Laborer’s Income in 
Enterprises in Mekong Delta 
ISSN 1859-3666
1
1. Đặt vấn đề 
Chất lượng thông tin kế toán cung cấp đã đáp 
ứng được yêu cầu của người sử dụng nói chung và 
nhà quản trị DN nói riêng hay chưa là một trong 
những vấn đề thu hút sự quan tâm hàng đầu trong 
hoạt động quản trị DN và giới nghiên cứu. Các 
nghiên cứu đã công bố đều khẳng định có mối quan 
hệ thuận chiều giữa CLTTKT cung cấp với quá trình 
ra quyết định của người sử dụng. Tuy nhiên, các 
nghiên cứu này thường hướng đến việc nâng cao 
CLTTKT tài chính hỗ trợ cho việc ra quyết định của 
nhóm đối tượng bên ngoài có liên quan về mặt lợi 
ích trực tiếp hoặc gián tiếp với DN như cổ đông, 
ngân hàng, nhà đầu tư trên thị trường chứng 
khoán mà chưa hướng đến đối tượng là nhà quản 
trị (NQT) - những người sử dụng thông tin kế toán 
cho quá trình ra quyết định điều hành, quản lý hoạt 
động của DN. 
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang trong 
thời kỳ khởi phát đã tác động đến tất cả các ngành, 
các lĩnh vực của nền kinh tế, xã hội và môi trường 
trên toàn thế giới với tốc độ đột phá chưa từng có 
trong lịch sử. Khoa học - công nghệ, trong đó có 
khoa học quản lý, khoa học kế toán, kiểm toán đã và 
đang phát triển rất mạnh mẽ với yêu cầu mới, nhiệm 
vụ mới. Trong lĩnh vực kế toán - kiểm toán, sự xuất 
hiện của Điện toán đám mây, dữ liệu lớn Big data, 
Blockchain... đã và se làm thay đổi căn bản quy 
trình, phương thức tạo lập, xử lý dữ liệu và cung cấp 
thông tin kế toán. Những thay đổi đó ít nhiều sẽ ảnh 
hưởng đến CLTTKT cung cấp. Tuy nhiên, so với 
yêu cầu và đòi hỏi của cơ chế quản lý kinh tế, kế 
toán Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế về CLTT, 
về sự tiếp cận với chuẩn mực và thông lệ kế toán 
quốc tế, về chất lượng của đội ngũ những người làm 
nghề kế toán, về phát triển thị trường dịch vụ kế toán 
(Đặng Văn Thanh, 2019). 
Nghiên cứu của chúng tôi sẽ trả lời cho câu hỏi: 
Trong bối cảnh mới, các DN nên tập trung vào các 
đặc tính chất lượng nào của thông tin kế toán để 
thông tin kế toán cung cấp hữu ích hơn? Để trả lời 
cho câu hỏi này, chúng tôi đã tổng hợp và phân tích 
các quan điểm về các tiêu chuẩn đo lường CLTTKT 
làm cơ sở đề xuất mô hình kiểm định mức độ tác 
động của các đặc tính CLTTKT đến quá trình ra 
quyết định của các DN. Từ kết quả nghiên cứu, 
chúng tôi đã đưa ra một số gợi ý định hướng góp 
phần nâng cao CLTTKT cho các DN Việt Nam 
trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0. 
2. Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa chất 
lượng thông tin kế toán và quá trình ra quyết 
định của doanh nghiệp 
Mối liên hệ giữa CLTTKT đối với quá trình ra 
quyết định là một vấn đề phức tạp (Atkinson và 
cộng sự, 2001). Dưới đây là một số lý thuyết liên 
quan giải thích cho mối quan hệ này: 
2.1. Lý thuyết cơ sở nguồn lực 
Quan điểm về nguồn lực được Wernerfelt (1984) 
đề xuất, trên cơ sở nghiên cứu trước đó của Penrose 
(1959) và thực sự có ảnh hưởng mạnh mẽ từ sau 
33
?
Số 142/2020
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN KẾ TOÁN 
ĐẾN QUÁ TRÌNH RA QUYẾT ĐỊNH CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 
Nguyễn Quỳnh Trang 
Đại học Thương mại 
Email: quynhtrangnguyen2408@gmail.com
Ngày nhận: 02/01/2020 Ngày nhận lại: 10/02/2020 Ngày duyệt đăng: 14/02/2020 
N ghiên cứu đã được thực hiện tại 77 DN sản xuất trên địa bàn các thành phố Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình với 177 bảng hỏi sử dụng được từ 265 phiếu được gửi tới các nhà 
