Nghiên cứu giải pháp vận hành liên hồ chứa thượng nguồn nhằm giảm ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến vùng hạ lưu lưu vực sông Vu gia - Thu bồn

Vào mùa khô, xâm nhập mặn thường xuyên xảy ra tại các nhánh sông Vu Gia và Vinh Điện nằm

ở hạ lưu lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn. Điều này có thể được giải thích bởi thực tế là dòng nước ngọt từ

thượng nguồn không đủ mạnh để ngăn nước biển xâm nhập. Ngoài ra, chế độ dòng chảy trong các dòng

sông cũng bị ảnh hưởng rất lớn bởi hoạt động của các nhà máy thủy điện nằm ở thượng nguồn. Mặc dù

có một quy trình vận hành các hồ chứa liên hồ trong lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn (1537/QĐ-TTg),

nhưng việc thực hiện nó gặp nhiều khó khăn do xung đột về mục đích sử dụng nước, dẫn đến vấn đề xâm

nhập mặn. Nghiên cứu này đã đề xuất một kế hoạch hoạt động mới để giảm xâm nhập mặn ở con sông

này. Theo đó, với cùng một lượng nước, hồ chứa Đak Mi 4a nên xả từ 22 giờ tối đến 6 giờ sáng thay vì xả

liên tục 24 giờ theo quy trình hiện tại là 1537/QĐ-TTg. Kết quả cho thấy kế hoạch vận hành mới không

ảnh hưởng đến sản xuất điện của Đak Mi 4a và giảm xâm nhập mặn so với quy trình vận hành hiện tại.

pdf 9 trang thom 08/01/2024 1220
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu giải pháp vận hành liên hồ chứa thượng nguồn nhằm giảm ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến vùng hạ lưu lưu vực sông Vu gia - Thu bồn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu giải pháp vận hành liên hồ chứa thượng nguồn nhằm giảm ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến vùng hạ lưu lưu vực sông Vu gia - Thu bồn

Nghiên cứu giải pháp vận hành liên hồ chứa thượng nguồn nhằm giảm ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến vùng hạ lưu lưu vực sông Vu gia - Thu bồn
 KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 64 (3/2019) 84
BÀI BÁO KHOA HỌC 
NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP VẬN HÀNH LIÊN HỒ CHỨA 
THƯỢNG NGUỒN NHẰM GIẢM ẢNH HƯỞNG CỦA XÂM NHẬP MẶN 
ĐẾN VÙNG HẠ LƯU LƯU VỰC SÔNG VU GIA - THU BỒN 
Lê Hùng1, Tô Thúy Nga1 
Tóm tắt: Vào mùa khô, xâm nhập mặn thường xuyên xảy ra tại các nhánh sông Vu Gia và Vinh Điện nằm 
ở hạ lưu lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn. Điều này có thể được giải thích bởi thực tế là dòng nước ngọt từ 
thượng nguồn không đủ mạnh để ngăn nước biển xâm nhập. Ngoài ra, chế độ dòng chảy trong các dòng 
sông cũng bị ảnh hưởng rất lớn bởi hoạt động của các nhà máy thủy điện nằm ở thượng nguồn. Mặc dù 
có một quy trình vận hành các hồ chứa liên hồ trong lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn (1537/QĐ-TTg), 
nhưng việc thực hiện nó gặp nhiều khó khăn do xung đột về mục đích sử dụng nước, dẫn đến vấn đề xâm 
nhập mặn. Nghiên cứu này đã đề xuất một kế hoạch hoạt động mới để giảm xâm nhập mặn ở con sông 
này. Theo đó, với cùng một lượng nước, hồ chứa Đak Mi 4a nên xả từ 22 giờ tối đến 6 giờ sáng thay vì xả 
liên tục 24 giờ theo quy trình hiện tại là 1537/QĐ-TTg. Kết quả cho thấy kế hoạch vận hành mới không 
ảnh hưởng đến sản xuất điện của Đak Mi 4a và giảm xâm nhập mặn so với quy trình vận hành hiện tại. 
