Nghiên cứu tác động của chất lượng thông tin kế toán đến quá trình ra quyết định của doanh nghiệp Việt Nam
NBắc Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình với 177 bảng hỏi sử dụng được từ 265 phiếu được gửi tới các nhà ghiên cứu đã được thực hiện tại 77 DN sản xuất trên địa bàn các thành phố Hà Nội, Hải Dương,
quản trị (NQT) cấp cao và những người phụ trách công tác kế toán nhằm tìm hiểu tác động của các đặc
tính chất lượng thông tin kế toán (CLTTKT) đến quá trình ra quyết định của DN. Kết quả phân tích cho thấy
cả 4 đặc tính CLTTKT trong mô hình nghiên cứu đề xuất đều có tác động cùng chiều với quá trình ra quyết
định của DN với mức độ tác động lớn nhất là tính hiệu quả, tiếp đó là các đặc tính hữu hiệu, kịp thời, bảo
mật và toàn vẹn. Từ kết quả nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị cần thiết nhằm nâng cao
CLTTKT, đáp ứng tốt hơn cho quá trình ra quyết định của các DN Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu tác động của chất lượng thông tin kế toán đến quá trình ra quyết định của doanh nghiệp Việt Nam
Số 142/2020 thương mại khoa học 1 2 11 24 33 45 52 62 MỤC LỤC KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ 1. Cao Hoàng Long - Phân tích biến động năng suất lao động ngành công nghiệp thực phẩm Việt Nam giai đoạn 2010 - 2018. Mã số: 142.1MEco.11 A Study on Productivity Changes in Vietnam’s Food Industry in the Period 2010- 2018 2. Nguyễn Hoàng Chung - Đánh giá khả năng phân tích chính sách và dự báo của mô hình KEYNES mới: Phương pháp tiếp cận SVAR VÀ BVAR-DSGE. Mã số: 142.1MEIS.11 Assessment on Policy Analysis and Forecast of New KEYNES Model: Approaches of SVAR and BVAR-DSGE QUẢN TRỊ KINH DOANH 3. Phạm Hồng Chương, Nguyễn Hải Sơn và Phạm Thị Huyền - Ảnh hưởng của sự trải nghiệm tới sự hài lòng và hành vi mua lại của khách hàng: Nghiên cứu trong lĩnh vực nhà hàng. Mã số: 142.2BAdm.21 Customer’ experiences affecting satisfaction level and repurchase behavior: Empirical evi- dences in F&B sector 4. Nguyễn Quỳnh Trang - Nghiên cứu tác động của chất lượng thông tin kế toán đến quá trình ra quyết định của doanh nghiệp Việt Nam. Mã số: 1422.BAcc.21 A Study on the Effects of Accounting Information on the Decision Making in Vietnamese Enterprises 5. Nguyễn Thị Khánh Chi - Các nhân tố ảnh hưởng đến triển khai E-CRM thành công tại hãng Hàng không quốc gia Việt Nam. Mã số: 142.2BMkt.22 The Factors Affecting Successful E-CRM Implementation at Vietnam Airlines 6. Mai Thanh Lan và Đỗ Vũ Phương Anh - Các yếu tố ảnh hưởng đến thương hiệu nhà tuyển dụng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn TP. Hà Nội. Mã số: 142.2BMkt.21 Factors affecting employer’s brand of small and medium enterprises in Ha Noi city Ý KIẾN TRAO ĐỔI 7. Ngô Mỹ Trân và Lương Thị Thanh Trang - Ảnh hưởng của sự không phù hợp bằng cấp, kỹ năng và ngành nghề đến thu nhập người lao động trong các doanh nghiệp ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Mã số: 142.3OMIs.31 The Impacts of Unmatched Qualifications, Skills, and Employment on Laborer’s Income in Enterprises in Mekong Delta ISSN 1859-3666 1 1. Đặt vấn đề Chất lượng thông tin kế toán cung cấp đã đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng nói chung và nhà quản trị DN nói riêng hay chưa là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm hàng đầu trong hoạt động quản trị DN và giới nghiên cứu. Các nghiên cứu đã công bố đều khẳng định có mối quan hệ thuận chiều giữa CLTTKT cung cấp với quá trình ra quyết định của người sử dụng. Tuy nhiên, các nghiên cứu này thường hướng đến việc nâng cao CLTTKT tài chính hỗ trợ cho việc ra quyết định của nhóm đối tượng bên ngoài có liên quan về mặt lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp với DN như cổ đông, ngân hàng, nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán mà chưa hướng đến đối tượng là nhà quản trị (NQT) - những người sử dụng thông tin kế toán cho quá trình ra quyết định điều hành, quản lý hoạt động của DN. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang trong thời kỳ khởi phát đã tác động đến tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, xã hội và môi trường trên toàn thế giới với tốc độ đột phá chưa từng có trong lịch sử. Khoa học - công nghệ, trong đó có khoa học quản lý, khoa học kế toán, kiểm toán đã và đang phát triển rất mạnh mẽ với yêu cầu mới, nhiệm vụ mới. Trong lĩnh vực kế toán - kiểm toán, sự xuất hiện của Điện toán đám mây, dữ liệu lớn Big data, Blockchain... đã và se làm thay đổi căn bản quy trình, phương thức tạo lập, xử lý dữ liệu và cung cấp thông tin kế toán. Những thay đổi đó ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến CLTTKT cung cấp. Tuy nhiên, so với yêu cầu và đòi hỏi của cơ chế quản lý kinh tế, kế toán Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế về CLTT, về sự tiếp cận với chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế, về chất lượng của đội ngũ những người làm nghề kế toán, về phát triển thị trường dịch vụ kế toán (Đặng Văn Thanh, 2019). Nghiên cứu của chúng tôi sẽ trả lời cho câu hỏi: Trong bối cảnh mới, các DN nên tập trung vào các đặc tính chất lượng nào của thông tin kế toán để thông tin kế toán cung cấp hữu ích hơn? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng tôi đã tổng hợp và phân tích các quan điểm về các tiêu chuẩn đo lường CLTTKT làm cơ sở đề xuất mô hình kiểm định mức độ tác động của các đặc tính CLTTKT đến quá trình ra quyết định của các DN. Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi đã đưa ra một số gợi ý định hướng góp phần nâng cao CLTTKT cho các DN Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0. 2. Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa chất lượng thông tin kế toán và quá trình ra quyết định của doanh nghiệp Mối liên hệ giữa CLTTKT đối với quá trình ra quyết định là một vấn đề phức tạp (Atkinson và cộng sự, 2001). Dưới đây là một số lý thuyết liên quan giải thích cho mối quan hệ này: 2.1. Lý thuyết cơ sở nguồn lực Quan điểm về nguồn lực được Wernerfelt (1984) đề xuất, trên cơ sở nghiên cứu trước đó của Penrose (1959) và thực sự có ảnh hưởng mạnh mẽ từ sau 33 ? Số 142/2020 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN KẾ TOÁN ĐẾN QUÁ TRÌNH RA QUYẾT ĐỊNH CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Nguyễn Quỳnh Trang Đại học Thương mại Email: quynhtrangnguyen2408@gmail.com Ngày nhận: 02/01/2020 Ngày nhận lại: 10/02/2020 Ngày duyệt đăng: 14/02/2020 N ghiên cứu đã được thực hiện tại 77 DN sản xuất trên địa bàn các thành phố Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình với 177 bảng hỏi sử dụng được từ 265 phiếu được gửi tới các nhà quản trị (NQT) cấp cao và những người phụ trách công tác kế toán nhằm tìm hiểu tác động của các đặc tính chất lượng thông tin kế toán (CLTTKT) đến quá trình ra quyết định của DN. Kết quả phân tích cho thấy cả 4 đặc tính CLTTKT trong mô hình nghiên cứu đề xuất đều có tác động cùng chiều với quá trình ra quyết định của DN với mức độ tác động lớn nhất là tính hiệu quả, tiếp đó là các đặc tính hữu hiệu, kịp thời, bảo mật và toàn vẹn. Từ kết quả nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị cần thiết nhằm nâng cao CLTTKT, đáp ứng tốt hơn cho quá trình ra quyết định của các DN Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Từ khóa: Chất lượng thông tin kế toán, quá trình ra quyết định, doanh nghiệp Việt Nam. ?những năm 1990. Theo lý thuyết này, thông tin cũng giống như những yếu tố khác (lao động, vốn) là những nguồn lực quyết định đến sự sống còn của DN. Thông tin kế toán được thiết kế để phục vụ cho nhiều nhu cầu khác nhau của các DN với