quản trị (NQT) cấp cao và những người phụ trách công tác kế toán nhằm tìm hiểu tác động của các đặc 
tính chất lượng thông tin kế toán (CLTTKT) đến quá trình ra quyết định của DN. Kết quả phân tích cho thấy 
cả 4 đặc tính CLTTKT trong mô hình nghiên cứu đề xuất đều có tác động cùng chiều với quá trình ra quyết 
định của DN với mức độ tác động lớn nhất là tính hiệu quả, tiếp đó là các đặc tính hữu hiệu, kịp thời, bảo 
mật và toàn vẹn. Từ kết quả nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị cần thiết nhằm nâng cao 
CLTTKT, đáp ứng tốt hơn cho quá trình ra quyết định của các DN Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng 
công nghiệp 4.0. 
Từ khóa: Chất lượng thông tin kế toán, quá trình ra quyết định, doanh nghiệp Việt Nam. 
?những năm 1990. Theo lý thuyết này, thông tin cũng 
giống như những yếu tố khác (lao động, vốn) là 
những nguồn lực quyết định đến sự sống còn của 
DN. Thông tin kế toán được thiết kế để phục vụ cho 
nhiều nhu cầu khác nhau của các DN với bốn 
phương diện là: phạm vi rộng, kịp thời, tích hợp và 
thống nhất/đồng bộ là nguồn lực của DN. Bộ phận 
kế toán cung cấp thông tin (về sản phẩm, tài chính, 
thị trường) đến các bộ phận chức năng trong DN và 
từ đó người sử dụng ở các bộ phận có thể xử lý 
thông tin, học hỏi để chuyển hóa thông tin thành 
kiến thức từ đó đưa ra quyết định. 
2.2. Lý thuyết ra quyết định (Decision Theory) 
Lý thuyết ra quyết định được phát triển từ giữa 
thế kỷ 20 và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực 
nghiên cứu khác nhau nhưng đều hướng đến mục 
đích giải quyết chung một vấn đề là ra quyết định. 
Theo Brim và cộng sự (1962), Lý thuyết ra quyết 
định là học thuyết chính giúp giải thích sự ảnh 
hưởng của CLTTKT cung cấp đến quá trình ra quyết 
định của người sử dụng thông tin nói chung, trong 
đó có nhà quản trị DN. Theo Lý thuyết này, quá 
trình ra quyết định được tiến hành theo 5 bước: (1) 
Xác định vấn đề cần giải quyết; (2) Thu thập thông 
tin; (3) Tìm hiểu các phương án có thể giải quyết 
vấn đề; (4) Đánh giá các phương án theo tiêu chuẩn 
và mục tiêu đã xác định; (5) Lựa chọn phương án tối 
ưu và ra quyết định. 
Như vậy, thu thập và đánh giá thông tin là những 
khâu quan trọng trong quá trình ra quyết định. Để 
đưa ra quyết định đúng đắn, các NQT cần rất nhiều 
thông tin và chất lượng của các quyết định được đưa 
ra phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của thông tin 
mà người sử dụng được cung cấp. Thông tin càng 
nhiều, càng chính xác thì quyết định được đưa ra 
càng đúng đắn (Ismail, 2009; Nooraie,2011). 
2.3. Lý thuyết quan hệ lợi ích - chi phí 
Lý thuyết lợi ích và chi phí khởi đầu vào năm 
1808 do Albert Gallantin đề cập trong một dự án 
thủy lợi khi so sánh lợi ích và chi phí. Lý thuyết về 
mối quan hệ lợi ích - chi phí chỉ ra rằng lợi ích có 
được từ việc sử dụng thông tin kế toán cung cấp cần 
phải được xem xét trong mối quan hệ với chi phí bỏ 
ra trong quá trình thu thập, xử lý và phân tích thông 
tin. Tác giả cho rằng, Lý thuyết này sẽ tác động đến 
mối quan hệ giữa CLTTKT và quá trình ra quyết 
định của DN ở 2 khía cạnh: việc sử dụng các nguồn 
lực (con người, kỹ thuật...) cho quá trình thu thập, 
xử lý và phân tích thông tin và lợi ích do thông tin 
kế toán mang lại. Xét một cách tổng thể, lợi ích từ 
thông tin kế toán có thể phục vụ cho người sử dụng 
(nhà quản trị, nhà đầu tư và cả các bên liên quan...) 
