Nâng cao chất lượng kiểm toán ngân hàng chính sách xã hội của kiểm toán nhà nước Việt Nam
Bài viết nghiên cứu về các hoạt động của kiểm toán nhà nước trong việc kiểm toán Ngân
hàng Chính sách xã hội Việt Nam cho các năm tài chính 2014, 2015 và 2017. Bằng việc thu
thập dữ liệu thứ cấp từ báo cáo kiểm toán của KTNN năm 2015, 2016 và 2018 cũng như
báo cáo tài chính của Ngân hàng Chính sách xã hội các năm 2014, 2015 và 2017 cùng các
văn bản Luật, nghị định, thông tư của Nhà nước Việt Nam có liên quan để phân tích thực trạng, ưu nhược
điểm của Kiểm toán nhà nước thông qua kiểm toán các hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội. Từ
thực trạng kiểm toán các hoạt động nghiệp vụ chính của Ngân hàng Chính sách xã hội và các ưu điểm,
hạn chế. bài viết đề xuất các nhóm giải pháp vi mô, vĩ mô nhằm tạo thêm điều kiện, môi trường để hoạt
động kiểm toán Ngân hàng Chính sách xã hội của Kiểm toán nhà nước Việt Nam đạt hiệu quả cao hơn,
qua đó nhằm tạo sự chuyển biến trong công tác quản lý và điều hành góp phần ổn định hệ thống tài chính
quốc gia.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao chất lượng kiểm toán ngân hàng chính sách xã hội của kiểm toán nhà nước Việt Nam
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN24 Số 145 - tháng 11/2019 NAÂNG CAO CHAáT lÖÔÏNG KIEåm TOAÙN NGAÂN HAØNG CHÍNH sAÙCH XAÕ HOÄI CuÛA KIEåm TOAÙN NHAØ NÖÔÙC VIEÄT NAm ThS. TRƯơNG ĐỨC THÀNH* *Kiểm toán nhà nước Khu vực IX Bài viết nghiên cứu về các hoạt động của kiểm toán nhà nước trong việc kiểm toán Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam cho các năm tài chính 2014, 2015 và 2017. Bằng việc thu thập dữ liệu thứ cấp từ báo cáo kiểm toán của KTNN năm 2015, 2016 và 2018 cũng như báo cáo tài chính của Ngân hàng Chính sách xã hội các năm 2014, 2015 và 2017 cùng các văn bản Luật, nghị định, thông tư của Nhà nước Việt Nam có liên quan để phân tích thực trạng, ưu nhược điểm của Kiểm toán nhà nước thông qua kiểm toán các hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội. Từ thực trạng kiểm toán các hoạt động nghiệp vụ chính của Ngân hàng Chính sách xã hội và các ưu điểm, hạn chế... bài viết đề xuất các nhóm giải pháp vi mô, vĩ mô nhằm tạo thêm điều kiện, môi trường để hoạt động kiểm toán Ngân hàng Chính sách xã hội của Kiểm toán nhà nước Việt Nam đạt hiệu quả cao hơn, qua đó nhằm tạo sự chuyển biến trong công tác quản lý và điều hành góp phần ổn định hệ thống tài chính quốc gia. Từ khóa: Chất lượng kiểm toán, Ngân hàng Chính sách xã hội, Kiểm toán nhà nước. Improving the quality of the audit of Social Policy Bank of State Audit of Vietnam This article researchs on activities of SAV on audit of Bank of Social Policies in financial years of 2014, 2015 and 2017. By collecting secondary data from audit reports of SAV in the year of 2015, 2016 and 2018 as well as financial audit of Social Policies Bank in 2014, 2015 and 2017 and related laws, decrees and circulars of Vietnam government to analysis situation, advantages and disadvantages of SAV through audit of Bank of Social Policies. From there, the article suggests micro and macro solutions to create more conditions and environment to enhance effective of audit of Bank of Social Policies of SAV, thereby, to create a change in the management and administration, contributing to the stability of the national financial system. Keywords: Audit quality, Bank for Social Policies, State Audit of Vietnam. Giới thiệu Ngân hàng Chính sách xã hội là ngân hàng của Chính phủ hoạt động vì an sinh xã hội, không vì mục đích lợi nhuận, là công cụ thực hiện chính sách xã hội như cho vay hộ nghèo, khó khăn. Do đó, hoạt động kiểm toán đối với việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của Ngân hàng Chính sách xã hội hết sức quan trọng và cần thiết cho việc thực hiện chính sách phát triển của Nhà nước