Mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế

Bài viết này nhằm xác định mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS)

và chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS/IFRS) liên quan đến 10 chuẩn mực kế toán chủ yếu có ảnh

hưởng quan trọng đến báo cáo tài chính. Kết quả phân tích cho thấy mức độ hài hòa bình quân

là 68%. Mức độ hài hòa về mặt đo lường (81,2%) cao hơn nhiều so với mức độ hài hòa về mặt

khai báo thông tin (57%). Mức độ hài hòa của các chuẩn mực liên quan đến doanh thu và chi

phí cao hơn các chuẩn mực liên quan đến tài sản. Như vậy, tồn tại một khoảng cách đáng kể

giữa IAS/IFRS và VAS, đặc biệt là vấn đề khai báo thông tin. Nguyên nhân chủ yếu là VAS

không có những điều chỉnh cần thiết để bắt kịp những thay đổi căn bản của IAS/IFRS; có sự

khác nhau đáng kể về cơ sở đo lường giữa IAS/IFRS và VAS; và IAS/IFRS yêu cầu khai báo

thông tin nhiều hơn VAS.

pdf 10 trang kimcuc 8760
Bạn đang xem tài liệu "Mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế

Mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 155
MỨC ĐỘ HÀI HÒA GIỮA CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM 
VÀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ 
DE-JURE CONVERGENCE BETWEEN VIETNAMESE AND INTERNATIONAL 
ACCOUNTING STANDARDS 
Phạm Hoài Hương 
Trường Đại học Kinh tế 
TÓM TẮT 
Bài viết này nhằm xác định mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) 
và chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS/IFRS) liên quan đến 10 chuẩn mực kế toán chủ yếu có ảnh 
hưởng quan trọng đến báo cáo tài chính. Kết quả phân tích cho thấy mức độ hài hòa bình quân 
là 68%. Mức độ hài hòa về mặt đo lường (81,2%) cao hơn nhiều so với mức độ hài hòa về mặt 
khai báo thông tin (57%). Mức độ hài hòa của các chuẩn mực liên quan đến doanh thu và chi 
phí cao hơn các chuẩn mực liên quan đến tài sản. Như vậy, tồn tại một khoảng cách đáng kể 
giữa IAS/IFRS và VAS, đặc biệt là vấn đề khai báo thông tin. Nguyên nhân chủ yếu là VAS 
không có những điều chỉnh cần thiết để bắt kịp những thay đổi căn bản của IAS/IFRS; có sự 
khác nhau đáng kể về cơ sở đo lường giữa IAS/IFRS và VAS; và IAS/IFRS yêu cầu khai báo 
thông tin nhiều hơn VAS. 
ABSTRACT 
This study deals with the extent of de-jure (accounting rules) convergence of 
Vietnamese Accounting Standards (VAS) and International Accounting Standards (IAS/IFRS) 
on ten key accounting standards. Analytical results show that the overall level of de-jure 
convergence of VAS and IAS/IFRS for the ten key standards is lower than expected. The rate of 
overall de-jure convergence is 68%. This is broken down into its two components -- the 
measurement of de-jure convergence is at a higher rate (81.2%); whereas, the disclosure of de-
jure convergence is at a far lower rate (57%). Further analyses reveal that revenue and expense 
standards have a higher overall level of de-jure convergence than asset standards. The main 
reason is that VAS shows divergence with their internationally-accepted equivalents, especially 
in respect to disclosure issues. 