Từ khóa: Lưu vực sông, Vu Gia - Thu Bồn, xâm nhập mặn, quy trình vận hành, liên hồ chứa 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ* 
Trong thời gian vừa qua, sau khi hàng loạt 
các hồ chứa thủy điện được xây dựng và vận 
hành đã làm thay đổi chế độ dòng chảy vùng hạ 
lưu Vu Gia - Thu Bồn (VGTB) rõ rệt, theo đó 
quá trình xâm nhập mặn ngày càng gia tăng 
hơn. Chính phủ đã ban hành quy trình liên hồ 
cho lưu vực này, tuy nhiên dù ứng dụng quy 
trình vận hành vào thực tế vẫn còn nhiều vấn đề 
chưa giải quyết được, và diễn biến xâm nhập 
mặn vùng hạ lưu vẫn không được cải thiện thậm 
chí ngày càng khốc liệt. Nguyên nhân của tình 
trạng này là do sự suy giảm nguồn nước về hạ 
lưu trong mùa kiệt. Trong khi đó dòng chảy về 
hạ lưu ngoài yếu tố khí tượng ra nó còn chịu sự 
chi phối rất lớn từ vận hành của các nhà máy 
thủy điện thượng nguồn, đặc biệt là hồ chứa 
thủy điện Đak Mi 4a chuyển dòng Để khắc 
phục tình trạng trên Chính phủ đã liên tiếp ban 
hành thay thế các quy trình liên hồ trên lưu vực 
sông VGTB cũng như các lưu vực sông trên cả 
nước, Quy trình đang áp dụng hiện nay trên lưu 
vực sông VGTB là quy trình liên hồ 1537/QĐ-
1 Trường Đại học Bách Khoa - Đại học Đà Nẵng. 
TTg được ban hành năm 2015. Nhằm đánh giá 
mức độ hiệu quả của quy trình liên hồ này đến 
diễn biến quá trình xâm nhập mặn (XNM) vùng 
hạ lưu VGTB từ đó làm cơ sở kiến nghị đề xuất 
điều chỉnh quy trình này trên lưu vực sông 
VGTB cần phải có một nghiên cứu đánh giá đầy 
đủ các tình huống kịch bản. 
Vì đặc điểm địa hình ở Việt Nam hiện nay 
các khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, đồng 
bằng Sông Hồng, sông Đồng Nai địa hình dốc ít 
hơn miền Trung nên xâm nhập mặn đã được 
quan tâm từ nhiều năm trước. Nơi đây đã có khá 
nhiều nghiên cứu về mô hình xâm nhập mặn và 
các giải pháp nhằm nâng cao dòng chảy mùa 
kiệt, để phục vụ sản xuất nông nghiệp nói riêng 
và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội nói chung. 