cũng như đảm bảo an sinh, xã hội. Đối với một quốc gia, nếu hoạt động kiểm toán tốt thì tiềm lực kinh tế của quốc gia sẽ được cải thiện. Hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước tại Ngân hàng Chính sách xã hội đối với các hoạt động liên quan đến quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công là hoạt động được Kiểm toán NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 25Số 145 - tháng 11/2019 nhà nước tiến hành thường xuyên định kỳ. Qua hoạt động kiểm toán nhằm đánh giá việc tuân thủ pháp luật, tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; đánh giá việc chấp hành các quy định của Nhà nước trong việc cấp tín dụng ưu đãi, cho vay hộ nghèo, khó khăn và các chương trình trợ cấp việc làm.. Với nhiệm vụ hết sức quan trọng với nhiều nội dung cần được kiểm tra, xác nhận và đánh giá luôn đòi hỏi hoạt động kiểm toán với chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của hoạt động Kiểm toán nhà nước. Với địa vị pháp lý của Kiểm toán nhà nước đã được quy định trong Hiến pháp 2013, Luật Kiểm toán nhà nước 2015 với địa vị, vai trò mới đem lại cho Kiểm toán nhà nước thẩm quyền rất lớn nhưng trách nhiệm cũng rất cao, điều này đòi hỏi Kiểm toán nhà nước phải tăng cường năng lực nội tại để đáp ứng yêu cầu. Kết quả kiểm toán cũng từng bước được nâng cao qua các lần kiểm toán, qua đó, một mặt giúp cho đơn vị được kiểm toán chấn chỉnh kịp thời các sai phạm trong quá trình tổ chức hoạt động, mặt khác giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các cơ chế chính sách đảm bảo phù hợp với tình hình thực tiễn của nền kinh tế. Qua hơn 25 năm xây dựng và phát triển, hoạt động của Kiểm toán nhà nước ngày càng đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, tăng cường kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Mặc dù, đã có những bước phát triển quan trọng nhưng trước yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước, tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước, hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước cũng còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do phạm vi kiểm toán chưa bao quát hết việc kiểm tra, kiểm soát mọi nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Kiểm toán nhà nước với vị thế là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất của quốc gia. Hiện nay, các nghiên cứu về Kiểm toán nhà nước và nâng cao chất lượng của Kiểm toán nhà TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN26 Số 145 - tháng 11/2019 nước có thể kể đến như đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở của Nguyễn Thanh Huệ (2018) về “Hoàn thiện hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán của Kiểm toán trưởng tại kiểm toán nhà nước”. Nghiên cứu đã đã hệ thống được các vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán; đi sâu phân tích các hạn chế, vi phạm hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán của Kiểm toán trưởng tại cơ quan Kiểm toán nhà nước Việt Nam giai đoạn 2013 – 2017. Nghiên cứu của Đỗ Trung Dũng và Cù Hoàng Diệu (2017) về “Tăng cường kiểm soát chất lượng kiểm toán nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực kiểm toán ngân sách bộ, ngành”. Nghiên cứu đã hệ thống được các vấn đề lý luận liên quan đến công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán trong mối quan hệ với chất lượng, hiệu lực kiểm toán ngân sách bộ ngành; đánh giá được thực trạng công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán ngân sách bộ, ngành. Từ kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân, đưa ra những định hướng và giải pháp tăng cường kiểm soát chất lượng kiểm toán nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực kiểm toán ngân sách bộ, ngành ở 3 khía cạnh là: Hoàn thiện môi trường kiểm soát chất lượng kiểm toán; hoàn thiện tổ chức bộ máy kiểm soát chất lượng kiểm toán và hoàn thiện cơ chế hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán. Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Phúc (2009) về “Tổ chức kiểm toán ngân sách nhà nước do Kiểm toán nhà nước Việt Nam thực hiện”, trình bày thực trạng tổ chức bộ máy kiểm toán ngân sách nhà nước và tổ chức công tác kiểm toán, thông qua thực hiện quy trình kiểm toán ngân sách nhà nước do Kiểm toán nhà nước Việt Nam thực hiện trong những năm qua và những tác động của việc đổi mới tổ chức quản lý ngân sách nhà nước của Việt Nam trong tương lai đến việc tổ chức kiểm toán ngân sách nhà nước. Nghiên cứu cũng đề ra những định hướng cơ bản và giải pháp hoàn thiện tổ chức kiểm toán ngân sách nhà nước trên 02 phương diện tổ chức bộ máy và tổ chức công tác kiểm toán ngân sách nhà nước do Kiểm toán nhà nước Việt Nam thực hiện. Ngoài ra, còn một số nghiên cứu khác có liên quan của Vương Văn Quang (2013) nghiên cứu về “Hoàn thiện Quy chế kiểm soát chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước”; nghiên cứu của Vũ Thị Thu Huyền (2019) về “Hoàn thiện công tác kiểm toán hoạt động chi tiêu ngân sách của các Bộ, ngành”... Có thể nói, các nghiên cứu đề cập ở trên về cơ bản đã được ứng dụng trong hoạt động kiểm toán Ngân hàng Chính sách xã hội của Kiểm toán nhà nước, và hầu hết các nghiên cứu này chưa đi sâu vào nghiên cứu lĩnh vực ngân hàng chịu sự quản lý của nhà nước, cụ thể là Ngân hàng Chính sách xã hội. Bài viết nhằm với mục đích đánh giá thực trạng kiểm toán Ngân hàng Chính sách xã hội của Kiểm toán nhà nước và các giải pháp, khuyến nghị. 1. Cơ sở lý thuyết 1.1. Khái niệm kiểm toán Kiểm toán xuất hiện vào thế kỷ thứ III trước công nguyên và gắn liền với nền văn minh Ai Cập và La Mã cổ đại. Theo định nghĩa của Liên đoàn Kế toán Quốc tế (International Federation of Accountants –IFAC) thì “Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính”. Theo Alvin A.Rens và James K.Loebbecker (1997) thì: “Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập”. Theo John Dunn (1996) thì: “Kiểm toán là thủ pháp xem xét và kiểm tra một cách khách quan về từng khoản mục bao gồm việc thẩm tra những NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 27Số 145 - tháng 11/2019 thông tin đặc trưng được xác định bởi kiểm toán viên hoặc thiết lập bởi thực hành chung”. Có thể nói mục đích của kiểm toán là trình bày ý kiến hoặc đi đến kết luận về cái được kiểm toán. Theo tác giả thì kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền, có kỹ năng nghiệp vụ, thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng của một đơn vị nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được xây dựng. 1.2. Khái niệm chất lượng kiểm toán Theo Ủy ban Chuẩn mực kiểm toán và dịch vụ đảm bảo quốc tế (IAASB) thì chất lượng kiểm toán là khả năng Kiểm toán viên đưa ra ý kiến hợp lý về báo cáo tài chính được kiểm toán dựa trên việc thu thập được bằng chứng kiểm toán đầy đủ, thích hợp và cuộc kiểm toán được thực hiện đảm bảo: Tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán bao gồm các giá trị đạo đức và hành vi ứng xử phù hợp; Có đủ kiến thức, kinh nghiệm và được bố trí thời gian đầy đủ để thực hiện kiểm toán; áp dụng quy trình, thủ tục kiểm toán và kiểm soát chất lượng kiểm toán nghiêm túc và đầy đủ; Cung cấp báo cáo kiểm toán có giá trị, kịp thời; Báo cáo kiểm toán thỏa mãn nhu cầu của các đối tượng khác nhau. Quy chế Kiểm soát chất lượng kiểm toán ban hành theo Quyết định 558/QĐ-KTNN ngày 22/3/2016 của Tổng Kiểm toán nhà nước lại cụ thể hóa chất lượng kiểm toán cho một cuộc kiểm toán: “Chất lượng cuộc kiểm toán phản ánh mức độ thực hiện các mục tiêu kiểm toán, tuân thủ pháp luật, tuân thủ chuẩn mực, quy trình kiểm toán và vận dụng phù hợp các phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu về tính đúng đắn, trung thực, khách quan, kịp thời của kết quả và kết luận kiểm toán, đảm bảo cơ sở pháp lý và tính khả thi của các kiến nghị kiểm toán”. 