Nghiên cứu nhân giống cây hồng diệp (gymnocladus chinensis baill.) bằng phương pháp giâm hom

Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu nhân giống bằng phương pháp giâm

hom từ cành bánh tẻ trên cây Hồng diệp (Gymnocladus chinensis Baill.)

cấy mô. Mặc dù kỹ thuật giâm hom không mang lại những ưu thế như

công nghệ nhân giống hiện đại, song đây là phương pháp dễ thực hiện, ít

tốn kém và chóng có sản phẩm. Nghiên cứu cho thấy, cành bánh tẻ Hồng

diệp 12 tháng tuổi được xử lý bằng dung dịch IAA nồng độ 100ppm trong

15 phút và ươm giâm trên giá thể tổng hợp (4 đất: 2 phân chuồng hoai: 2

trấu hun: 1 xơ dừa) cho tỷ lệ hom thành công cao nhất. Kết quả nghiệm

thức này cho 79% số hom tạo được hệ rễ khỏe mạnh, phát sinh nhiều rễ

thứ cấp với số rễ trung bình trên hom đạt 4,15, chiều dài trung bình rễ đạt

7,54cm sau 08 tuần ươm giâm. Trong tương lai khi nhu cầu nhân giống

loài Hồng diệp phát triển, giâm hom cũng là phương thức hữu hiệu trên

quy mô nhân giống đại trà.

pdf 6 trang kimcuc 5360
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu nhân giống cây hồng diệp (gymnocladus chinensis baill.) bằng phương pháp giâm hom", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu nhân giống cây hồng diệp (gymnocladus chinensis baill.) bằng phương pháp giâm hom