Một số thành tựu có thể kể đến như kết quả 
nghiên cứu xây dựng chương trình dự báo mặn 
cho khu vực đồng bằng sông Hồng - Thái Bình 
(Đoàn Thanh Hằng, 2010); nghiên cứu xâm 
nhập mặn phục vụ phát triển kinh tế xã hội vùng 
đồng bằng sông Cửu Long (Lê Sâm, 2007). Lưu 
vực các sông miền Trung thì vừa ngắn vừa dốc 
vấn đề xâm nhập mặn chỉ mới có một số nghiên 
cứu đề cập đến ví dụ như đánh giá và dự báo 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 64 (3/2019) 85 
hình thái xâm nhập mặn vùng hạ lưu sông Trà 
Khúc - sông Vệ (Đặng Thị Kim Nhung và nnk, 
2015); Tô Thúy Nga (2003) nghiên cứu đánh 
giá diễn biến quá trình xâm nhập mặn bằng cách 
áp dụng mô hình VRSAP để mô phỏng xâm 
nhập mặn vùng hạ lưu sông Vu Gia - Thu Bồn; 
Nguyễn Thế Hùng và nnk (2013) đánh giá quá 
trình diễn biến vùng hạ lưu VGTB, ứng dụng 
mô hình MIKE 11 dự báo thử nghiệm xâm nhập 
mặn hạ lưu sông Vu Gia, (phạm vi thành phố 
Đà Nẵng). Nguyễn Tùng Phong và nnk (2011) 
đã nghiên cứu tính toán xâm nhập mặn trên hệ 
thống sông Vu Gia Thu Bồn có xét tới ảnh 
hưởng của Biến đổi khí hậu. Trịnh Quốc Việt 
(2014) đã mô phỏng diễn biến xâm nhập mặn 
vùng hạ du VGTB và đề xuất 7 giải pháp để 
giảm xâm nhập mặn vùng hạ du. Các nghiên 
cứu trên lưu vực VGTB đã tạo được bộ cơ sở dữ 
liệu ban đầu và đặt nền móng cho các nghiên 
cứu về mặn cho khu vực, tuy nhiên các nghiên 
cứu này chưa phù hợp với sự tác động của hệ 
thống hồ chứa thủy điện thượng nguồn vận hành 
hiện nay. Xuất phát từ những lý do trên, việc 
nghiên cứu đánh giá diễn biến XNM vùng hạ 
lưu VGTB khi xét đến vận hành hệ thống hồ 
chứa theo Quy trình liên hồ, nhằm đề xuất giải 
pháp vận hành hợp lý để nâng cao khả năng cấp 
nước vùng hạ du là cấp thiết. 
Hình 1. Lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn 
2. THIẾT LẬP BÀI TOÁN CÂN BẰNG 
NƯỚC LƯU VỰC SÔNG VU GIA THU 
BỒN TRONG MÙA KIỆT 
a. Dữ liệu về địa hình lòng sông: Số liệu 
mặt cắt ngang sông gồm 140 mặt cắt ngang 
được thu nhập qua các đợt khảo sát địa hình (từ 
các đề tài trong khu vực) của 12 con sông và đã 
được hiệu chỉnh về mốc cao độ quốc gia. 
Để thiết lập được sơ đồ mạng lưới sông dùng 
trong tính toán MIKE 11 cần có các dữ liệu về 
mặt cắt ngang sông. Đây cũng là hạn chế trong 
việc sử dụng phần mềm vì chi phí đo đạc khảo 
sát lớn và cần khảo sát bổ sung, chỉnh lý thường 
xuyên vì địa hình lòng sông dễ bị thay đổi nhiều 
qua thời gian. 
Từ các dữ liệu hiện có, ta tiến hành thiết 
lập sơ đồ mạng lưới sông để phục vụ tính toán 
thủy lực. 
 KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 64 (3/2019) 86
b. Điều kiện ban đầu và điều kiện biên của 
mô hình 
Điều kiện ban đầu: 
Điều kiện ban đầu bao gồm lưu lượng, mực 
nước, độ mặn ban đầu tại tất cả các nút, các 
đoạn sông. Các gia trị này đều được lấy theo 
thực tế hoặc giả định một cách tương đối đảm 
bảo các tính chất thủy lực cho mô hình có thể 
chạy được. Trong quá trình tính điều kiện ban 
đầu chỉ ảnh hưởng đến một số bước tính ban 
đầu sau một thời gian nhất định chương trình 
sẽ ổn định, điều kiện này không ảnh hưởng 
đến kết quả tính các bước thời gian sau của 
mô hình. 
Điều kiện biên: 
Biên thượng lưu là lưu lượng đến các trạm 
Nông Sơn và Thành Mỹ, vì hai trạm này có số 
liệu đo đạc liên tục, kể cả mùa cạn. Các lưu vực 
con khác được tính toán từ bộ thông số mô hình 
lưu vực tương tự để có dữ liệu cho các lưu 
lượng nhập, phân lưu trong hệ thống sông. 