1.3. Các quan điểm khoa học về chất lượng kiểm toán Theo các nghiên cứu trước có hai quan điểm chính về chất lượng kiểm toán: Thứ nhất là khả năng phát hiện và báo cáo các sai phạm trọng yếu trên các báo cáo tài chính được kiểm toán (Krishnan và Schauer, 2001; Bradshaw, 2001; Francis, 2004; Chen, Su và Wang, 2005); thứ hai là quan điểm TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN28 Số 145 - tháng 11/2019 thực hành nhằm thỏa mãn đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 220 (VSA 220) và Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 220 (ISA 220), “Chất lượng kiểm toán là mức độ thoả mãn về tính khách quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm toán của những đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán đồng thời thoả mãn về mong muốn có được những ý kiến đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính, kế toán của đơn vị được kiểm toán với thời gian định trước và giá phí thích hợp”. Chất lượng kiểm toán ở đây được hiểu trên khía cạnh mức độ thỏa mãn của đối tượng sử dụng các báo cáo tài chính. Với đặc trưng của kiểm toán các chức năng nhiệm vụ của ngân hàng thương mại... thì đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán phổ biến nhất là các cơ quan quản lý và các ngân hàng thương mại được kiểm toán, các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức khác có liên quan. Mặc dù, chất lượng kiểm toán được nhìn nhận dưới các quan điểm khác nhau nhưng mục tiêu kiểm toán vẫn phải được đảm bảo, đó là kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến đúng về độ tin cậy của các báo cáo tài chính. Tóm lại, đối với hệ thống các tổ chức tín dụng thì việc đảm bảo đảm chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước, đặc biệt là đối với Ngân hàng Chính sách xã hội là mối quan tâm lớn nhất của các cơ quan quản lý. 2. Thực trạng chất lượng kiểm toán tại Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam Quá trình kiểm toán Ngân hàng Chính sách xã hội, Kiểm toán viên nhà nước căn cứ vào các văn bản như Luật Kiểm toán nhà nước, Luật Kế toán, các văn bản pháp luật về quản lý kinh tế, tài chính, kế toán, các văn bản pháp luật khác của Nhà nước quy định về chính sách tín dụng đối với người nghèo, cận nghèo, các đối tượng chính sách khác và các văn bản pháp luật khác của Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, của các Bộ, ngành có liên quan đến hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội và hệ thống chuẩn mực kiểm toán, Quy trình kiểm toán, Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Kiểm toán nhà nước. Kết quả kiểm toán cũng chỉ ra nhiều tồn tại, hạn chế tại đơn vị, từ đó đưa ra được một số kiến nghị giúp đơn vị thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình kiểm toán Ngân hàng Chính sách xã hội, còn một số hạn chế sau: Kiểm toán nhà nước chưa có những quy định, hướng dẫn, tiêu chí cụ thể để đánh giá các nhóm chính sách cụ thể như: Kiểm toán cho vay hộ nghèo; kiểm toán chương trình cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn; kiểm toán nghiệp vụ cấp bù lãi suất và chi phí quản lý... từ đó dẫn đến các ý kiến nhận xét đánh giá chưa bao quát, chưa đầy đủ, thiếu tính thống nhất giữa các kiểm toán viên trong cùng đoàn kiểm toán. Năng lực của kiểm toán viên chưa đồng đều; một số kiểm toán viên còn hạn chế năng lực về lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn để tiến hành kiểm toán. Từ đó, dẫn đến kết quả kiểm toán đối với một số nội dung còn hạn chế. Việc khảo sát, thu thập thông tin chưa được chú trọng dẫn đến việc xác định mục tiêu, nội dung, phạm vi, phương pháp kiểm toán khi lập kế hoạch kiểm toán còn hạn chế: Mục tiêu kiểm toán chưa rõ ràng; nội dung kiểm toán chưa đầy đủ; phương pháp cách thức tiến hành kiểm toán đôi khi chưa phù hợp. Kiểm toán nhà nước chưa có quy định, hướng dẫn về mẫu báo cáo kiểm toán và cách trình bày báo cáo kiểm toán riêng cho một số nội dung trong cuộc kiểm toán, vì các nội dung này mang tính chất đặc thù nên mỗi chính sách có những nội dung và tiêu chí đánh giá khác nhau. Do vậy, việc đánh giá về cùng một nội dung của mỗi kiểm toán viên, mỗi Tổ kiểm toán trong cùng Đoàn kiểm toán đôi khi khác nhau. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 29Số 145 - tháng 11/2019 Báo cáo kiểm toán còn dài, thiếu tập trung nên phần lớn chỉ tập trung vào phản ánh, đánh giá thiếu sót, tồn tại và xác định trách nhiệm liên quan nhưng chưa thực sự đánh giá công bằng những mặt làm được cần phát huy và đặc biệt là chưa phân tích những nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót, bất cập trong quản lý nhằm hướng tới mục tiêu hoàn thiện chương trình, chính sách, hoạt động được kiểm toán. Nhiều kiến nghị trong báo cáo kiểm toán còn chung chung, thiếu bằng chứng nhiều khi không có tính thực tiễn và chưa gắn kết với mục tiêu, nội dung kiểm toán. 3. Các giải pháp, khuyến nghị Qua thực trạng cho thấy còn tồn tại tình trạng chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội và sự hạn chế trong quá trình vận hành hoạt động kiểm toán Ngân hàng Chính sách xã hội, tác giả có một số giải pháp, khuyến nghị sau: 3.1. Nhóm giải pháp vĩ mô Hoàn thiện hệ thống pháp luật: Cần nghiên cứu sửa đổi Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản luật có liên quan để phân định rõ vị trí, chức năng của Kiểm toán nhà nước với các cơ quan thanh tra, kiểm tra giám sát khác của Nhà nước; đồng thời, bảo đảm sự đồng bộ và phù hợp giữa Luật Kiểm toán nhà nước với Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Ngân sách nhà nước..., cụ thể: Hoàn thiện hệ thống pháp luật: Đề xuất Chính phủ sửa đổi, bổ sung Luật Dân sự số 91/2015/ QH13, Bộ luật Dân sự ngày 24 tháng 11 năm 2015 tại Điều 282: Thực hiện nghĩa vụ định kỳ: “Nghĩa vụ được thực hiện theo định kỳ theo thỏa thuận, theo quy định của pháp luật hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền; Việc chậm thực hiện nghĩa vụ theo từng kỳ cũng bị coi là chậm thực hiện nghĩa vụ” phù hợp với các văn bản về thu hồi nợ vay. Nghiên cứu để chỉnh sửa Thông tư số 21/2012/ TT-NHNN ngày 18/ 06 /2012 về “Quy định về hoạt động cho vay, đi vay; mua, bán có kỳ hạn giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài” đã được Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành Thông tư số 18/2016/TT-NHNN nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 21/2012/TT-NHNN ngày 18/6/2012. Tuy nhiên, chưa phù hợp với điều lệ về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 16/2003/QĐ-TTg ngày 22 tháng 01 năm 2003. Cụ thể tại Thông tư số 18/2016/TT-NHNN, Điều 2 “Đối tượng áp dụng” đề nghị bổ sung thêm đối tượng cho vay và đi vay là Ngân hàng Chính sách xã hội cho phù hợp với Quyết định số 16/2003/QĐ-TTg tại Chương 2, mục 1 Điều 4 “Nguồn vốn” tiểu mục 2 “Vốn huy động” gồm: a) Tiền gửi có trả lãi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; b) Tiền gửi của các tổ chức tín dụng nhà nước bằng 2% số dư nguồn vốn huy động bằng đồng Việt Nam có trả lãi theo thoả thuận; c) Tiền gửi tự nguyện không lấy lãi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; d) Phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác; đ) Tiền tiết kiệm của người nghèo. Đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Chính phủ số 76/2015/QH13 tại Điều 8 Chương 2 bổ sung Mục 8: “Chỉ đạo, tổ chức và quản lý việc thực hiện công tác kế toán và công tác thống kê của Nhà nước” thành: “Chỉ đạo, tổ chức và quản lý việc thực hiện công tác kế toán và công tác thống kê, công tác kiểm toán của Nhà nước” để phù hợp với Luật Tổ chức Quốc hội số 57/2014/QH13 tại Điều 6, Mục 2: “Quốc hội giám sát tối cao hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập”, nhằm khẳng định Kiểm toán nhà nước là cơ quan TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN30 Số 145 - tháng 11/2019 kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Nghiên cứu sửa đổi một số quy định của Luật Ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13 tại Điều 23 bổ sung Mục 3: “Tham gia với Uỷ ban Tài chính, Ngân sách và các cơ quan khác của Quốc hội, Chính phủ trong việc xem xét, thẩm tra báo cáo về dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, phương án điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước” thành “Tham gia với Ủy ban Tài chính, Ngân sách và các cơ quan khác của Quốc hội, Chính phủ trong việc xem xét, thẩm tra báo cáo về dự toán ngân sách nhà nước, phương án điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung ương của Kiểm toán nhà nước, thời hạn nộp báo cáo quyết toán ngân sách năm của các bộ, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” nhằm cho phù hợp với quy định của Luật Kiểm toán nhà nước. Các khuyến nghị đối với Bộ Tài chính: Đề xuất điều chỉnh, bổ sung Thông tư số 24/2005/TT-BTC, mặc dù Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư Số 102/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung Thông tư số 24/2005/TT-BTC việc điều chỉnh này chưa sát với thực tế hoạt động tại Ngân hàng Chính sách xã hội. Do đó, tác giả đề xuất chỉnh sửa, bổ sung Thông tư số 24/2005/TT-BTC theo hai hướng, cụ thể: (i) Tại phần IV “Cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý” khoản mục 3 “Xác định số cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý thực tế” của Thông tư số 24/2005/TT-BTC đề nghị bổ sung, xác định số dư nguồn vốn bình quân cần tính đến số dư nguồn vốn ủy thác tạm thời nhàn rỗi chưa giải ngân. (ii) Tại phần IV “Cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý” khoản mục 3 “Xác định số cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý thực tế” của Thông tư số 24/2005/TT-BTC đề nghị bổ sung xác định rõ các khoản giảm trừ (khoản phải thu ngân sách nhà nước) khi tính số dư nguồn vốn bình quân để tính cấp bù lãi suất. Đề nghị Bộ Tài chính rà soát, căn cứ vào số quyết toán thực tế hàng năm để xem xét việc tạm cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý hàng quý cho Ngân hàng Chính sách xã hội, tránh tình trạng tạm cấp thừa lớn, gây lãng phí nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước. Bộ Tài chính cần có những chỉ đạo, đôn đốc Ngân hàng Chính sách xã hội và các đơn vị được kiểm toán thực hiện nghiêm túc, kịp thời các kiến nghị của Kiểm toán nhà nước và báo cáo kết quả thực hiện về Kiểm toán nhà nước. Đề nghị trong Báo cáo kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán cần nêu rõ: Những kiến nghị đã thực hiện; kiến nghị đang thực hiện; kiến nghị chưa thực hiện với những kiến nghị đã thực hiện cần ghi rõ tên bằng chứng, đính kèm theo bản sao các chứng từ, tài liệu... để chứng minh; với kiến nghị đang thực hiện và kiến nghị chưa thực hiện phải giải thích rõ lý do. Đề nghị Bộ Tài chính rà soát, căn cứ vào số quyết toán thực tế hàng năm để xem xét việc tạm cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý hàng quý cho Ngân hàng Chính sách xã hội, tránh tình trạng tạm cấp thừa lớn, gây lãng phí nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước. Các khuyến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước: Đề nghị Ngân hàng Nhà nước quy định Ngân hàng Chính sách xã hội chỉ được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước, các tổ chức tín dụng nhà nước phải duy trì tiền gửi 2% tại Ngân hàng Chính sách xã hội theo quy định để đảm bảo khả năng chi trả, thanh toán và an toàn theo Thông tư số 23/2013 TT-NHNN quy định việc tổ chức tín dụng nhà nước duy trì số dư tiền gửi tại Ngân hàng Chính sách xã hội được Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 19/11/2013. Đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 31Số 145 - tháng 11/2019 xuất phương án, biện pháp xử lý dứt điểm khoản Ngân hàng Nhà nước cho Ngân hàng Chính sách xã hội vay 9.000 tỷ đồng để cho vay học sinh sinh viên theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 51/VPCP-KTTH, ngày 08/01/2015 của Văn phòng Chính phủ. Các khuyến nghị đối với UBND các cấp: Tăng cường bố trí vốn từ ngân sách địa phương và các nguồn vốn khác để bổ sung nguồn vốn cho vay các đối tượng chính sách xã hội trên địa bàn theo đúng yêu cầu của Chỉ thị 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư và Quyết định 401/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ. 3.2. Nhóm giải pháp nghiệp vụ Chất lượng kiểm toán chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau và có nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng kiểm toán, nhưng một trong các giải pháp quan trọng đó là liên quan đến nghiệp vụ và quy trình kiểm toán của Kiểm toán nhà nước đối với Ngân hàng Chính sách xã hội. Do đó, để nâng cao chất lượng kiểm toán tại Ngân hàng Chính sách xã hội, cuộc kiểm toán trước hết phải tuân thủ đầy đủ các bước trong quy trình kiểm toán của Kiểm toán nhà nước nói chung, trong đó cần đảm các định hướng chung của Kiểm toán nhà nước Việt Nam. Cụ thể, hoàn thiện quy trình kiểm toán tại Ngân hàng Chính sách xã hội theo Quyết định 11/2017/QĐ-KTNN ngày 21/11/2017 của Tổng Kiểm toán nhà nước về Quy trình kiểm toán các tổ chức tài chính, ngân hàng của Kiểm toán nhà nước như sau: Tại bước 1: Chuẩn bị kiểm toán: Kiểm toán nhà nước cần phải tập trung các nội dung kiểm toán có tính thời sự và quan tâm lớn của xã hội trong lĩnh vực ngân hàng. Trong đó, hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội có tính chất quan trọng trong việc an sinh xã hội, thúc đẩy phát triển hạ tầng và đầu tư của xã hội phải được coi là nhiệm vụ quan trọng. Ban hành hướng dẫn về xây dựng, mục tiêu, nội dung kiểm toán từ khâu lựa chọn chủ đề kiểm toán, lập kế hoạch kiểm toán đến khâu thực hiện kiểm toán để áp dụng hiệu quả trong các cuộc kiểm toán. Tăng cường khảo sát, thu thập thông tin ngay từ khâu khảo sát để có đủ dữ liệu và căn cứ xây dựng kế hoạch kiểm toán ngân hàng. Kế hoạch kiểm toán Ngân hàng Chính sách xã hội cần được lập với đầy đủ các nội dung đảm bảo bao quát được toàn bộ các hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội, phù hợp tình hình thực tế trong hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội. Kiểm toán nhà nước cần phải chủ động phối hợp với cơ quan thanh tra các cấp để khắc phục được tình trạng chồng chéo, trùng lặp giữa hoạt động thanh tra, kiểm tra của các bộ, ngành, địa phương và hoạt động kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán được phổ biến thống nhất đến từng thành viên đoàn kiểm toán và được triển khai cụ thể và chi tiết ở từng tổ kiểm toán. Tại bước 2: Thực hiện kiểm toán: Các thành viên đoàn kiểm toán tại Ngân hàng Chính sách xã hội khi thực hiện kiểm toán cần phải tuân thủ kế hoạch kiểm toán đã được ban hành, các chuẩn mực kiểm toán của Kiểm toán nhà nước, quy trình kiểm toán và các quy định về chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán, các quy định nghiệp vụ khác và pháp luật có liên quan đối với các nghiệp vụ trong hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội. Các kiểm toán viên thu thập được đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở cho việc hình thành các ý kiến và kết luận kiểm toán. Các bằng chứng kiểm toán khi thực hiện kiểm toán tại Ngân hàng Chính sách xã hội đều là các tài liệu quan trọng gắn với hoạt động của đơn vị do đó, việc thu thập cũng khó khăn hơn. Vì vậy, để đảm bảo ý kiến đưa ra có đủ cơ sở, kiểm toán viên cần sử dụng các biện pháp thu thập bằng chứng theo đúng chuẩn mực về bằng