1. Xu hướng hội nhập với IAS/IFRS và sự cần thiết của nghiên cứu sự hài hòa giữa 
VAS và IAS/IFRS 
Sự toàn cầu hóa thị trường vốn tác động mạnh đến quá trình hội nhập quốc tế về 
chuẩn mực kế toán. Nhằm đẩy mạnh quá trình hội nhập kế toán, vào năm 2001 Ban 
chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) được thành lập dựa trên nền tảng của Ủy ban chuẩn 
mực kế toán quốc tế IASC nhưng với một cơ cấu tổ chức chặt chẽ và độc lập hơn (Ball 
2006; Deegan 2009). Mục tiêu của IASB là “hình thành một hệ thống chuẩn mực kế 
toán phục vụ cho lợi ích chung, chất lượng cao, dễ hiểu và có thể áp dụng trên toàn thế 
giới; và yêu cầu thông tin trên báo cáo tài chính phải rõ ràng, có thể so sánh nhằm giúp 
những người tham gia vào các thị trường vốn khác nhau trên thế giới cũng như các đối 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 156 
tượng sử dụng thông tin khác ra quyết định kinh tế” và “mang lại sự hội nhập giữa các 
hệ thống chuẩn mực quốc gia và IFRS” (IASB 2010, A 16). Từ năm 2005 nhiều nước 
trên thế giới đã sử dụng IAS/IFRS, mở đầu là khối liên minh Châu Âu, tiếp theo là Úc. 
Đến nay hơn 100 nước trên thế giới đã sử dụng IAS/IFRS (Deegan 2009). Tuy nhiên, 
một số nước hòa nhập với IAS/IFRS chậm hơn (Ball 2009). Đối với những nước này 
(chẳng hạn như Việt Nam), lợi ích của việc vận dụng IAS/IFRS vẫn còn chưa rõ ràng 
(Daske et al. 2008). 
 Có nhiều ý kiến ủng hộ cho việc sử dụng IAS/IFRS. Jones và Belkaoui (2010) 
cho rằng việc sử dụng IAS/IFRS mang lại nhiều lợi ích. Thứ nhất, các nước sử dụng 
IAS/IFRS có thể tiết kiệm chi phí soạn thảo chuẩn mực và nhanh chóng hòa nhập vào 
chuẩn mực kế toán quốc tế được chấp nhận. Thứ hai, hệ thống chuẩn mực được chấp 
nhận trên tầm quốc tế cần thiết cho sự quốc tế hóa nền kinh tế thế giới với mức độ ngày 
càng gia tăng. Thứ ba, sự hội nhập về kế toán giúp cho các công ty huy động vốn trên 
thị trường quốc tế. Ball (2006) cho rằng sử dụng IAS/IFRS giúp cải thiện tính so sánh 
của thông tin báo cáo tài chính và do đó giảm chi phí và rủi ro sử dụng thông tin của các 
nhà đầu tư. Ngoài ra, sử dụng IAS/IFRS làm tăng tính rõ ràng của thông tin trên báo cáo 
tài chính, làm cho các nhà quản lý phải hành động vì lợi ích của cổ đông, và bảo vệ lợi 
ích của người cho vay. 
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng phương pháp xây dựng chuẩn mực kế toán của 
IASB về cơ bản là theo mô hình Anglo-America, do đó có thể không phù hợp với các 
nước đang phát triển vì có sự khác biệt lớn về văn hóa và môi trường kinh tế giữa các 
nước phát triển và các nước đang phát triển (Prather-Kinsey 2006). Ding, Jeanjean và 
Stolowy (2005) chứng minh rằng yếu tố văn hóa có ảnh hưởng đáng kể đến sự khác biệt 
giữa chuẩn mực kế toán quốc gia và quốc tế. Theo Carmona and Trombetta (2008), 
IAS/IFRS dựa trên nguyên tắc (principle-based IAS/IFRS) có tính linh hoạt cao nên khó 
vận dụng vào hoàn cảnh các nước đang phát triển. Chẳng hạn như, các nước đang phát 
triển khó có thể áp dụng phương pháp dựa trên thị trường (market-base) để ước tính giá 
trị hợp lý do thiếu một thị trường phát triển. 
 Nhiều nước đang phát triển có xu hướng tiếp cận với IAS/IFRS theo những cách 