bốn phương diện là: phạm vi rộng, kịp thời, tích hợp và thống nhất/đồng bộ là nguồn lực của DN. Bộ phận kế toán cung cấp thông tin (về sản phẩm, tài chính, thị trường) đến các bộ phận chức năng trong DN và từ đó người sử dụng ở các bộ phận có thể xử lý thông tin, học hỏi để chuyển hóa thông tin thành kiến thức từ đó đưa ra quyết định. 2.2. Lý thuyết ra quyết định (Decision Theory) Lý thuyết ra quyết định được phát triển từ giữa thế kỷ 20 và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau nhưng đều hướng đến mục đích giải quyết chung một vấn đề là ra quyết định. Theo Brim và cộng sự (1962), Lý thuyết ra quyết định là học thuyết chính giúp giải thích sự ảnh hưởng của CLTTKT cung cấp đến quá trình ra quyết định của người sử dụng thông tin nói chung, trong đó có nhà quản trị DN. Theo Lý thuyết này, quá trình ra quyết định được tiến hành theo 5 bước: (1) Xác định vấn đề cần giải quyết; (2) Thu thập thông tin; (3) Tìm hiểu các phương án có thể giải quyết vấn đề; (4) Đánh giá các phương án theo tiêu chuẩn và mục tiêu đã xác định; (5) Lựa chọn phương án tối ưu và ra quyết định. Như vậy, thu thập và đánh giá thông tin là những khâu quan trọng trong quá trình ra quyết định. Để đưa ra quyết định đúng đắn, các NQT cần rất nhiều thông tin và chất lượng của các quyết định được đưa ra phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của thông tin mà người sử dụng được cung cấp. Thông tin càng nhiều, càng chính xác thì quyết định được đưa ra càng đúng đắn (Ismail, 2009; Nooraie,2011). 2.3. Lý thuyết quan hệ lợi ích - chi phí Lý thuyết lợi ích và chi phí khởi đầu vào năm 1808 do Albert Gallantin đề cập trong một dự án thủy lợi khi so sánh lợi ích và chi phí. Lý thuyết về mối quan hệ lợi ích - chi phí chỉ ra rằng lợi ích có được từ việc sử dụng thông tin kế toán cung cấp cần phải được xem xét trong mối quan hệ với chi phí bỏ ra trong quá trình thu thập, xử lý và phân tích thông tin. Tác giả cho rằng, Lý thuyết này sẽ tác động đến mối quan hệ giữa CLTTKT và quá trình ra quyết định của DN ở 2 khía cạnh: việc sử dụng các nguồn lực (con người, kỹ thuật...) cho quá trình thu thập, xử lý và phân tích thông tin và lợi ích do thông tin kế toán mang lại. Xét một cách tổng thể, lợi ích từ thông tin kế toán có thể phục vụ cho người sử dụng (nhà quản trị, nhà đầu tư và cả các bên liên quan...) và phải luôn xem xét, cân bằng mối quan hệ này nhằm đảm bảo chi phí bỏ ra không được vượt quá lợi ích đạt được. Để phục vụ cho quá trình ra quyết định, đối với các DN có quy mô khác nhau thì yêu cầu đối với thông tin cũng khác nhau. Rõ ràng là đối với những DN có quy mô nhỏ, số lượng quyết định không nhiều, nhu cầu thông tin quản trị đơn giản thì việc đầu tư vào một bộ máy kế toán cồng kềnh với hàng loạt các kỹ thuật phức tạp sẽ không phù hợp do lợi ích mang lại không tương xứng với chi phí bỏ ra. Trong khi đó, đối với các DN có quy mô lớn, cần các thông tin thích hợp và nhiều thông tin phức tạp thì việc đầu tư một khoản chi phí tương thích để đảm bảo CLTTKT là điều chấp nhận được. 3. Tổng quan nghiên cứu 3.1. Các nghiên cứu về chất lượng thông tin kế toán và quá trình ra quyết định của DN Lesca và cộng sự (1995) đã khảo sát mức độ sử dụng thông tin kế toán trong quá trình ra quyết định đầu tư và đóng góp của CLTTKT đến việc quản lý tri thức và vai trò chiến lược của DN. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ngày càng nhiều đơn vị tin tưởng rằng, CLTTKT là nhân tố quan trọng tạo nên thành công của một tổ chức. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập trên phạm vi toàn cầu, với sự bùng nổ và chi phối bởi thông tin, CLTT trở thành một trong những quan tâm hàng đầu và có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển bền vững của tổ chức. Nếu thông tin có chất lượng tốt, tổ chức sẽ hoạt động tốt, và ngược lại nếu thông tin không đảm bảo chất lượng sẽ gây ra mối đe dọa cho sự tồn tại của tổ chức (Ismail ,2009; Redman, 1992; Laudon & Laudon, 2012; Komala, 2012). Chính vì vậy, các tổ chức ngày càng đạt trọng tâm vào việc có được những thông tin có giá trị (Laudon & Laudon, 2012). Tương tự, Gelinas và cộng sự (1999) cho rằng TTKT, mặc dù không phải là duy nhất, nhưng lại là một trong những nguồn thông tin quan trọng và cần thiết hỗ trợ cho quá trình ra quyết định của DN. CLTTKT là nền tảng quản trọng giúp các nhà quản lý đưa ra các quyết định, đặc biệt là các quyết định chiến lược (Tickell, 2010; Hall, 2011). Vì vậy, TTKT không đảm bảo chất lượng sẽ trở nên vô dụng đối với người sử dụng và có thể dẫn đến việc ra quyết định sai. Vai trò của TTKT đối với quá trình ra quyết định của DN được thể hiện ở 2 góc độ: vai trò tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình ra quyết định và vai trò ảnh hưởng đến quyết định (Marshall & Paul, 2014). TTKT có chất lượng, được cập nhật và cung cấp kịp thời sẽ hỗ trợ tích cực trong hoạt động quản lý thông qua việc kết nối hiệu quả các nguồn lực, quản lý ngân sách cho các hoạt động tốt Số 142/202034 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học hơn, phân bổ nguồn lực hợp lý hơn và giám sát các hoạt động tốt hơn, từ đó các nhà quản lý có cơ sở để đưa ra quyết định hợp lý, góp phần làm tăng hiệu quả kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh cho DN. Đồng thuận với các quan điểm trên, nhiều nhà nghiên cứu khác (Kiesovà cộng sự (2007), Hongjiang Xu (2009), Gafarov (2009), Komala 2012), Botha (2014) Harendra (2016)... trong những nghiên cứu của mình cũng đưa ra những kết luận tương tự. Có thể thấy, các nghiên cứu kể trên đều đã dựa vào quan điểm của Lý thuyết về cơ sở nguồn lực để giải thích cho mối quan hệ giữa CLTTKT cung cấp và quá trình ra quyết định của DN. Theo đó, TTKT được xem là một nguồn tài nguyên chiến lược, là một trong những lợi thế cạnh tranh của tổ chức và là thành phần chính yếu của thông tin quản lý. Với vai trò chủ đạo là quản lý nguồn lực tài chính cho các DN, TTKT là nguồn thông tin quan trọng hỗ trợ cho quá trình ra quyết định của DN. Và việc nâng cao chất lượng để TTKT thực sử trở nên hữu ích đối với quá trình ra quyết định của DN là thực sự cần thiết. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại với cách tiếp cận này, rất khó để có thể xác định được yếu tố nào cần thiết để gia tăng CLTT. Nghiên cứu tác động của CLTTKT đối với quá trình ra quyết định của DN thông qua xác định mức độ ảnh hưởng của các đặc điểm định tính đo lường CLTT đến quá trình ra quyết định của người sử dụng sẽ trả lời cho câu hỏi: Cần phải tập trung vào đặc tính nào để nâng cao CLTT trong bối cảnh hiện nay? Theo Ionu và Petec (2015), phục vụ cho nhu cầu và mục đích sử dụng thông tin của những đối tượng khác nhau (nhà quản lý, cổ đông, khách hàng, thuế...) thì tiêu chuẩn để đo lường CLTT cũng khác nhau. Trong hệ thống quản lý, để TTKT trở nên hữu ích, cần phải có đầy đủ bốn đặc điểm định tính: dễ hiểu, phù hợp, tin cậy và tương thích. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc đề xuất mô hình nghiên cứu tác động của 4 đặc tính này đến quá trình ra quyết định của người sử dụng mà chưa chỉ ra kết quả về mức độ tác động của mỗi đặc tính. Faith Gacheru (2017) đã thực hiện một cuộc khảo sát với mẫu nghiên cứu là 200 tổ chức lợi ích công cộng tại Kenya để tìm hiểu về mối quan hệ giữa 4 đặc tính CLTT kế toán đối với việc ra quyết định của các tổ chức này theo quan điểm của IASB, với các đặc tính chất lượng cơ bản là: Phù hợp (rel- evance), Đáng tin cậy (realiability), Dễ hiểu (under- standability) và Có thể so sánh (comparability). Kết quả nghiên cứu cho thấy tất cả các đặc tính CLTT kế toán trong mô hình nghiên cứu đề xuất của tác