Nghiên cứu nhân giống cây hồng diệp (gymnocladus chinensis baill.) bằng phương pháp giâm hom
Tạp chí KHLN 4/2016 (4579 - 4584) 
©: Viện KHLNVN - VAFS 
ISSN: 1859 - 0373 Đăng tải tại: www.vafs.gov.vn 
4579 
NGHIÊN CỨU NHÂN GIỐNG 
CÂY HỒNG DIỆP (Gymnocladus chinensis Baill.) 
BẰNG PHƯƠNG PHÁP GIÂM HOM 
Vũ Thị Bích Hậu1, Võ Quốc Bảo1, Phạm Thị Kim Thoa2 
1Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Đà Nẵng 
2Khoa Môi trường - Đại học Bách Khoa, Đại học Đà Nẵng 
Từ khóa: Cành bánh tẻ, 
Hồng diệp, giâm hom, 
IAA 
TÓM TẮT 
Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu nhân giống bằng phương pháp giâm 
hom từ cành bánh tẻ trên cây Hồng diệp (Gymnocladus chinensis Baill.) 
cấy mô. Mặc dù kỹ thuật giâm hom không mang lại những ưu thế như 
công nghệ nhân giống hiện đại, song đây là phương pháp dễ thực hiện, ít 
tốn kém và chóng có sản phẩm. Nghiên cứu cho thấy, cành bánh tẻ Hồng 
diệp 12 tháng tuổi được xử lý bằng dung dịch IAA nồng độ 100ppm trong 
15 phút và ươm giâm trên giá thể tổng hợp (4 đất: 2 phân chuồng hoai: 2 
trấu hun: 1 xơ dừa) cho tỷ lệ hom thành công cao nhất. Kết quả nghiệm 
thức này cho 79% số hom tạo được hệ rễ khỏe mạnh, phát sinh nhiều rễ 
thứ cấp với số rễ trung bình trên hom đạt 4,15, chiều dài trung bình rễ đạt 
7,54cm sau 08 tuần ươm giâm. Trong tương lai khi nhu cầu nhân giống 
loài Hồng diệp phát triển, giâm hom cũng là phương thức hữu hiệu trên 
quy mô nhân giống đại trà. 
Keywords: Branch buds, 
cutting proparagation, 
Gymnocladus chinensis 
Baill., IAA 
A study of Gymnocladus chinensis Baill. multiplication using cutting 
propagation method 
This paper presents the results of a cutting propagation method from the 
tree branch buds of Gymnocladus chinensis Baill. tissue. Although the 
cuttings technique do not have many advantages as modern propagation 
technologies, but this method is inexpensive, fast and easy to implement, 
and get product. The research showed that the Gymnocladus chinensis 
Baill. 12 month - old stem shoots could get a highest successful cuttings 
rate when it was treated with a solution of 100ppm IAA for 15 minutes 
and nursery cuttings on synthetic substrates (4 soil: 2 cattle manure: 2 
husks: 1 fiber coconut). Results of this treatment were 79% of cuttings 
creating healthy root systems, generating many secondary roots with the 
average number of cuttings roots at 4.15, and reaching 7.54cm length after 
08 weeks of cuttings. This cuttings technique will be an effective method 
in scale of commercial propagation with the increasing demands of 
Gymnocladus chinensis Baill. species breeding in the future. 
Tạp chí KHLN 2016 Vũ Thị Bích Hậu et al., 2016(4) 
4580 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) Bà Nà - Núi 
Chúa là một trong hai khu bảo tồn góp phần 
phát triển ngành du lịch của thành phố Đà 
Nẵng trong nhiều năm qua. Hệ thực vật nơi 
đây khá đa dạng gồm 543 loài thuộc 379 chi, 
136 họ khác nhau (Đinh Thị Phương Anh, 
2005). Tuy nhiên, đến nay chưa có loài cây địa 
phương nào được chọn để phát triển theo mục 