Biên mực nước, được lấy tại trạm Sơn Trà và 
nội suy để có mực nước theo giờ từ tháng 3 đến 
tháng 8 các 2005 và 2009. 
¸i NghÜa
Giao Thñy
Héi An
S. Thu Bån
S. Y
ªn
S.
 Q
u¶
ng
 H
uÕ
S. Thu Bån
S. Bung S.
A
 V
­¬
ng
S.
 C
«n
S. BÇu C©u
Cöa Hµn
S. Tóy Loan
S.CÈ
m L
Ö CÇu
 §á
S.
 V
Ün
h 
§
iÖ
n
S.
 L
a 
Th
ä
S. Thanh Quýt
S.T
r­êng G
iang
Cöa Lë
S.L
y 
Ly
S. Bµ RÐn
S.Qu¸ 
Gi¸ngS. Vu Gia
Thµnh Mü
N«ng S¬n
Cöa §¹i
Bi
Ón
 §
«n
g
CÈm
 LÖ
S. 
Hµ
n
T
ø 
C
©u
CÇ
u N
VT
An T
r¹ch
cæ
 c
ß
Hình 2. Sơ đồ duỗi thẳng mạng lưới sông hạ lưu lưu vực Vu Gia - Thu Bồn 
Biên độ mặn: 
+ Biên dưới: Trạm Sơn Trà - có đo đạc dữ 
liệu mặn, theo cấp 6 giờ 1 lần, do đó không thể 
hiện độ mặn ảnh hưởng theo con triều (vì triều ở 
Đà Nẵng là bán nhật triều), vả lại cửa sông độ 
mặn thay đổi tương đối phức tạp, theo từng vị 
trí và phụ thuộc vào sự tương tác của thủy triều 
và dòng chảy thượng nguồn. Độ mặn nước biển 
khoảng (30-35)0/00, biên dưới lấy tại mặt cắt cửa 
sông, nên nghiên cứu này lấy S=300/00. 
+ Biên trên: Tùy theo từng sông, căn cứ vào 
một số tài liệu đo đạc và điều tra những vị trí 
này chưa bao giờ nhiễm mặn nên giá trị tính 
toán trong mô hình sẽ chọn là 0. Điều này cũng 
sẽ được kiểm tra lại trong kết quả khi hiệu chỉnh 
xong mô hình. 
Thông số để hiệu chỉnh, kiểm định mô hình 
Chọn năm 2005 và 2009 để kiểm định mô 
hình vì tài liệu đo đạc 2 năm này tương đối đầy 
đủ mặt khác chế độ thủy lực dòng chảy hạ lưu 
chưa chịu ảnh hưởng bởi việc xây dựng các hồ 
chứa thủy điện lớn thượng nguồn. 
Các vị trí để hiệu chỉnh mô hình thủy lực, 
Mực nước (H) tại: Cẩm Lệ (giờ) và mực nước 
Ái Nghĩa (ngày năm 2009). 
Hiệu chỉnh mô hình mặn bằng số liệu đo độ 
mặn (S) tại: cầu Nguyễn Văn Trỗi, Cẩm Lệ và 
Tứ Câu. 