và phải luôn xem xét, cân bằng mối quan hệ này 
nhằm đảm bảo chi phí bỏ ra không được vượt quá 
lợi ích đạt được. Để phục vụ cho quá trình ra quyết 
định, đối với các DN có quy mô khác nhau thì yêu 
cầu đối với thông tin cũng khác nhau. Rõ ràng là đối 
với những DN có quy mô nhỏ, số lượng quyết định 
không nhiều, nhu cầu thông tin quản trị đơn giản thì 
việc đầu tư vào một bộ máy kế toán cồng kềnh với 
hàng loạt các kỹ thuật phức tạp sẽ không phù hợp do 
lợi ích mang lại không tương xứng với chi phí bỏ ra. 
Trong khi đó, đối với các DN có quy mô lớn, cần 
các thông tin thích hợp và nhiều thông tin phức tạp 
thì việc đầu tư một khoản chi phí tương thích để 
đảm bảo CLTTKT là điều chấp nhận được. 
3. Tổng quan nghiên cứu 
3.1. Các nghiên cứu về chất lượng thông tin kế 
toán và quá trình ra quyết định của DN 
Lesca và cộng sự (1995) đã khảo sát mức độ sử 
dụng thông tin kế toán trong quá trình ra quyết định 
đầu tư và đóng góp của CLTTKT đến việc quản lý tri 
thức và vai trò chiến lược của DN. Kết quả nghiên 
cứu đã chỉ ra rằng, ngày càng nhiều đơn vị tin tưởng 
rằng, CLTTKT là nhân tố quan trọng tạo nên thành 
công của một tổ chức. Đặc biệt, trong bối cảnh hội 
nhập trên phạm vi toàn cầu, với sự bùng nổ và chi 
phối bởi thông tin, CLTT trở thành một trong những 
quan tâm hàng đầu và có ảnh hưởng không nhỏ đến 
sự phát triển bền vững của tổ chức. Nếu thông tin có 
chất lượng tốt, tổ chức sẽ hoạt động tốt, và ngược lại 
nếu thông tin không đảm bảo chất lượng sẽ gây ra 
mối đe dọa cho sự tồn tại của tổ chức (Ismail ,2009; 
Redman, 1992; Laudon & Laudon, 2012; Komala, 
2012). Chính vì vậy, các tổ chức ngày càng đạt trọng 
tâm vào việc có được những thông tin có giá trị 
(Laudon & Laudon, 2012). 
Tương tự, Gelinas và cộng sự (1999) cho rằng 
TTKT, mặc dù không phải là duy nhất, nhưng lại là 
một trong những nguồn thông tin quan trọng và cần 
thiết hỗ trợ cho quá trình ra quyết định của DN. 
CLTTKT là nền tảng quản trọng giúp các nhà quản 
lý đưa ra các quyết định, đặc biệt là các quyết định 
chiến lược (Tickell, 2010; Hall, 2011). Vì vậy, 
TTKT không đảm bảo chất lượng sẽ trở nên vô dụng 
đối với người sử dụng và có thể dẫn đến việc ra 
quyết định sai. Vai trò của TTKT đối với quá trình 
ra quyết định của DN được thể hiện ở 2 góc độ: vai 
trò tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình ra quyết 
định và vai trò ảnh hưởng đến quyết định (Marshall 
& Paul, 2014). TTKT có chất lượng, được cập nhật 
và cung cấp kịp thời sẽ hỗ trợ tích cực trong hoạt 
động quản lý thông qua việc kết nối hiệu quả các 
nguồn lực, quản lý ngân sách cho các hoạt động tốt 
Số 142/202034
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
hơn, phân bổ nguồn lực hợp lý hơn và giám sát các 
hoạt động tốt hơn, từ đó các nhà quản lý có cơ sở để 
đưa ra quyết định hợp lý, góp phần làm tăng hiệu 
quả kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh cho 
DN. Đồng thuận với các quan điểm trên, nhiều nhà 
nghiên cứu khác (Kiesovà cộng sự (2007), 
Hongjiang Xu (2009), Gafarov (2009), Komala 
2012), Botha (2014) Harendra (2016)... trong những 
nghiên cứu của mình cũng đưa ra những kết luận 
tương tự. 
Có thể thấy, các nghiên cứu kể trên đều đã dựa 
vào quan điểm của Lý thuyết về cơ sở nguồn lực để 
giải thích cho mối quan hệ giữa CLTTKT cung cấp 
và quá trình ra quyết định của DN. Theo đó, TTKT 
được xem là một nguồn tài nguyên chiến lược, là 
một trong những lợi thế cạnh tranh của tổ chức và là 