đích tôn tạo cảnh quan khu bảo tồn thiên nhiên 
Bà Nà - Núi Chúa cũng như tạo dựng hình ảnh 
đặc trưng cho ngành du lịch sinh thái tại thành 
phố Đà Nẵng. 
Trong nghiên cứu của Đinh Thị Phương Anh 
(2005) đã xác định được danh lục và bộ tiêu 
bản 25 loài thực vật thân gỗ có lá chuyển màu 
đỏ phân bố tại khu BTTN Bà Nà - Núi Chúa. 
Trong đó phải kể đến cây Hồng diệp 
(Gymnocladus chinensis Baill.), còn có nhiều 
tên thường gọi khác như Lôi khoai, Lim lá 
thắm, Lim sẻ... Hồng diệp thuộc cây họ Đậu, 
là loài thân gỗ nhỡ (gỗ nhóm VII), có tán 
rộng, lá chuyển sắc vàng vào mùa thu, đặc 
biệt lá non có màu đỏ vì vậy cây Hồng diệp 
tạo nên cảnh sắc đặc trưng cho vùng sinh thái 
nơi cây sinh sống và đảm bảo các tiêu chí 
nhân giống phát triển thành loài đặc trưng của 
thành phố. 
Giâm hom là phương thức nhân giống truyền 
thống, cành bánh tẻ từ cây mẹ được tách rời, 
tạo rễ ở vết cắt để phát triển thành cây hoàn 
chỉnh. Song song với những nghiên cứu nhân 
giống cây Hồng diệp bằng những công nghệ 
hiện đại, giâm hom vẫn là phương pháp nhân 
giống hữu hiệu trên quy mô sản xuất giống đại 
trà (Phạm Văn Điển, 2006; Trần Ngọc Hải, 
2007; Lê Thị Hiền et al., 2002). 
Mục tiêu chung hướng đến việc trồng thử 
nghiệm cây Hồng diệp nhằm bảo tồn và tôn 
tạo cảnh quan thành phố Đà Nẵng. 
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Vật liệu và địa điểm nghiên cứu 
Vật liệu nghiên cứu: Sử dụng đồng thời 02 
nguồn vật liệu cành bánh tẻ phục vụ hệ thống 
các thí nghiệm giâm hom. 
- Mẫu cây Hồng diệp ngoài tự nhiên: Tiến 
hành thu hái các kiểu cành bánh tẻ trên một số 
cây Hồng diệp trưởng thành sống tại khu 
BTTN Bà Nà - Núi Chúa. Các mẫu cành được 
phân loại và chọn hom tại vị trí 1 và 2 (vị trí 1: 
Cành non cách đỉnh ngọn cây mẹ 1/3 chiều 
cao tán cây, góc phân cành < 30 độ; vị trí 2: 
Cành non cách đỉnh ngọn cây mẹ 1/3 chiều 
cao tán cây, góc phân cành từ 30-45 độ). 
- Cây Hồng diệp nuôi cấy mô: Cây sử dụng 
cho mục đích khai thác hom giống là cây nuôi 
cấy mô từ 8 đến 30 tháng tuổi. Cây mẹ được 
trồng chậu trong giá thể tổng hợp (5 đất: 2 
phân chuồng hoai: 3 trấu hun) và được chăm 
sóc đặc biệt trong nhà lưới của Trung Tâm 
Công nghệ sinh học Đà Nẵng (Tạp chí Khoa 
học và Đời sống số 69, 2002; Viện Nghiên cứu 
Sinh thái Chính sách Xã hội, 2012). 
Chọn cành lấy hom 
Chọn cành có chồi khoẻ, không cong queo, sâu 
bệnh; Sử dụng kéo cắt cành hoặc rựa sắc để 
chặt hom đạt chiều dài từ 15 - 20cm, mỗi hom 
chứa có 1 - 2 lá (lá được cắt bớt 2/3 diện tích 
phiến lá) và chứa từ 3 đến 4 mắt ngủ. Tiến 
hành xử lý vết cắt và giâm hom ngay sau khi 
thu hoạch (Trần Ngọc Hải, 2007; Nguyễn 
Xuân Quát, 2009; Tạp chí Khoa học và Đời 
sống số 69, 2002). 
Địa điểm nghiên cứu: Tại Bà Nà - Núi Chúa, 
thành phố Đà Nẵng. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.1.1. Bố trí thí nghiệm 
a. Thiết kế lều và giá thể giâm hom 
* Giá thể 
- Cát sông có kích thước hạt lớn. 
Vũ Thị Bích Hậu et al., 2016(4) Tạp chí KHLN 2016 
4581 
- Giá thể phối trộn giữa đất cát pha - phân 