Kết quả hiệu chỉnh và kiểm định mực nước 
tại các trạm 
Kết quả hiệu chỉnh và kiểm định mực nước 
tại Ái Nghĩa và Cẩm Lệ như Hình 3abcd 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 64 (3/2019) 87 
Hình 3ab. Hiệu chỉnh mực nước tại Ái Nghĩa 1/3 đến 31/8/2005 và kiểm định 1/3 đến 31/8/2009 
Hình 3cd. Hiệu chỉnh mực nước tại trạm Cẩm Lệ 1/3 đến 31/8/2005 và kiểm định 1/3 
đến 31/8/2009 
Hình 4. Kiểm định độ mặn năm 2005 tại cầu Nguyễn Văn Trỗi (NVT), Cẩm Lệ (CL) và Tứ Câu (TC) 
Hình 5. Kiểm định độ mặn năm 2009 tại cầu Nguyễn Văn Trỗi (NVT), Cẩm Lệ (CL) và Tứ Câu (TC) 
S0/00 
Điểm mặn 2009 
Điểm mặn 2005 
 KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 64 (3/2019) 88
Bảng 1. Hệ số Nash trong mô phỏng để đánh giá độ tin cậy tại Ái Nghĩa và Cẩm Lệ 
Hệ số hiệu chỉnh 3-8/2005 Hệ số kiểm định 3-8/2009 
Trạm 
Nash Tương quan Nash Tương quan 
Ái Nghĩa 0,66 0,86 0,675 0,87 
Cẩm Lệ 0,73 0,93 0,75 0,97 
Nhận xét: 
Mô phỏng mực nước tại trạm Cẩm Lệ cho 
kết quả giữa hiệu chỉnh 2005, và kiểm định 
2009 tương đối tốt, hai đường bám sát nhau, chỉ 
số NASH đều lớn hơn 0.65 và chỉ số tương quan 
R2 đều lớn hơn 0.8, do đó bộ thông của mô hình 
thủy lực đảm bảo độ tin cậy. 
Đối với độ mặn thì kết quả mô phỏng cho 
đúng về hình dạng và xu thế, tuy nhiên giữa mô 
phỏng và thực đo không tốt bằng kết quả hiệu 
chỉnh mực nước, lý do vì dòng chảy mùa kiệt 
đặc biệt trên khu vực hạ lưu sông Vu Gia-Thu 
Bồn chịu nhiều yếu tố tác động, chưa kể đến 
chất lượng số liệu quá trình đo đạc mặn không 
liên tục, và việc đo mặn 3 điểm trung bình dùng 
để so sánh với kết quả mô phỏng sẽ khó có kết 
quả sát nhau. 
Năm 2005 là năm ứng với tần suất kiệt 
khoảng P=85% ở thượng nguồn. Vì vậy, nếu bộ 
thông số kiểm định cho các trận mùa kiệt năm 
2005 thỏa mãn thì với năm nhiều nước hệ số 
khuyếch tán lan truyền mặn D sẽ có xu hướng 
nhỏ hơn do dòng chảy từ thượng nguồn về lớn 
hơn. Với số liệu đo đạc hiện tại dùng để hiệu 
chỉnh và kiểm định có thể chấp nhận được trong 
điều kiện số liệu đo đạc hiện nay. 
3. KẾT QUẢ MÔ PHỎNG CÁC KỊCH 
BẢN TÍNH TOÁN 
a. Mô phỏng xâm nhập mặn theo kịch bản vận 
hành điều tiết hồ chứa QTLH 1537/QĐ-TTg 
Kết quả xâm nhập mặn khi xét đến hệ thống 
công trình thủy điện thượng nguồn vận hành 
theo biểu đồ điều phối và hồ chứa Đak Mi 4a xả 
trả nước về sông Vu Gia theo các kịch bản như 
quy trình vận hành liên hồ. 
Kịch bản đánh giá ở đây ứng với 5 trường 
hợp sau: 
- Kịch bản 1a: chưa xét đến sự làm việc của 
các hồ. 
- Kịch bản 2a: các hồ vận hành nhưng hồ 
Đak Mi 4a không xả nước trả về sông Vu Gia. 
- Kịch bản 3a: các hồ vận hành nhưng hồ Đak 
Mi 4a xả nước trả về sông Vu Gia với mức thấp. 
- Kịch bản 4a: các hồ vận hành nhưng hồ 
Đak Mi 4a xả nước trả về sông Vu Gia với mức 
trung bình. 
- Kịch bản 5a: các hồ vận hành nhưng hồ Đak 
Mi 4a xả nước trả về sông Vu Gia với mức cao. 
Hình 6. Diễn biến xâm nhập mặn lớn nhất trên sông Vu Gia ứng với kịch bản vận hành hồ chứa 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 64 (3/2019) 89 
Hình 7. Diễn biến xâm nhập mặn lớn nhất dọc sông Thu Bồn ứng với kịch bản vận hành hồ chứa. 