thành phần chính yếu của thông tin quản lý. Với vai 
trò chủ đạo là quản lý nguồn lực tài chính cho các 
DN, TTKT là nguồn thông tin quan trọng hỗ trợ cho 
quá trình ra quyết định của DN. Và việc nâng cao 
chất lượng để TTKT thực sử trở nên hữu ích đối với 
quá trình ra quyết định của DN là thực sự cần thiết. 
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại với cách tiếp cận này, rất 
khó để có thể xác định được yếu tố nào cần thiết để 
gia tăng CLTT. Nghiên cứu tác động của CLTTKT 
đối với quá trình ra quyết định của DN thông qua 
xác định mức độ ảnh hưởng của các đặc điểm định 
tính đo lường CLTT đến quá trình ra quyết định của 
người sử dụng sẽ trả lời cho câu hỏi: Cần phải tập 
trung vào đặc tính nào để nâng cao CLTT trong bối 
cảnh hiện nay? 
Theo Ionu và Petec (2015), phục vụ cho nhu cầu 
và mục đích sử dụng thông tin của những đối tượng 
khác nhau (nhà quản lý, cổ đông, khách hàng, 
thuế...) thì tiêu chuẩn để đo lường CLTT cũng khác 
nhau. Trong hệ thống quản lý, để TTKT trở nên hữu 
ích, cần phải có đầy đủ bốn đặc điểm định tính: dễ 
hiểu, phù hợp, tin cậy và tương thích. Tuy nhiên, 
nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc đề xuất mô hình 
nghiên cứu tác động của 4 đặc tính này đến quá trình 
ra quyết định của người sử dụng mà chưa chỉ ra kết 
quả về mức độ tác động của mỗi đặc tính. 
Faith Gacheru (2017) đã thực hiện một cuộc 
khảo sát với mẫu nghiên cứu là 200 tổ chức lợi ích 
công cộng tại Kenya để tìm hiểu về mối quan hệ 
giữa 4 đặc tính CLTT kế toán đối với việc ra quyết 
định của các tổ chức này theo quan điểm của IASB, 
với các đặc tính chất lượng cơ bản là: Phù hợp (rel-
evance), Đáng tin cậy (realiability), Dễ hiểu (under-
standability) và Có thể so sánh (comparability). Kết 
quả nghiên cứu cho thấy tất cả các đặc tính CLTT kế 
toán trong mô hình nghiên cứu đề xuất của tác giả 
đều có tác động tích cực đến quá trình ra quyết định 
của các tổ chức với mức độ ảnh hưởng lớn nhất là 
tin cậy, tiếp đó là các đặc tính có thể so sánh, phù 
hợp và dễ hiểu. Từ những phát hiện qua nghiên cứu, 
tác giả đã đưa ra những khuyến nghị nhằm nâng cao 
các thuộc tính CLTT kế toán trình bày trên BCTC 
của các tổ chức. 
3.2. Tiêu chuẩn đo lường chất lượng thông tin 
kế toán 
Khi xác định các thuộc tính về CLTTKT, có 2 
cách tiếp cận khách quan và chủ quan. Tiếp cận 
khách quan là dựa trên các quy định của các tổ chức, 
hiệp hội nghề nghiệp có uy tín. Còn tiếp cận chủ 
quan là đứng trên góc độ của chính những nhà quản 
lý trong DN. 
Với cách tiếp cận thứ nhất, các tổ chức, hiệp hội 
nghề nghiệp có uy tín đã đưa ra các quan điểm xác 
định những thuộc tính đo lường CLTTKT như sau: 
Năm 1966, AAA (Hiệp hội kế toán Mỹ) đã công 
bố một báo cáo về nền tảng lý thuyết của kế toán 
nhằm thiết lập những điều cơ bản của lý thuyết kế 
toán. Trong đó, AAA cho rằng Thích hợp 
(Relevance), Có thể xác minh được (Verifiability), 
Không sai lệch (Freedom from bias) và Khả năng 
xác định số lượng (Quantifiability) được xem như là 
những tiêu chuẩn để đảm ... ủa 4 
đặc tính chất lượng thông tin kế 
toán với quá trình ra quyết định của DN Việt Nam 
trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 dự 
kiến được thiết lập như sau: 
MKD = β0 + β1EFC + β2TME + β3SES + β4 
EFE + ε 
41
?
Số 142/2020
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
Bảng 6: Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) các biến độc lập 
(Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả) 
	