chuồng hoai - trấu hun- xơ dừa (tỷ lệ 4:2:2:1). 
* Thiết kế mặt luống giâm và bầu ươm 
Các loại giá thể luôn đảm bảo ẩm độ trong 
khoảng 80 - 85%, pH được điều chỉnh trong 
khoảng 6,3 - 6,8. Giá thể được tạo luống với 
độ nghiêng 4 - 5o, thành luống cao 10cm có bố 
trí khe và rãnh thoát nước. 
Đối với phương thức giâm trong bầu ươm, 
giá thể được đưa vào các túi PE quy cách 12 
 12cm. Tưới đẫm luống giâm và các bầu giá 
thể bằng dung dịch thuốc tím có nồng độ 
0,1% trước khi tiến hành giâm 48 giờ. Mái 
vòm lều giâm hom được thiết kế bằng tre 
uốn cong, mặt cắt ngang của mái vòm có 
hình parapol với chiều cao 90cm, chiều rộng 
1,4m và chiều dài 2m. Mái vòm được phủ 
bạc nilon để giữ ẩm và che mưa cho hom 
trong những ngày đầu sau khi giâm. Lều 
giâm hom được đặt trong nhà có che lưới 
đen đảm bảo cường độ chiếu sáng trong 
khoảng 400lux - 1500lux (Phạm Văn Điển, 
2006; Nguyễn Xuân Quát, 2009; Tạp chí 
Khoa học và Đời sống số 69, 2002). 
* Các hóa chất sử dụng 
- Chất khử trùng giá thể: Pha dung dịch thuốc 
tím có nồng độ 0,1%. 
- Chất khử trùng hom: Pha dung dịch Mancozep 
0,6% để khử trùng các vết cắt hom giống. 
- Chất kích thích tạo rễ: IAA, IBA, NAA, N3M. 
- Gel PE bảo vệ vết cắt. 
- Thuốc kích thích sinh trưởng: Atonik 1,8DD. 
* Tiến hành thí nghiệm 
- Cành Hồng diệp từ cây cấy mô và cây ngoài 
tự nhiên sau khi được cắt thành hom, tưới rửa 
bụi, tạp chất trên thân, lá bằng nước sạch. 
- Khử trùng sơ bộ hom bằng dung dịch 
Mancozep 0,6% trong 5 phút. 
- Ngâm hom trong dung dịch các auxin bao 
gồm IAA, NAA, IBA, N3M. Tương ứng với 
từng loại auxin, chúng tôi xử lý theo dãy nồng 
độ sau: 100ppm 200ppm, 500ppm, 1000ppm, 
2000ppm và 4000ppm trong 15 phút. Riêng 
với IBA, có tiến hành thêm 1 thí nghiệm với 
bột tăng nồng độ 500ppm để xử lý vết cắt. Sau 
đó vớt hom ra và bôi gel PE vào vết cắt trên 
của cành hom, cấy hom vào luống với mật độ 
hom cách hom 10cm hoặc mỗi bầu một hom. 
- Lều giâm hom phải được phủ kín bằng bạt 
nilon trong một tuần đầu nhằm ổn định ẩm độ. 
Hom sau khi cấy vào giá thể được tưới mỗi 
ngày và theo dõi điều chỉnh nhiệt độ trong lều 
cần đạt khoảng 26-32ºC, độ ẩm từ 70 - 80%. 
- Thường xuyên nhặt bỏ lá rụng và hom chết. 
Khơi thông rãnh, tránh ứ đọng nước, đảm bảo 
vệ sinh xung quanh khu vực giâm hom. 
- Thí nghiệm bố trí theo khối hoàn toàn ngẫu 
nhiên với 3 thí nghiệm, mỗi thí nghiệm lặp lại 
3 lần, mỗi lần sử dụng 10 mẫu hom, mục đích 
đánh giá: 
+ Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng 
lên kết quả giâm hom. 
+ Ảnh hưởng độ tuổi của cây mẹ đến kết quả 
giâm hom. 
+ Ảnh hưởng của nguồn giá thể đến kết quả 
giâm hom. 
2.2.2. Phương pháp xử lý số liệu 
Số liệu được thu thập và xử lý theo phần mềm 
Excel. Các số liệu được thu thập là ngày bắt 
đầu ra rễ, và định kỳ 7 ngày một lần tính từ 
sau khi chiết; số lượng rễ và chiều dài rễ dài 
nhất ở cây hom. Số liệu thu thập được xử lý 
bằng phần mềm Exel để phân tích sự sai khác 
giữa các công thức thí nghiệm. 
Tạp chí KHLN 2016 Vũ Thị Bích Hậu et al., 2016(4) 