Hình 8. Diễn biến xâm nhập mặn lớn nhất dọc sông Vĩnh Điện ứng với vận hành hồ chứa. 
Bảng 2. Độ mặn lớn nhất (o/oo) ứng với năm có tần suất kiệt P=85%, ứng với các 
phương án vận hành xả nước trả về sông Vu Gia của thủy điện Đak Mi 4a 
Độ mặn lớn nhất (o/oo) tương ứng với các kịch bản vận hành hồ chứa. 
Vị trí 
Kịch bản 1a Kịch bản 2a Kịch bản 3a Kịch bản 4a Kịch bản 5a 
Cầu N. Văn Trỗi 28.17 27.76 27.74 27.67 27.67 
Cẩm Lệ 13.93 11.59 10.14 10.44 10.34 
Cầu Đỏ 8.16 6.24 5.66 5.96 6.16 
Cổ Mân 14.14 13.04 13.00 13.98 14.14 
Nhận xét: 
Qua kết quả hình 6 đến hình 8 ta thấy với lưu 
lượng xả xem như trung bình ngày thì việc có 
hồ chứa sẽ làm cho độ mặn có xu hưởng giảm đi 
so với chưa có hồ chứa. 
Độ mặn có xu hướng giảm vùng hạ lưu sông 
Vu Gia tương đối lớn khi hồ chứa Đak Mi 4a có 
xả trả về Vu Gia. Khi thay đổi lượng nước xả về 
Vu Gia giữa các mức xả thấp, trung bình, cao về 
Vu Gia thì độ mặn lại thay đổi không nhiều, bởi 
vì độ mặn vùng hạ lưu sông Vu Gia (Hàn – Cẩm 
Lệ) còn chịu sự chi phối bởi dòng chảy trên 
sông Vĩnh Điện. 
b. Xây dựng các kịch bản vận hành thời kỳ 
dùng nước gia tăng 
Xây dựng 4 kịch bản vận hành khác nhau, 
 KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 64 (3/2019) 90
mô phỏng theo số liệu thủy văn của năm 2005 
(ứng với tần suất khoảng 85%), ứng với 2 thời 
kỳ là thời kỳ dùng nước gia tăng 11/5 đến 30/6. 
Các kịch bản mô phỏng ứng với thời kỳ dùng 
nước bình thường và gia tăng: 
KB1: Hồ chứa hồ ĐakMi 4a xả lưu lượng trả 
về Vu Gia theo mức trung bình (theo 1537/QĐ-
TTg), các hồ chứa vận hành phát điện về hạ du 
với lưu lượng trung bình 24 giờ. 
KB2: Hồ chứa hồ ĐakMi 4a xả lưu lượng trả 
về Vu Gia theo mức trung bình (theo 1537/QĐ-
TTg), các hồ chứa vận hành phát điện về hạ du 
với lưu lượng phát điện từ 7-22 giờ (theo thực 
tế vận hành hiện nay). 
KB3: Vận hành hồ chứa theo như kịch bản 2 
nhưng hồ ĐakMi 4a không xả lưu lượng trả về 
Vu Gia. 
KB4: Các hồ chứa vận hành phát điện về hạ 
du với lưu lượng phát điện từ 7-22 giờ (theo 
thực tế vận hành hiện nay). Hồ chứa hồ ĐakMi 
4a xả lưu lượng trả về Vu Gia theo mức trung 
bình (theo 1537/QĐ-TTg), với tổng lượng như 
quy trình nhưng chỉ trong các giờ không phát 
điện (22h-7h hôm sau). 