	

	
 
 !"
 #$" %&'(%&
 ')

! * +# ,-"./
0"1"2,32
'''
'&4)&
56
758
 4  9
+:$4 ('
+:$9 %&&
+:$ %(
+:$ )(
+:+9 %&
+:+4 )&
+:+ 4'
+:+ '&
!	+ %%
!	+ %&4
!	+4 %'(
+9 %4
+4 )'
+ '%
+ )%
Bảng 7: Ma trận tương quan giữa các biến 
(**) Tương quan có ý nghĩa ở mức 0.01 
 
	



	
     
    	 	 
	 
	
 	 
  	 	 	
      	 	
 

      
	
 	 

     
Bảng 8: Đánh giá mức độ phù hợp của mô hình 
(Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả) 
	



 	
 	
 	

  
	
	

    	




 !"
# $ 
?Kết quả phân tích hồi quy về các nhân tố đặc tính 
chất lượng thông tin kế toán tác động đến việc ra 
quyết định của DN như sau: 
Kết quả phân tích hồi quy ở bảng 10 cho thấy, cả 
4 đặc tính CLTTKT, bao gồm: “Hữu hiệu”, “Hiệu 
quả”, “Kịp thời”, “Bảo mật và an toàn” đều có mối 
tương quan với “Quá trình ra quyết định của DN” và 
đều có ý nghĩa thống kê trong mô hình phân tích với 
sig. < 0.05. Hệ số phóng đại phương sai (Variance 
inflation factor - VIF) đều > 1 nên có thể kết luận là 
không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa 4 nhân tố này. 
Phương trình hồi quy tuyến tính thể hiện mối 
quan hệ giữa việc ra quyết định của DN và các đặc 
tính CLTT kế toán được xây dựng như sau: 
MKD = 0.205 + 0.262EFC + 0.389 EFE + 0.158 
TME + 0.148 SES 
Mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và 4 biến độc 
lập là thuận chiều với nhau vì hệ số Beta các biến độc 
lập đều > 0. Từ phương trình hồi quy trên, cho thấy: 
Yếu tố EFE (tính hiệu quả) của thông tin kế toán 
có ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình ra quyết định 
của DN với hệ số Beta là 0.389. Dấu dương của hệ 
số Beta có ý nghĩa là mối quan hệ giữa yếu tố tính 
hiệu quả (EFE) và quá trình ra quyết định của DN 
(MKD) là mối quan hệ cùng chiều, nghĩa là khi các 
yếu tố khác không thay đổi nếu tăng tính hiệu quả lên 
1 đơn vị thì hiệu quả của quá trình ra quyết định của 
DN tăng lên 0.389 đơn vị. Giả thuyết 
H4 được chấp nhận đúng. 
Các yếu tố tiếp theo có mức độ ảnh 
hưởng đến việc ra quyết định của DN 
lần lượt là các đặc tính về “tính hữu 
hiệu” (EFC), “kịp thời” (TME), “bảo 
mật và an toàn” (SES) với hệ số Beta 
lần lượt là 0.262, 0.158 và 0.148. Khi 
các yếu tố này tăng lên 1 đơn vị, các 
yếu tố còn lại không thay đổi, hiệu quả 
việc ra quyết định của DN tăng lên lần 
lượt 0.262, 0.158 và 0.148. Với giá trị 
sig của các đặc tính CLTTKT trên là 0.000, 0.000 và 
0.000 đều < 0.05, nghĩa là các giả thuyết H1, H2 và 
H3 đều được chấp nhận đúng. 
7. Kết luận 
Thông tin kế toán cung cấp có 
chất lượng thì mới đảm bảo cho 
DN đưa ra những quyết định kịp 
thời, đúng thời điểm, phù hợp với 
mục tiêu hoạt động của DN và 
đem lại hiệu quả kinh tế nhất. Kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi đã 
phần nào giúp các DN nhận diện 
được vấn đề nên tập trung vào 
các đặc tính chất lượng nào của 
thông tin kế toán để thông tin kế 
toán cung cấp hữu ích hơn. Trong 
số 4 tiêu chuẩn đo lường CLT-
TKT được đề cập thì “Hiệu quả” (Effectiveness) là 
đặc tính được đánh giá là có ảnh hưởng lớn nhất 
đến quá trình ra quyết định của DN. Đây là đặc tính 
liên quan tới việc đảm bảo sử dụng các nguồn lực 
(con người, thiết bị, cơ sở hạ tầng, phần mềm...) 
trong quá trình thu thập, xử lý, tạ̣o thông tin nhằm 
đảm bảo hiệu quả và kinh tế nhất. Với kết quả này 
cho thấy trong các DN hiện nay, việc sử dụng các 
nguồn lực trong quá trình thu thập, xử lý, tạo thông 
tin, về mặt bằng chung, ở một mức độ nào đó là vấn 
đề được các DN quan tâm nhất và đã đáp ứng được 
yêu cầu của lãnh đạo DN trong việc cân đối giữa 
chi phí bỏ ra với những lợi ích mà thông tin kế toán 
mang lại. 
Các thuộc tính liên quan đến Hữu hiệu, Kịp thời, 
Bảo mật và an toàn cũng đều được đánh giá là có 
ảnh hưởng thuận chiều đến quá trình ra quyết định 
của DN. Tính hữu hiệu và tính kịp thời của thông tin 
kế toán được phản ánh ở các góc độ: đáng tin cậy, 
chính xác, trung thực, khách quan, đầy đủ, phù hợp, 
kịp thời Theo quy định của chuẩn mực và chế độ 
kế toán DN hiện hành, những khía cạnh được đề cập 
nói trên là những nguyên tắc, những yêu cầu cơ bản 
Số 142/202042
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
Bảng 9: Bảng mô tả giả thuyết nghiên cứu 
 	 