4582 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Ảnh hưởng của chất điều 
Từ kết quả theo dõi sau 8 tuần, qua 3 thí 
nghiệm cho thấy, cành bánh tẻ không tạo được 
rễ khi được xử lý với các chất tạo rễ như 
NAA, IBA và N3M. Riêng với dung dịch IAA, 
hiện tượng phát sinh rễ xảy ra trên 04 nghiệm 
thức đầu của dãy nghiệm thức và chỉ trên vật 
liệu cành bánh tẻ có nguồn gốc từ cây Hồng 
diệp cấy mô. 
Phần lớn các cành bánh tẻ được thu hái từ cây 
cấy mô được xử lý bằng IAA ở khoảng nồng 
độ từ 100ppm đến 1000ppm có phát sinh rễ 
tại vết cắt. Các chỉ tiêu sinh trưởng như tỷ lệ 
phát sinh rễ, số rễ và chiều dài trung bình của 
rễ được hình thành có chiều hướng giảm dần 
khi nồng độ IAA tăng dần từ 100ppm đến 
1000ppm. 
Khi xét một cách toàn diện về khả năng cảm 
ứng tạo rễ, ở nồng độ 100ppm NAA cho các 
thông số sinh trưởng đạt tối ưu, tỷ lệ hom phát 
sinh rễ cao nhất và đạt trên 79%, số rễ trung 
bình đạt 4,15 và chiều dài trung bình của rễ 
được hình thành đạt 7,54cm. Sau 8 tuần ươm 
giâm, hầu hết các mắt ngủ trên đoạn hom của 
nghiệm thức này đều phát triển thành lá, hệ rễ 
của hom phát triển khỏe và bắt đầu hình thành 
nhiều rễ thứ cấp. 
Bảng 1. Ảnh hưởng IAA lên khả năng ra rễ trên mẫu hom Hồng diệp 
IAA (ppm) Tỷ lệ phát sinh rễ (%) Số rễ trung bình Chiều dài trung bình (cm) 
100 79,12 ± 1,21 4,15 ±1,34 7,54 ± 2,13 
200 49,67 ±0,32 2,11 ±0,19 3,14 ± 1,24 
500 32,16 ± 0,14 2,04±1,86 3,02 ± 0,19 
1000 24,31 ± 1,02 1,12 ±0,15 1,67 ±0,12 
2000 0,00 ±0,20 0,00 ±0,00 0,00 ±0,00 
4000 0,00 ±0,00 0,00 ±0,00 0,00 ±0,00 
Khi nồng độ IAA tăng lên gấp đôi (200ppm) 
cho khả năng tạo rễ giảm rõ rệt, tỷ lệ hom tạo 
được rễ giảm xuống còn 49,67%, số rễ và 
chiều dài trung bình giảm xuống một nửa so 
với nghiệm thức 100ppm IAA. Các hom ở 
nghiệm thức 200ppm IAA còn cho thấy một số 
biểu hiện sinh trưởng kém, rễ thứ cấp phát 
triển thưa thớt, cổ rễ bé, dễ đứt gãy vì khả 
năng bám thân thấp. Nhìn chung, khả năng 
cảm ứng phát sinh rễ có chiều hướng giảm 
dần cho đến nồng độ 1.000ppm, hom trên các 
nghiệm thức kế tiếp có biểu hiện suy yếu dần, 
đa số rễ chính không phát sinh rễ thứ cấp, rễ 
có biểu hiện thâm đen ở phần đầu rễ. Quan 
sát hai nghiệm thức còn lại trong dãy nghiệm 
thức có mặt IAA, toàn bộ hom giâm được xử 
lý với nồng độ 2.000ppm và 4.000ppm không 
thấy rễ phát sinh. Khi quan sát mặt cắt ngang 
của các hom ở hai nghiệm thức này nhận thấy 
vết cắt bị thâm đen và các mắt ngủ không phát 
triển. Từ kết quả này cho thấy, từ nồng độ IAA 
1.000ppm trở lên có thể ức chế khả năng cảm 
ứng rễ trên mẫu cành bánh tẻ Hồng diệp. 
3.2. Ảnh hưởng độ tuổi của cây mẹ đến kết 
quả giâm hom 
Khi xét về khả năng ảnh hưởng của vật liệu 
ban đầu đến tính cảm ứng phát sinh rễ của 
hom giống còn cho thấy, các hom được thu từ 
cây Hồng diệp trong tự nhiên không thể tạo 
được rễ trên tất cả các nồng độ auxin và 
nghiệm thức đối chứng. Việc thử nghiệm giâm 
hom từ cành bánh tẻ thu tại Bà Nà đã được 
nhóm nghiên cứu thực hiện trong 24 đợt, định 
kỳ một tháng tiến hành thu mẫu hai lần nhằm 
nghiên cứu khả năng cảm ứng rễ qua các thời 