Hình 9. Diễn biến xâm nhập mặn lớn nhất trên sông Hàn - Vĩnh Điện theo các kịch bản 
Kết quả mô phỏng ứng với các kịch bản từ 
KB1 đến KB4 như hình 9 và 11 cho thấy: 
- Độ mặn phân bố trên các sông Yên - Hàn, 
Cẩm Lệ, sông Vĩnh Điện - Hàn, sông Thu Bồn 
ứng với thời kỳ nước bình thường và thời kỳ nước 
gia tăng đều cho kết quả độ mặn tăng giảm khá 
đồng bộ ứng với các kịch bản của hai thời kỳ này. 
- Kịch bản 3 khi không xả lưu lượng về Vu 
Gia của hồ chứa thủy điện Đak Mi 4a thì độ 
mặn sẽ gia tăng lớn nhất, có thể thấy độ mặn hạ 
lưu sông Vu Gia chịu tác động trực tiếp từ việc 
xả nước hồ Đak Mi 4a. 
Hình 10. Diễn biến xâm nhập mặn lớn nhất trên sông Hàn - Cẩm Lệ - Yên theo các kịch bản 
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 64 (3/2019) 91 
Hình 11. Diễn biến xâm nhập mặn lớn nhất trên sông Thu Bồn theo các kịch bản 
- Kịch bản 2 vận hành theo quy trình liên hồ 
hiện nay, nếu hồ chứa Đak Mi 4a xả liên tục về 
hạ du thì phân bố độ mặn vùng hạ du có giảm 
tương đối lớn so với KB 1 và KB 3. 
- Kịch bản 4 và Kịch bản 2 với tổng lượng xả 
ngày của hồ Đak Mi 4a là như nhau, tuy nhiên 
khi tập trung cho hồ Đak Mi 4a xả về hạ du Vu 
Gia từ 22 giờ đến 7 giờ sáng (Với lưu lượng Qpđ 
=24/9 Qxả VG_QTLH) ta thấy độ mặn có giảm đáng 
kể so với việc xả về đều 24 giờ với lưu lượng xả 
trung bình. Điều này là một kiến nghị có thể bổ 
sung để điều chỉnh Quy trình liên hồ chứa. 
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Nghiên cứu này đã đánh giá được quá trình 
diễn biến xâm nhập mặn theo Quy trình liên hồ 
1537/QĐ-TTg, từ đó làm rõ mức độ hiệu quả của 
vận hành theo quy trình liên hồ đến diễn biến 
xâm nhập mặn sông Vu Gia - Thu Bồn. Theo đó 
đề xuất phương án vận hành hệ thống hồ chứa 
thủy điện lớn trên lưu vực Vu Gia Thu Bồn nhằm 
nâng cao khả năng cấp nước cho hạ du: 
- Kiến nghị vận hành hệ thống theo sự phối 
hợp giữa các hồ chứa thủy điện để luôn duy trì 
dòng chảy liên tục về hạ du, các hồ chứa thủy 
điện sông Bung 4 và A Vương đã phát điện liên 
tục từ 7 giờ đến 21 giờ, thì hồ chứa Đak Mi 4a 
tập trung nước xả về hạ du từ 22 giờ đến 6 giờ 
sáng (với lưu lượng Qpđ = 24/9 Qxả VG_QTLH). 
- Thứ 7 và chủ nhật vẫn duy trì phát điện để 
dòng chảy xả liên tục về hạ du, (vì tỷ trọng 
điện của Miền Trung nói riêng và của các hồ 
chứa thủy điện Miền Trung rất bé so với cả 
nước, nên việc có cơ chế đặc thù đối với các hồ 
này để vừa đảm bảo phát điện và vừa điều tiết 
nước cho hạ du, như vậy cũng có thể dành 
phần lưu lượng xả về của hồ Đak Mi 4a cho 
thời kỳ thiếu nước cấp hơn. 
Lời cảm ơn 
“Nghiên cứu này được tài trợ bởi ngân sách 
nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong đề 
tài khoa học và công nghệ cấp bộ, mã số B2017-
DNA-10”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Đoàn Thanh Hằng (2010), Xây dựng chương trình dự báo xâm nhập mặn cho khu vực đồng bằng 
sông Hồng và sông Thái Bình, Hà Nội. Báo cáo tổng kết, Đề tài Khoa học Công nghệ Cấp bộ - 
Bộ tài nguyên môi trường, Hà Nội. 