	



	


 	

	
  
	
 
  
  !"
#$% % 
& '()*+,-	)-	.. & 
/ ( ' 
Bảng 10: Kết quả mô hình hồi quy 
(Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả) 
	










  
 !
" #$
 "
  
#%&
'(

)!
&
*&+

,-./0
  	
 	
  	
 	

  
 	 	
 	 	 	 	
 	
 	 	
 	 	
 	 	
 	
 	 	

 	
 	 	 	 	

 	

 	
 	
 	 	 	
 	
 !"#
trong kế toán, mà đặt trọng tâm cho KTTC, với chức 
năng cung cấp thông tin cho các đối tượng có liên 
quan về mặt lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp với DN 
thông qua hệ thống BCTC. Chúng tôi cho rằng, 
những yêu cầu này đang được kế toán các DN tuân 
thủ và đáp ứng ở mức tốt xuất phát từ thực tế hiện 
nay, kế toán tại các DN Việt Nam vẫn chủ yếu chú 
trọng đến việc cung cấp thông tin cho các đối tượng 
bên ngoài DN, đặc biệt là cơ quan Thuế, ngân hàng 
các nhà đầu tư. Đặc biệt đặt trong bối cảnh hội nhập 
sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam trên phạm vi khu 
vực và toàn cầu, với sự tham gia và là thành viên của 
các Tổ chức, Diễn đàn kinh tế, Hiệp định Kinh tế 
quốc tế (WTO, APEC, TTP, AEC) với quan hệ 
chặt chẽ và gắn bó các định chế tài chính quốc tế 
(ADB, WB, IMF), dẫn đến yêu cầu về tính tương 
thích và đồng bộ với các chuẩn mực, thông lệ quốc 
tế về kế toán, quản trị và quản lý tài chính thì những 
yêu cầu đảm bảo tính tin cậy, chính xác, trung thực, 
khách quan, đầy đủ, kịp thời đối với thông tin kế 
toán càng trở nên cấp thiết. 
Tính bảo mật và an toàn (SES) của thông tin kế 
toán được đánh giá là ít có ảnh hưởng đến quá trình 
ra quyết định của DN. Kết quả này cũng khá tương 
đồng với kết quả khảo sát đã công bố vào năm 2016 
của Tạp chí Information Security (Mỹ). Theo đó, 
nhiều DN chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề bảo 
mật cơ sở dữ liệu, 33.7% trong số 597 ý kiến phản 
hồi đánh giá tầm quan trọng của việc bảo mật cơ sở 
dữ liệu là không cần thiết hoặc trung bình và chỉ có 
11.9% đánh giá là rất quan trọng. Chính vì cho rằng 
đó là không thực sự cần thiết, các DN này đã không 
có sự đầu tư thích đáng đến vấn đề liên quan đến vấn 
đề kiểm soát và quyền truy cập thông tin, làm sao để 
thông tin, dữ liệu được lưu trữ an toàn, bảo mật. Và 
hệ quả là thông tin cung cấp không thể đáp ứng tốt 
được các yêu cầu liên quan đến tính bảo mật và an 
toàn. Trong bối cảnh chúng ta đang bước vào giai 
đoạn đầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 
4, với nền tảng công nghệ số và sự phát triển mạnh 
mẽ, bùng nổ của mạng xã hội cùng với các phần 
mềm kế toán tiện ích, bên cạnh việc góp phần làm 
thay đổi toàn diện lĩnh vực kế toán thì cũng có mặt 
trái là đẩy các DN phải đối diện với nguy cơ mất an 
toàn thông tin. Để có thể đưa ra những quyết định 
kịp thời, xác đáng, hiệu quả và kinh tế, những vấn 
đề liên quan đến việc đảm bảo cho tính bảo mật và 
an toàn của thông tin quản lý nói chung, trong đó có 
thông tin kế toán cần được lãnh đạo các DN coi 
trọng hơn. 
Cũng trong khuôn khổ của nghiên cứu này, qua 
việc nghiên cứu tổng quan các tiêu chuẩn đo lường 
CLTTKT của các học giả và của các tổ chức nghề 
nghiệp uy tín trên thế giới, đối chiếu với các tiêu 
chuẩn của Việt Nam được đề cập trong VAS 01 - 
Chuẩn mực chung (ban hành năm 2002), chúng tôi 
nhận thấy mặc dù đã có sự tham khảo chuẩn mực kế 
toán quốc tế, nhưng đến thời điểm hiện tại, sau gần 