khác nhau mặc dù có nhiều ý kiến lo ngại về tính thích hợp của IAS/IFRS đối với các 
nước này. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó. Từ năm 2001 cho đến 
nay Việt Nam đã ban hành 26 VAS về cơ bản dựa trên các IAS/IFRS tương đương đã 
được ban hành đến năm 2003 (Point of view 2009). Đây là một bước ngoặc quan trọng 
trong quá trình cải cách hệ thống kế toán Việt Nam. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện tại, 
VAS đạt được bao nhiêu phần trăm mức độ hài hòa với IAS/IFRS là một câu hỏi cần 
được trả lời. 
 Bài viết này nhằm xác định mức độ hài hòa giữa VAS và IAS/IFRS liên quan 
đến 10 chuẩn mực kế toán chủ yếu. Mức độ hài hòa được xác định chung và riêng biệt 
cho từng yếu tố: đo lường và khai báo thông tin. Đây là một nghiên cứu cần thiết cho 
một nước chưa áp dụng IAS/IFRS một cách trọn vẹn như Việt Nam. Kết quả nghiên 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 157
cứu cho biết Việt Nam có đạt được mức độ hài hòa với IAS/IFRS như mục tiêu1 đề ra 
không; và chỉ ra những khác biệt cơ bản giữa VAS và IAS/IFRS cần được điều chỉnh 
nhằm cải thiện mức độ hài hòa với IAS/IFRS. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu góp phần 
giúp IASB nhận biết những chuẩn mực khó đạt được mức độ chấp nhận cao đối với các 
nước đang phát triển, từ đó có những điều chỉnh thích hợp nhằm tăng cường mức độ 
chấp nhận IAS/IFRS trên toàn thế giới. 
2. Các chuẩn mực kế toán được lựa chọn để nghiên cứu mức độ hài hòa giữa VAS 
và IAS/IFRS 
Các chuẩn mực kế toán Việt Nam và quốc tế tương ứng có hiệu lực cho việc lập 
báo cáo tài chính năm 2009 được sử dụng để phân tích so sánh. 10 chuẩn mực mực kế 
toán (xem Bảng 1) có ảnh hưởng quan trọng đến đo lường tài sản và lợi nhuận; và đề 
cập đến cả 2 khía cạnh đo lường và khai báo thông tin được chọn để đánh giá mức độ 
hài hòa giữa VAS và IAS/IFRS trong bài viết này. Những vấn đề liên quan đến kế toán 
hàng tồn kho, tài sản cố định và các khoản đầu tư thường được chọn để đánh giá sự hài 
hòa về kế toán vì những vấn đề này có ảnh hưởng quan trọng đến báo cáo tài chính 
(Emenyonu and Gray 1992; Emenyonu and Adhikari 1998; Setyadi et al. 2008). Phạm 
vi các vấn đề được đề cập trong bài viết này rộng hơn, bao gồm cả các vấn đề liên quan 
đến kế toán doanh thu và chi phí nhằm phân tích sự hài hòa giữa VAS và IAS/IFRS một 
cách đầy đủ trên cả 2 khía cạnh: Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả hoạt động 
kinh doanh. 10 chuẩn mực được chọn để nghiên cứu là những chuẩn mực được ban 
hành ở 3 đợt ban hành chuẩn mực kế toán đầu tiên ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-
2003, chứng tỏ tầm quan trọng của các chuẩn mực này đối với báo cáo tài chính của các 
doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, từ khi ban hành cho đến nay các chuẩn mực này 
chưa hề được điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi của môi trường luật pháp và 
kinh tế xã hội, cũng như để bắt kịp với những thay đổi của IAS/IFRS. Đây cũng là một 
lý do cho sự lựa chọn các chuẩn mức này để đánh giá mức độ hài hòa với IAS/IFRS 