giả đều có tác động tích cực đến quá trình ra quyết định của các tổ chức với mức độ ảnh hưởng lớn nhất là tin cậy, tiếp đó là các đặc tính có thể so sánh, phù hợp và dễ hiểu. Từ những phát hiện qua nghiên cứu, tác giả đã đưa ra những khuyến nghị nhằm nâng cao các thuộc tính CLTT kế toán trình bày trên BCTC của các tổ chức. 3.2. Tiêu chuẩn đo lường chất lượng thông tin kế toán Khi xác định các thuộc tính về CLTTKT, có 2 cách tiếp cận khách quan và chủ quan. Tiếp cận khách quan là dựa trên các quy định của các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp có uy tín. Còn tiếp cận chủ quan là đứng trên góc độ của chính những nhà quản lý trong DN. Với cách tiếp cận thứ nhất, các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp có uy tín đã đưa ra các quan điểm xác định những thuộc tính đo lường CLTTKT như sau: Năm 1966, AAA (Hiệp hội kế toán Mỹ) đã công bố một báo cáo về nền tảng lý thuyết của kế toán nhằm thiết lập những điều cơ bản của lý thuyết kế toán. Trong đó, AAA cho rằng Thích hợp (Relevance), Có thể xác minh được (Verifiability), Không sai lệch (Freedom from bias) và Khả năng xác định số lượng (Quantifiability) được xem như là những tiêu chuẩn để đảm ... ủa 4 đặc tính chất lượng thông tin kế toán với quá trình ra quyết định của DN Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 dự kiến được thiết lập như sau: MKD = β0 + β1EFC + β2TME + β3SES + β4 EFE + ε 41 ? Số 142/2020 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học Bảng 6: Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) các biến độc lập (Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả) !" #$" %&'(%& ') ! * +# ,-"./ 0"1"2,32 ''' '&4)& 56 758 4 9 +:$4 (' +:$9 %&& +:$ %( +:$ )( +:+9 %& +:+4 )& +:+ 4' +:+ '& ! + %% ! + %&4 ! +4 %'( +9 %4 +4 )' + '% + )% Bảng 7: Ma trận tương quan giữa các biến (**) Tương quan có ý nghĩa ở mức 0.01 Bảng 8: Đánh giá mức độ phù hợp của mô hình (Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả) !" # $ ?Kết quả phân tích hồi quy về các nhân tố đặc tính chất lượng thông tin kế toán tác động đến việc ra quyết định của DN như sau: Kết quả phân tích hồi quy ở bảng 10 cho thấy, cả 4 đặc tính CLTTKT, bao gồm: “Hữu hiệu”, “Hiệu quả”, “Kịp thời”, “Bảo mật và an toàn” đều có mối tương quan với “Quá trình ra quyết định của DN” và đều có ý nghĩa thống kê trong mô hình phân tích với sig. < 0.05. Hệ số phóng đại phương sai (Variance inflation factor - VIF) đều > 1 nên có thể kết luận là không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa 4 nhân tố này. Phương trình hồi quy tuyến tính thể hiện mối quan hệ giữa việc ra quyết định của DN và các đặc tính CLTT kế toán được xây dựng như sau: MKD = 0.205 + 0.262EFC + 0.389 EFE + 0.158 TME + 0.148 SES Mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và 4 biến độc lập là thuận chiều với nhau vì hệ số Beta các biến độc lập đều > 0. Từ phương trình hồi quy trên, cho thấy: Yếu tố EFE (tính hiệu quả) của thông tin kế toán có ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình ra quyết định của DN với hệ số Beta là 0.389. Dấu dương của hệ số Beta có ý nghĩa là mối quan hệ giữa yếu tố tính hiệu quả (EFE) và quá trình ra quyết định của DN (MKD) là mối quan hệ cùng chiều, nghĩa là khi các yếu tố khác không thay đổi nếu tăng tính hiệu quả lên 1 đơn vị thì hiệu quả của quá trình ra quyết định của DN tăng lên 0.389 đơn vị. Giả thuyết H4 được chấp nhận đúng. Các yếu tố tiếp theo có mức độ ảnh hưởng đến việc ra quyết định của DN lần lượt là các đặc tính về “tính hữu hiệu” (EFC), “kịp thời” (TME), “bảo mật và an toàn” (SES) với hệ số Beta lần lượt là 0.262, 0.158 và 0.148. Khi các yếu tố này tăng lên 1 đơn vị, các yếu tố còn lại không thay đổi, hiệu quả việc ra quyết định của DN tăng lên lần lượt 0.262, 0.158 và 0.148. Với giá trị sig của các đặc tính CLTTKT trên là 0.000, 0.000 và 0.000 đều < 0.05, nghĩa là các giả thuyết H1, H2 và H3 đều được chấp nhận đúng. 7. Kết luận Thông tin kế toán cung cấp có chất lượng thì mới đảm bảo cho DN đưa ra những quyết định kịp thời, đúng thời điểm, phù hợp với mục tiêu hoạt động của DN và đem lại hiệu quả kinh tế nhất. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã phần nào giúp các DN nhận diện được vấn đề nên tập trung vào các đặc tính chất lượng nào của thông tin kế toán để thông tin kế toán cung cấp hữu ích hơn. Trong số 4 tiêu chuẩn đo lường CLT- TKT được đề cập thì “Hiệu quả” (Effectiveness) là đặc tính được đánh giá là có ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình ra quyết định của DN. Đây là đặc tính liên quan tới việc đảm bảo sử dụng các nguồn lực (con người, thiết bị, cơ sở hạ tầng, phần mềm...) trong quá trình thu thập, xử lý, tạ̣o thông tin nhằm đảm bảo hiệu quả và kinh tế nhất. Với kết quả này cho thấy trong các DN hiện nay, việc sử dụng các nguồn lực trong quá trình thu thập, xử lý, tạo thông tin, về mặt bằng chung, ở một mức độ nào đó là vấn đề được các DN quan tâm nhất và đã đáp ứng được yêu cầu của lãnh đạo DN trong việc cân đối giữa chi phí bỏ ra với những lợi ích mà thông tin kế toán mang lại. Các thuộc tính liên quan đến Hữu hiệu, Kịp thời, Bảo mật và an toàn cũng đều được đánh giá là có ảnh hưởng thuận chiều đến quá trình ra quyết định của DN. Tính hữu hiệu và tính kịp thời của thông tin kế toán được phản ánh ở các góc độ: đáng tin cậy, chính xác, trung thực, khách quan, đầy đủ, phù hợp, kịp thời Theo quy định của chuẩn mực và chế độ kế toán DN hiện hành, những khía cạnh được đề cập nói trên là những nguyên tắc, những yêu cầu cơ bản Số 142/202042 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học Bảng 9: Bảng mô tả giả thuyết nghiên cứu !" #$% % & '()*+,- )- .. & / ( ' Bảng 10: Kết quả mô hình hồi quy (Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả) ! " #$ " #%& '( )! & *&+ ,-./0 !"# trong kế toán, mà đặt trọng tâm cho KTTC, với chức năng cung cấp thông tin cho các đối tượng có liên quan về mặt lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp với DN thông qua hệ thống BCTC. Chúng tôi cho rằng, những yêu cầu này đang được kế toán các DN tuân thủ và đáp ứng ở mức tốt xuất phát từ thực tế hiện nay, kế toán tại các DN Việt Nam vẫn chủ yếu chú trọng đến việc cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài DN, đặc biệt là cơ quan Thuế, ngân hàng các nhà đầu tư. Đặc biệt đặt trong bối cảnh hội nhập sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam trên phạm vi khu vực và toàn cầu, với sự tham gia và là thành viên của các Tổ chức, Diễn đàn kinh tế, Hiệp định Kinh tế quốc tế (WTO, APEC, TTP, AEC) với quan hệ chặt chẽ và gắn bó các định chế tài chính quốc tế (ADB, WB, IMF), dẫn đến yêu cầu về tính tương thích và đồng bộ với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế về kế toán, quản trị và quản lý tài chính thì những yêu cầu đảm bảo tính tin cậy, chính xác, trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời đối với thông tin kế toán càng trở nên cấp thiết. Tính bảo mật và an toàn (SES) của thông tin kế toán được đánh giá là ít có ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của DN. Kết quả này cũng khá tương đồng với kết quả khảo sát đã công bố vào năm 2016 của Tạp chí Information Security (Mỹ). Theo đó, nhiều DN chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề bảo mật cơ sở dữ liệu, 33.7% trong số 597 ý kiến phản hồi đánh giá tầm quan trọng của việc bảo mật cơ sở dữ liệu là không cần thiết hoặc trung bình và chỉ có 11.9% đánh giá là rất quan trọng. Chính vì cho rằng đó là không thực sự cần thiết, các DN này đã không có sự đầu tư thích đáng đến vấn đề liên quan đến vấn đề kiểm soát và quyền truy cập thông