20 năm ban hành chuẩn mực, những yêu cầu đó 
đang trở nên lạc hậu khi đặt trong bối cảnh mới. Sự 
thiếu cập nhật này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến quá 
trình hội nhập kinh tế nói chung trong đó có sự hội 
tụ kế toán của Việt Nam với kế toán quốc tế trong xu 
hướng toàn cầu hóa. Vì vậy, một số đề xuất đối với 
các cơ quan quản lý Nhà nước là trong quá trình 
hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tài chính, kế toán, 
không thể bỏ qua việc sửa đổi và cập nhật các nội 
dung liên quan đến yêu cầu cơ bản đối với kế toán 
trên tinh thần của Đề án áp dụng Chuẩn mực BCTC 
quốc tế vào Việt Nam. 
Do hạn chế về thời gian và quy mô của mẫu khảo 
sát, nghiên cứu của chúng tôi chỉ dừng lại ở việc 
khảo sát sự đánh giá của các DN về mức độ tác động 
của 4 đặc tính chất lượng chủ yếu, đại diện cho 4 
khía cảnh tiêu chuẩn của thông tin đến quá trình ra 
quyết đinh của DN Việt Nam trong thời kỳ CM 
Công nghiệp 4.0. Sự ảnh hưởng của các đặc tính 
chất lượng khác của TTKT đối với quá trình ra 
quyết định của DN sẽ được đề cập một cách đầy đủ, 
có hệ thống ở những nghiên cứu tiếp theo.u 
Tài liệu tham khảo: 
1. Abdallah, Ahmad Adel Jamil, The impact of 
using accounting information systems on the quality 
of financial statements submitted to the Income and 
sales tax Department in Jordan, European Scientific 
Journal, ESJ 9.10 (2014). 
2. Chúc Anh Tú (2015), Thông tin kế toán hữu 
ích trong điều kiện ứng dụng Công nghệ thông tin, 
Tạp chí Tài chính, số tháng 2/2015. 
3. Đặng Văn Thanh (2019), Kế toán Việt Nam - 
Tương lai và triển vọng, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học 
quốc tế : “Kế toán Việt Nam - Tương lai và triển vọng”. 
4. Eppler, Martin J., and Dörte Wittig, 
Conceptualizing Information Quality: A Review of 
Information Quality Frameworks from the Last Ten 
Years, IQ 20.0 (2000). 
5. Gacheru Faith, Effect of financial accounting 
information quality on decision making: A survey of 
public benefit organizations in Nairobi Country, 
Kenya, 2017. 
6. Hall, James A, Accounting information sys-
tems, Cengage Learning, 2012. 
43
?
Số 142/2020
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
7. Ionuț S. & Petec, D. (2015), The Importance 
of Accounting Information in Decision Making, 
Faculty of Economics and Business Administration, 
University of Craiova. 
8. Ismail, Noor Azizi, and Malcolm King, 
Factors influencing the alignment of accounting 
information systems in small and medium sized 
Malaysian manufacturing firms, Journal of 
Information Systems and Small Business 1.1-2 
(2014): 1-20. 
9. Kariyawasam, Harendra, Relationship between 
Accounting Information and Decision Making in the 
Sri Lankan Manufacturing Sector, (2016). 
10. Khalil, Omar EM, et al, Teaching information 
quality in information systems undergraduate educa-
tion, Informing Science: The International Journal of 
an Emerging Transdiscipline 2(1999): 53-60. 
11. Kahn, Beverly K., Diane M. Strong, and 
Richard Y. Wang, Information quality benchmarks: 
product and service performance, Communications 
of the ACM 45.4 (2002): 184-192. 
12. Lee, Gemma, and Ronald W. Masulis, 
Seasoned equity offerings: Quality of accounting 
information and expected flotation costs, Journal of 