kỳ trong năm. Trong quá trình triển khai các 
hệ thống thí nghiệm trên mẫu hom tự nhiên 
Vũ Thị Bích Hậu et al., 2016(4) Tạp chí KHLN 2016 
4583 
cho thấy, sau khi tiến hành ươm giâm, đa số lá 
trên các hom chuyển vàng và bắt đầu rụng lá 
từ ngày thứ tư, khi lá rụng để lộ các mắt ngủ 
đang trương ở 2 tuần đầu và sau đó cây khô và 
chết dần ở tuần thứ 6. Trong khi đó, mắt ngủ 
trên các hom ở dãy nghiệm thức được xử lý 
với IAA có dấu hiệu phát triển chồi và phát 
triển thành lá ở tuần thứ ba, nhưng sau 08 tuần 
theo dõi hom vẫn không thể phát sinh rễ. Các 
hom sống được tiếp tục chăm sóc và theo dõi 
đến khi hom chết nhưng vẫn nhận thấy ở vết 
cắt chỉ có thể hình thành khối mô sẹo ngay 
dưới lớp vỏ cây. Chứng tỏ mẫu cành bánh tẻ 
Hồng diệp thu từ Bà Nà không phù hợp với 
việc cảm ứng tạo rễ bằng phương thức giâm 
hom. Ngoài ra, việc cảm ứng rễ còn được tiến 
hành ngay trên cây Hồng diệp tự nhiên bằng 
kỹ thuật chiết cành nhưng vẫn không thành 
công sau vài lần thử nghiệm. Những kết quả 
trên có thể liên quan đến độ tuổi của cây mẹ 
được thu cành bánh tẻ. Chúng tôi nhận thấy 
hầu hết cây thuộc quần thể Hồng diệp tại Bà 
Nà đều là cây cao tuổi nên khả năng biệt hóa 
gỗ mạnh (Đinh Thị Phương Anh, 2005). Trong 
khi đó, các hom giống có nguồn gốc từ cây 
nuôi cấy mô có khả năng phản ứng tích cực 
với auxin ở nồng độ thấp, đặc biệt với dung 
dịch IAA. Như vậy chúng tôi có thể khẳng 
định rằng sự cảm ứng phát sinh rễ trên hom 
Hồng diệp chỉ diễn ra khi có sự góp mặt các 
loại auxin yếu với nồng độ thấp và từ cành 
bánh tẻ được thu từ cây trẻ. 
3.3. Ảnh hưởng của nguồn giá thể đến kết 
quả giâm hom 
Từ những kết quả nghiên cứu còn nhận thấy 
khả năng cảm ứng rễ trên hom cũng chịu ảnh 
hưởng nhiều từ nguồn giá thể. Hầu hết các 
hom được ươm giâm trên giá thể cát sông đều 
không phát sinh rễ. Trong 2 tuần đầu hom vẫn 
tươi, các mắt ngủ có dấu hiệu trương lên 
nhưng chết dần trong các tuần kế tiếp, có lẽ do 
đã sử dụng hết phần sinh dưỡng còn lại trong 
hom. Khác với môi trường cát sông, hom được 
ươm trong giá thể phối trộn các thành phần đất 
cát pha - phân chuồng hoai - trấu hun - xơ dừa 
(tỷ lệ 4:2:2:1), tại vết cắt xuất hiện lớp mô sẹo 
ngay dưới lớp vỏ và bắt đầu hình thành các 
cực rễ ở tuần thứ 4 trên các nồng độ thấp của 
auxin. Hiện tượng này có thể liên quan đến 
nhu cầu về ẩm độ và dinh dưỡng cần hỗ trợ 
sau khi hom đã sử dụng cạn kiệt dinh dưỡng 
sẵn có. 
Mặc dù giá thể cát sông đã được khử trùng 
nhằm hạn chế các nấm bệnh nhưng loại giá thể 
này nghèo dinh dưỡng và khả năng giữ ẩm 
kém. Trong khi đó, giá thể tổng hợp đảm bảo 
các yếu tố dinh dưỡng nhờ sự có mặt của đất 
và phân chuồng hoai, ổn định ẩm độ nhờ khả 
năng giữ ẩm của xơ dừa. 
IV. KẾT LUẬN 
Cành bánh tẻ Hồng diệp 12 tháng tuổi không 
tạo được rễ khi được xử lý bằng các dung dịch 
NAA, IBA và N3M. Riêng dung dịch IAA các 
cành bánh tẻ phần lớn tạo rễ ở nồng độ từ 100-
1.000ppm kèm theo sự giảm dần các chỉ tiêu 
sinh lý. Ở nồng độ 100ppm trong 15 phút và 
ươm giâm trên giá thể tổng hợp (4 đất : 2 phân 