chứng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước; Tại bước 3: Lập và gửi báo cáo kiểm toán: Báo cáo kiểm toán tại Ngân hàng Chính sách xã hội TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN32 Số 145 - tháng 11/2019 phải phù hợp với chuẩn mực và các quy định về báo cáo kiểm toán do Kiểm toán nhà nước ban hành; phản ánh đầy đủ tình hình, kết quả kiểm toán và kết quả kiểm toán thỏa mãn các mục tiêu kiểm toán đã đề ra trong Kế hoạch kiểm toán, Đề cương kiểm toán; những vấn đề sai sót, gian lận, tồn tại của đơn vị được kiểm toán trình bày trong báo cáo đã được xem xét, giải quyết thỏa đáng; các ý kiến nhận xét, đánh giá, kết luận kiểm toán được căn cứ vào những bằng chứng kiểm toán đầy đủ, xác thực và tin cậy, phù hợp với pháp luật hiện hành. Bố cục báo cáo cần trình bày cô đọng, súc tích, logic và rõ ràng. Tại bước 4: Theo dõi, kiểm tra việc thực hiện kiến nghị kiểm toán: Quan tâm công tác theo dõi, đôn đốc thực hiện theo kiến nghị của Kiểm toán nhà nước. Thu thập đầy đủ bằng chứng thực hiện kiến nghị của đơn vị được kiểm toán, kịp thời giải quyết khiếu nại, thắc mắc của đơn vị được kiểm toán nhằm đảm báo các kiến nghị được thực hiện nghiêm túc. Nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả trong công tác kiểm toán. Ngoài ra, cần nâng cao công tác đào tạo bồi dưỡng công chức, kiểm toán viên về kiến thức liên quan đến hoạt động ngân hàng; tập huấn, đào tạo nâng cao nhận thức cho kiểm toán viên hiểu rõ bản chất, nội dung của các chính sách mà Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện. Từ đó, trang bị cho các kiểm toán viên đầy đủ kiến thức, có cách nhìn tổng thể về hoạt động ngân hàng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Alvin A. Arens, James K. Loebbecke (1997). Business & Economics. Prentice Hall; 2. Bradshaw, M. T., Richardson, S. A., & Sloan, R. G. (2001). Do analists and auditors use information in accruals? Journal of Accounting Research, 39(1), 45–74. doi: 10.1111/1475-679x.00003; 3. Báo cáo tài chính của Ngân hàng Chính sách xã hội năm 2014, 2015, 2017; 4. Báo cáo kiểm toán của Kiểm toán nhà nước năm 2015, 2016, 2018; 5. Chen, C. J. P., Su, X., Wu, X., 2005. Abnormal audit fees and the improvement of unfavorable audit opinion. China Accounting and Finance Review 7: 1-28; 6. Đỗ Trung Dũng và Cù Hoàng Diệu (2017), Tăng cường kiểm soát chất lượng kiểm toán nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực kiểm toán ngân sách Bộ, ngành. Đề tài nghiên cứu khoa học Cơ sở , Kiểm toán nhà nước; 7. Francis, J. R. (2004). What do we know about audit quality? The British Accounting Review, 36(4), 345–368. doi:10.1016/j. bar.2004.09.003; 8. John Dunn (1996). Auditing: Theory and Practice Hardcover . Prentice Hall Direct; Subsequent edition (November 1). 9. Krishnan K, J. Raghunandan and V.R. Dasarathe, 2001. Audit committee composition, “Gray directions” and Interaction with internal auditing accounting horizons, 15 : 105; 10. INTOSAI (2004), Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán, Tài liệu dịch, Kiểm toán nhà nước; 11. Quyết định 558/QĐ-KTNN ngày 22/3/2016 Ban hành quy chế kiểm soát chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước; 12. Nguyễn Hữu Phúc (2009), Tổ chức kiểm toán ngân sách nhà nước do Kiểm toán nhà nước Việt Nam thực hiện, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Hà Nội; 13. Vũ Thị Thu Huyền (2019), Hoàn thiện công tác kiểm toán hoạt động chi tiêu ngân sách của các bộ, ngành. Tạp chí Tài chính. http:// tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/ hoan-thien-cong-tac-kiem-toan-hoat- dong-chi-tieu-ngan-sach-cua-cac-bo- nganh-302166.html; 14. Vương Văn Quang chủ nhiệm (2013), Hoàn thiện Quy chế kiểm soát chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
File đính kèm:
- nang_cao_chat_luong_kiem_toan_ngan_hang_chinh_sach_xa_hoi_cu.pdf