tương ứng có hiệu lực cho việc lập báo cáo tài chính trong năm 2009. 
Bảng 1: 10 chuẩn mực kế toán chủ yếu 
Tên chuẩn mực2 
IAS/IFRS 
(năm ban hành, sửa đổi, 
bổ sung) 
VAS 
(năm ban hành)
Hàng tồn kho IAS 2 (1974, 1993, 2003) VAS 2 (2001) 
Tài sản cố định hữu hình IAS 16 (1982, 1993,2003, 2008) VAS 3 (2001) 
Thuê tài sản IAS 17 (1982, 1997, 2003, VAS 6 (2002) 
1 Theo phát biểu của ông Bùi Văn Mai (vụ trưởng Vụ Kế toán của Bộ tài chính), Việt Nam cam kết với 
Liên đoàn kế toán quốc tế (IFA) đạt 90% mức độ hài hòa với IAS/IFRS vào năm 2005 (Vnexpress 2003). 
2 Dùng chính xác tên của các chuẩn mực kế toán Việt Nam. Tên các chuẩn mực kế toán quốc tế tương ứng 
có thể không hoàn toàn trùng khớp với tên của các chuẩn mực kế toán Việt Nam. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 158 
2009) 
Doanh thu và thu nhập khác 
IAS 18 (1982, 1993, 1998, 
2009) 
VAS 14 (2001) 
Ảnh hưởng của việc thay đổi tỉ giá 
hối đoái 
IAS 21 (1983, 1993, 2003, 
2008) 
VAS 10 (2002) 
Chi phí đi vay IAS 23 (1984, 1993, 2007, 
2008) 
VAS 16 (2002) 
Kế toán các khoản đầu tư vào công 
ty liên kết 
IAS 28 (1989, 1998, 2000, 2003, 
2008, 2008) 
VAS 7 (2003) 
Thông tin tài chính về các khoản 
vốn góp liên doanh 
IAS 31 (1990, 1998, 2003, 
2008) 
VAS 8 (2003) 
Tài sản cố định hữu hình IAS 38 (1978, 1993, 1998, 2004, 
2008, 2009) 
VAS 4 (2001) 
Bất động sản đầu tư IAS 40 (1986, 2000, 2003, 
2008) 
VAS 5 (2003) 
3. Phương pháp xác định mức độ hài hòa giữa VAS và IAS/IFRS 
Mức độ hài hòa giữa VAS và IAS/IFRS được đánh giá riêng theo từng khía cạnh 
đo lường và khai báo cho phép tìm hiểu một cách sâu sắc sự khác nhau giữa 2 hệ thống 
chuẩn mực kế toán (Rahman, Perera, and Ganeshanandam 1996). Hơn nữa, đo lường và 
khai báo là 2 vấn đề khác nhau về bản chất. Chuẩn mực kế toán liên quan đến đo lường 
ảnh hưởng đến các con số được trình bày trên báo cáo tài chính, từ đó ảnh hưởng đến 
tính ‘tin cậy’ và ‘liên quan’ của thông tin kế toán. Trong khi đó, chuẩn mực kế toán liên 
quan đến khai báo thông tin ảnh hưởng đến tính ‘rõ ràng’ và ‘dễ hiểu’ của thông tin 
kế toán. 
Trong bài viết này, mức độ hài hòa giữa VAS và IAS/IFRS được định lượng 
thông qua các chỉ số hài hòa về mặt đo lường (M-DJCS), khai báo thông tin (D-DJCS) 
và tổng hợp (O-DJCS). Các chỉ số này không chỉ phản ánh mức độ ‘hoàn toàn giống 
nhau’ của các qui định kế toán giữa 2 hệ thống chuẩn mực như các nghiên cứu trước 
đây (chẳng hạn như Rahman, Perera, và Ganeshanandam (1996, 2002)), mà còn định 
lượng mức độ hài hòa trong các trường hợp phương pháp xử lý liên quan đến cùng một 
vấn đề kế toán nào đó không hoàn toàn giống và cũng không hoàn toàn khác nhau giữa 
VAS và IAS/IFRS. Như vậy, các chỉ số DJCS dao động từ 0% đến 100%. 0% thể hiện 
sự khác nhau hoàn toàn giữa VAS và IAS/IFRS và 100% thể hiện sự giống nhau hoàn 
toàn giữa VAS và IAS/IFRS. 
Các bước xác định DJCS được thực hiện như sau: 
- Mỗi chuẩn mực được phân tích thành các mục (vấn đề) chính. Trên cơ cở đó so 
sánh VAS với IAS/IFRS theo từng mục. 
- Thang đánh giá từ 0 đến 1 được dùng để đánh giá mức độ giống nhau giữa 