chuồng hoai : 2 trấu hun : 1 xơ dừa) cho tỷ lệ 
hom thành công cao nhất. Kết quả nghiệm 
thức này cho 79% số hom tạo được hệ rễ khỏe 
mạnh, phát sinh nhiều rễ thứ cấp với số rễ 
trung bình trên hom đạt 4,15, chiều dài trung 
bình rễ đạt 7,54cm sau 08 tuần ươm giâm. 
Khi nồng độ IAA tăng từ 200ppm đến 
1000ppm cho khả năng tạo rễ giảm rõ rệt, tỷ lệ 
hom tạo được rễ giảm dần, biểu hiện sinh 
trưởng rễ và rễ thứ cấp kém, khả năng bám 
thân thấp. Toàn bộ hom giâm xử lý với nồng 
độ 2.000ppm và 4.000ppm không thấy rễ phát 
sinh. Khả năng cảm ứng rễ bị ức chế khi tăng 
nồng độ IAA từ 1.000ppm đến 4.000ppm. 
Ngoài ra sự cảm ứng phát sinh rễ trên hom 
Hồng diệp chỉ diễn ra khi có sự góp mặt các 
loại auxin yếu với nồng độ thấp và từ cành 
bánh tẻ được thu từ cây trẻ. Kết quả quy trình 
Tạp chí KHLN 2016 Vũ Thị Bích Hậu et al., 2016(4) 
4584 
giâm hom được thử nghiệm thành công trên 
mẫu cành bánh tẻ từ Hồng Diệp cấy mô ở độ 
tuổi từ 12-30 tháng. Đây là kết quả nghiên cứu 
khoa học có ý nghĩa thực tiễn trong công tác 
chọn nguồn vật liệu ban đầu phục vụ việc khai 
thác hom giống. 
Nguồn giá thể có ảnh hưởng rõ nét sự cảm ứng 
rễ trên thân non. Khả năng hom được ươm 
trong giá thể phối trộn các thành phần đất cát 
pha - phân chuồng hoai - trấu hun - xơ dừa (tỷ 
lệ 4:2:2:1) sinh trưởng cao hơn hẳn trên giá thể 
cát sông. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đinh Thị Phương Anh, 2005. Điều tra, lập danh lục và xây dựng bộ tiêu bản của các loài thực vật thân gỗ tại 
khu bảo tồn thiên nhiên Bà Nà - Núi Chúa. Báo các khoa học, Đại học Đà Nẵng. 
2. Phạm Văn Điển, 2006. Kỹ thuật nhân giống cây rừng. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 
3. Trần Ngọc Hải, 2007. Kỹ thuật gây trồng một số loài cây lâm sản ngoài gỗ có giá trị kinh tế. NXB Nông nghiệp, 
Hà Nội. 
4. Lê Thị Hiền, 2002. Kỹ thuật gây trồng một số loài cây đặc sản rừng (cây thân gỗ). NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 
5. Huỳnh Văn Kéo, Lương Viết Hùng, 10-11/2008. Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng IBA đến khả năng ra 
rễ trong giâm hom cây Re hương phục vụ bảo tồn và phát triển nguồn gen ở vườn quốc gia Bạch Mã. Tạp chí 
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 
6. Lê Đình Khả, 2003. Chọn tạo giống và nhân giống cho một số loài cây trồng rừng chủ yếu ở Việt Nam. NXB 
Nông nghiệp, Hà Nội. 
7. Võ Thị Bạch Mai, 2004. Sự phát triển của chồi và rễ. NXB Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh. 
8. Dương Tấn Nhựt, 2010. Một số phương pháp, hệ thống mới trong nghiên cứu công nghệ sinh học thực vật. 
NXB Nông Nghiệp. 
9. Nguyễn Xuân Quát, 2009. Kỹ thuật trồng một số cây thân gỗ đa tác dụng. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 
10. Tạp chí Khoa học và Đời sống số 69, 2002. Kỹ thuật giâm cành cây thân gỗ. Trang 10 
11. Viện Nghiên cứu Sinh thái Chính sách Xã hội, 2012. Tài liệu giâm hom cây thân gỗ 
Người thẩm định: TS. Phí Hồng Hải 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_nhan_giong_cay_hong_diep_gymnocladus_chinensis_ba.pdf