Lê Hùng (2017), Nghiên cứu ảnh hưởng của việc vận hành các công trình thủy điện ở thượng 
nguồn đến việc cấp nước của nhà máy nước Cầu Đỏ trong điều kiện BĐKH, NBD và phát triển 
kinh tế xã hội của TP. Đà Nẵng - Đề xuất các giải pháp phù hợp, Báo cáo tổng kết – Đề tài KH 
& CN cấp thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng. 
 KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 64 (3/2019) 92
Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Hữu Thiêm (2013), “Ứng dụng mô hình Mike 11 dự báo thử nghiệm 
xâm nhập mặn hạ lưu sông Vu Gia”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, số 64), 
Đà Nẵng. 
Đặng Thị Kim Nhung, Đặng Vi Nghiêm, Nguyễn Đức Hoàng (2015), “Đánh giá và dự báo hình 
thái xâm nhập mặn vùng hạ lưu sông Trà Khúc-sông Vệ”. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thủy lợi 
và Môi trường. số 50, Hà Nội. 
Tô Thúy Nga (2003), “Nghiên cứu xâm nhập mặn trên hạ lưu sông Vu Gia Thu Bồn, Báo cáo tổng 
kết đề tài cấp Đại học Đà Nẵng”, Đà Nẵng. 
Nguyễn Tùng Phong, Tô Việt Thắng, Nguyễn Văn Đại (2013), “Nghiên cứu tính toán xâm nhập 
mặn trên hệ thống sông Vu Gia Thu Bồn có xét tới ảnh hưởng của Biến đổi khí hậu”, Tạp chí 
Khoa học Công nghệ Thủy lợi, số 8, Hà Nội. 
Lê Sâm (2007), Nghiên cứu xâm nhập mặn phục vụ phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bằng sông 
Cửu Long, Báo cáo tổng kết Đề tài cấp Nhà nước, Thành phố Hồ Chí Minh. 
Thủ tướng Chính phủ (2015), Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông VGTB, Quyết định 
1537/QĐ-TTg, Hà Nội. 
Trinh Quoc Viet (2014), Estimating the impact of climate change induced saltwater intrusion on 
agriculture in estuariesthe case of Vu Gia Thu Bon, RUHR University Bochum. 
Abstract: 
STUDY ON SOLUTIONS FOR OPERATING INTER-RESERVOIRS 
IN VU GIA - THU BON RIVER BASIN TO REDUCE SALT INTRUSION 
In dry season, salt intrusion has frequently occurred at Vu Gia and Vinh Dien tributaries located at 
downstream of Vu Gia - Thu Bon River Basin. This might be explained by the fact that the fresh 
water flow from upstream is not strong enough to prevent seawater to intrude. In addition, the flow 
regime in the rivers is also greatly affected by the operation of hydropower plants located at the 
upstream. Although there is an procedure for operating inter-reservoirs in Vu Gia - Thu Bon river 
basin (1537/QD-TTg), its implementation faces many difficulties due to conflicts between 
different water uses, leading to salt intrusion problem. This study has proposed a new operation 
plan to reduce salt intrusion in this river. Accordingly, with the same amount of water, Dak Mi 4a 
reservoir should discharge from 22pm to 6am instead of continuously discharging 24 hours 
according to the current procedure of 1537/QD-TTg. The results show that the new operation plan 
does not affect Dak Mi4a’s electricity production and reduce salt intrusion compared to the current 
operation procedure. 
Keywords: River Basin, Vu Gia - Thu Bon, salt intrusion, peration procedure, inter - reservoirs 
Ngày nhận bài: 13/12/2018 
Ngày chấp nhận đăng: 17/3/2019 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_giai_phap_van_hanh_lien_ho_chua_thuong_nguon_nham.pdf