tin, làm sao để thông tin, dữ liệu được lưu trữ an toàn, bảo mật. Và hệ quả là thông tin cung cấp không thể đáp ứng tốt được các yêu cầu liên quan đến tính bảo mật và an toàn. Trong bối cảnh chúng ta đang bước vào giai đoạn đầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, với nền tảng công nghệ số và sự phát triển mạnh mẽ, bùng nổ của mạng xã hội cùng với các phần mềm kế toán tiện ích, bên cạnh việc góp phần làm thay đổi toàn diện lĩnh vực kế toán thì cũng có mặt trái là đẩy các DN phải đối diện với nguy cơ mất an toàn thông tin. Để có thể đưa ra những quyết định kịp thời, xác đáng, hiệu quả và kinh tế, những vấn đề liên quan đến việc đảm bảo cho tính bảo mật và an toàn của thông tin quản lý nói chung, trong đó có thông tin kế toán cần được lãnh đạo các DN coi trọng hơn. Cũng trong khuôn khổ của nghiên cứu này, qua việc nghiên cứu tổng quan các tiêu chuẩn đo lường CLTTKT của các học giả và của các tổ chức nghề nghiệp uy tín trên thế giới, đối chiếu với các tiêu chuẩn của Việt Nam được đề cập trong VAS 01 - Chuẩn mực chung (ban hành năm 2002), chúng tôi nhận thấy mặc dù đã có sự tham khảo chuẩn mực kế toán quốc tế, nhưng đến thời điểm hiện tại, sau gần 20 năm ban hành chuẩn mực, những yêu cầu đó đang trở nên lạc hậu khi đặt trong bối cảnh mới. Sự thiếu cập nhật này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hội nhập kinh tế nói chung trong đó có sự hội tụ kế toán của Việt Nam với kế toán quốc tế trong xu hướng toàn cầu hóa. Vì vậy, một số đề xuất đối với các cơ quan quản lý Nhà nước là trong quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tài chính, kế toán, không thể bỏ qua việc sửa đổi và cập nhật các nội dung liên quan đến yêu cầu cơ bản đối với kế toán trên tinh thần của Đề án áp dụng Chuẩn mực BCTC quốc tế vào Việt Nam. Do hạn chế về thời gian và quy mô của mẫu khảo sát, nghiên cứu của chúng tôi chỉ dừng lại ở việc khảo sát sự đánh giá của các DN về mức độ tác động của 4 đặc tính chất lượng chủ yếu, đại diện cho 4 khía cảnh tiêu chuẩn của thông tin đến quá trình ra quyết đinh của DN Việt Nam trong thời kỳ CM Công nghiệp 4.0. Sự ảnh hưởng của các đặc tính chất lượng khác của TTKT đối với quá trình ra quyết định của DN sẽ được đề cập một cách đầy đủ, có hệ thống ở những nghiên cứu tiếp theo.u Tài liệu tham khảo: 1. Abdallah, Ahmad Adel Jamil, The impact of using accounting information systems on the quality of financial statements submitted to the Income and sales tax Department in Jordan, European Scientific Journal, ESJ 9.10 (2014). 2. Chúc Anh Tú (2015), Thông tin kế toán hữu ích trong điều kiện ứng dụng Công nghệ thông tin, Tạp chí Tài chính, số tháng 2/2015. 3. Đặng Văn Thanh (2019), Kế toán Việt Nam - Tương lai và triển vọng, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc tế : “Kế toán Việt Nam - Tương lai và triển vọng”. 4. Eppler, Martin J., and Dörte Wittig, Conceptualizing Information Quality: A Review of Information Quality Frameworks from the Last Ten Years, IQ 20.0 (2000). 5. Gacheru Faith, Effect of financial accounting information quality on decision making: A survey of public benefit organizations in Nairobi Country, Kenya, 2017. 6. Hall, James A, Accounting information sys- tems, Cengage Learning, 2012. 43 ? Số 142/2020 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học 7. Ionuț S. & Petec, D. (2015), The Importance of Accounting Information in Decision Making, Faculty of Economics and Business Administration, University of Craiova. 8. Ismail, Noor Azizi, and Malcolm King, Factors influencing the alignment of accounting information systems in small and medium sized Malaysian manufacturing firms, Journal of Information Systems and Small Business 1.1-2 (2014): 1-20. 9. Kariyawasam, Harendra, Relationship between Accounting Information and Decision Making in the Sri Lankan Manufacturing Sector, (2016). 