Financial Economics 92.3 (2009): 443-469. 
13. Nguyễn Bích Liên (2008), Xác định và kiểm 
soát các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông 
tin kế toán trong môi trường ứng dụng hệ thống 
hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP) tại các 
DN Việt Nam, Luận Án Tiến sĩ kinh tế Trường ĐH 
Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. 
14. Nguyễn Thành Hưng, Vũ Quang Trọng 
(2013), Nâng cao vai trò của hệ thống thông tin kế 
toán với việc ra quyết định của nhà quản trị trong 
doanh nghiệp dịch vụ, Đề tài nghiên cứu khoa học 
cấp cơ sở, Trường Đại học Thương mại. 
15. Nguyễn Thành Hưng (2019), Hệ thống thông 
tin kế toán quản trị chi phí tại các DN viễn thông 
Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0, Tạp chí Kế 
toán & Kiểm toán, số tháng 5/2019. 
16. Nwaigburu, K. O., & Mark, B. U. (2014), 
The Use of Accounting Information in Decision 
Making for Sustainable Development in Nigeria: A 
Study of Selected Tertiary Institutions in Imo State, 
International Journal of Scientific, Research in 
Education, 7(2), 167-175 
17. Phạm Đình Tuấn (2018), Ảnh hưởng từ cách 
mạng công nghiệp 4.0 đến thông tin kế toán trong 
doanh nghiệp, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, số 
tháng 3/2018. 
18. Phan Minh Nguyệt và Nguyễn Thị Phước 
(2017), Xác định và đo lường mức độ ảnh hưởng 
của các nhân tố đến chất lượng thông tin kế toán 
trình bày trên BCTC của các công ty niêm yết ở Việt 
Nam, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, số tháng 
1+2/2017. 
19. Rapina (2014), Factors Influencing The 
Quality Of Accounting Information System And Its 
Implications On The Quality Of Accounting 
Information. 
Sori, Zulkarnain Muhamad, Accounting infor-
mation systems (AIS) and knowledge management: 
a case study, American Journal of scientific research 
4.4 (2009): 36-44. 
20. Trần Phước (2018), Mối quan hệ và các nhân 
tố tác động đến hệ thống thông tin kế toán đến hiệu 
quả kinh doanh của DN, Tạp chí Tài chính, số 
Tháng 8/2018. 
21. Vũ Thị Thảo (2017), Nâng cao chất lượng 
thông tin kế toán trong thời kì hội nhập, Tạp chí Tài 
chính, số tháng 3/2017. 
22. Xu, Hongjiang, Critical success factors for 
accounting information systems data quality, Diss. 
University of Southern Queensland, 2003. 
Summary 
The study was carried out in 77 manufacturing 
enterprises in Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh, Hải 
Phòng, and Ninh Bình with 177 usable question-
naires out of 265 sent to senior managers and 
accounting professionals in order to investigate the 
impacts of accounting information quality features 
(AIQF) on the decision-making by the enterprises. 
An analysis reveals that all 4 AIQFs in the research 
model have positive influence on the decision-mak-
ing by the enterprises with the most prominent fac-
tor being efficiency followed by usefulness, then 
timeliness, security, and integrality, respectively. 
From the results, the researchers make several sug-
gestions to improve AIQF in business, thus better 
meet the demand of decision-making in Vietnamese 
enterprises in the context of the Industrial 
Revolution 4.0 
Số 142/202044
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_tac_dong_cua_chat_luong_thong_tin_ke_toan_den_qua.pdf