10. Khalil, Omar EM, et al, Teaching information quality in information systems undergraduate educa- tion, Informing Science: The International Journal of an Emerging Transdiscipline 2(1999): 53-60. 11. Kahn, Beverly K., Diane M. Strong, and Richard Y. Wang, Information quality benchmarks: product and service performance, Communications of the ACM 45.4 (2002): 184-192. 12. Lee, Gemma, and Ronald W. Masulis, Seasoned equity offerings: Quality of accounting information and expected flotation costs, Journal of Financial Economics 92.3 (2009): 443-469. 13. Nguyễn Bích Liên (2008), Xác định và kiểm soát các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán trong môi trường ứng dụng hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP) tại các DN Việt Nam, Luận Án Tiến sĩ kinh tế Trường ĐH Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. 14. Nguyễn Thành Hưng, Vũ Quang Trọng (2013), Nâng cao vai trò của hệ thống thông tin kế toán với việc ra quyết định của nhà quản trị trong doanh nghiệp dịch vụ, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học Thương mại. 15. Nguyễn Thành Hưng (2019), Hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí tại các DN viễn thông Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, số tháng 5/2019. 16. Nwaigburu, K. O., & Mark, B. U. (2014), The Use of Accounting Information in Decision Making for Sustainable Development in Nigeria: A Study of Selected Tertiary Institutions in Imo State, International Journal of Scientific, Research in Education, 7(2), 167-175 17. Phạm Đình Tuấn (2018), Ảnh hưởng từ cách mạng công nghiệp 4.0 đến thông tin kế toán trong doanh nghiệp, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, số tháng 3/2018. 18. Phan Minh Nguyệt và Nguyễn Thị Phước (2017), Xác định và đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chất lượng thông tin kế toán trình bày trên BCTC của các công ty niêm yết ở Việt Nam, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, số tháng 1+2/2017. 19. Rapina (2014), Factors Influencing The Quality Of Accounting Information System And Its Implications On The Quality Of Accounting Information. Sori, Zulkarnain Muhamad, Accounting infor- mation systems (AIS) and knowledge management: a case study, American Journal of scientific research 4.4 (2009): 36-44. 20. Trần Phước (2018), Mối quan hệ và các nhân tố tác động đến hệ thống thông tin kế toán đến hiệu quả kinh doanh của DN, Tạp chí Tài chính, số Tháng 8/2018. 21. Vũ Thị Thảo (2017), Nâng cao chất lượng thông tin kế toán trong thời kì hội nhập, Tạp chí Tài chính, số tháng 3/2017. 22. Xu, Hongjiang, Critical success factors for accounting information systems data quality, Diss. University of Southern Queensland, 2003. Summary The study was carried out in 77 manufacturing enterprises in Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh, Hải Phòng, and Ninh Bình with 177 usable question- naires out of 265 sent to senior managers and accounting professionals in order to investigate the impacts of accounting information quality features (AIQF) on the decision-making by the enterprises. An analysis reveals that all 4 AIQFs in the research model have positive influence on the decision-mak- ing by the enterprises with the most prominent fac- tor being efficiency followed by usefulness, then timeliness, security, and integrality, respectively. From the results, the researchers make several sug- gestions to improve AIQF in business, thus better meet the demand of decision-making in Vietnamese enterprises in the context of the Industrial Revolution 4.0 Số 142/202044 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học
File đính kèm:
- nghien_cuu_tac_dong_cua_chat_luong_thong_tin_ke_toan_den_qua.pdf