VAS và IAS/IFRS cho từng mục (sub-score). ‘0’ thể hiện sự khác nhau hoàn toàn, trong 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 159
khi ‘1’ thể hiện sự giống nhau hoàn toàn. Trong trường hợp phương pháp xử lý liên 
quan đến cùng một vấn đề kế toán không hoàn toàn giống và cũng không hoàn toàn 
khác nhau giữa VAS và IAS/IFRS thì mực độ hài hòa được đánh giá là một giá trị 
nằm trong khoảng (0;1). Để định lượng mức độ giống nhau cho từng mục một cách hợp 
lý, mỗi mục được phân tích thành các tiểu mục (nếu có thể), khi đó mức độ giống nhau 
của từng mục (sub-score) được tính bằng tỉ lệ các tiểu mục giống nhau giữa VAS và 
IAS/IFRS. 
- Các chỉ số phản ánh mức độ hài hòa về đo lường, khai báo thông tin và tổng 
hợp được xác định cho từng chuẩn mực như sau: 
Tổng số mục tối đa của chuẩn mực bao gồm tổng số các mục được đề cập ở cả 
VAS và IAS/IFRS, các mục chỉ được đề cập ở VAS, và các mục chỉ được đề cập ở 
IAS/IFRS. 
4. Kết quả nghiên cứu 
Kết quả nghiên cứu (xem bảng 2) cho thấy mức độ hài hòa của VAS với 
IAS/IFRS liên quan đến 10 chuẩn mực được nghiên cứu biến động trong khoảng từ 
14,3% đến 87,5%, mức bình quân là 68%. Các chuẩn mực về doanh thu và chi phí có 
mức độ hài hòa cao hơn các chuẩn mực về tài sản. Cụ thể, các chuẩn mực “Doanh thu 
và thu nhập khác” và “Chi phí lãi vay” cùng có mức độ hài hòa cao nhất (87,5%), 
trong khi chuẩn mực “Kế toán các khoản đầu tư vào công ty liên kết” có mức độ hài 
hòa thấp nhất (14,3%). Các chuẩn mực như “Tài sản cố định vô hình”, “Thông tin tài 
chính về các khoản vốn góp liên doanh” và “Ảnh hưởng của việc thay đổi tỉ giá hối 
đoái” có mức độ hài hòa thấp hơn mức trung bình. Mức độ hài hòa bình quân về đo 
lường (81.2%) cao hơn nhiều so với mức độ hài hòa bình quân về khai báo thông 
tin (57%). 
Bảng 2: Mức độ hài hòa giữa VAS và IAS/IFRS 
O-DJCS = 
Tổng sub-score của các mục thuộc chuẩn mực 
Tổng số mục tối đa thuộc chuẩn mực 
D-DJCS = 
Tổng sub-score của các mục khai báo thông tin thuộc chuẩn mực 
Tổng số mục tối đa thuộc về khai báo thông tin của chuẩn mực 
M-DJCS = 
Tổng sub-score của các mục đo lường thuộc chuẩn mực 
Tổng số mục tối đa thuộc về đo lường của chuẩn mực 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 160 
Chuẩn mực O-DJCS (%) 
M-DJCS 
(%) 
D-DJCS 
(%) 
Doanh thu và thu nhập khác 87,5 100,0 75,0 
Chi phí lãi vay 87,5 100,0 66,7 
Thuê tài sản 85,5 97,2 59,2 
Tài sản cố định hữu hình 80,3 78,1 81,8 
Bất động sản đầu tư 72,7 80,0 66,7 
Hàng tồn kho 70,0 75,0 66,7 
Thông tin tài chính về các khoản vốn góp liên 
doanh 66,7 75,0 60,0 
Ảnh hưởng của việc thay đổi tỉ giá hối đoái 57,7 90,0 37,5 
Tài sản cố định vô hình 57,4 66,9 52,9 
Kế toán các khoản đầu tư vào công ty liên kết 14,3 50,0 8,3 
Trung bình 68,0 81,2 57,0 
Thấp nhất 14,3 50,0 8,3 
Cao nhất 87,5 100,0 81,8 
Hầu hết các chuẩn mực đều có mức độ hài hòa về đo lường cao hơn mức độ hài 
hòa về khai báo thông tin, ngoại trừ chuẩn mực “Tài sản cố định hữu hình”. Các chuẩn 
mực “Doanh thu và thu nhập khác” và “Chi phí lãi vay” mặc dù đạt mức độ hài hòa tối 
đa về đo lường nhưng sự hài hòa về khai báo thông tin chỉ đạt ở mức khiêm tốn. Các 
chuẩn mực như “Đầu tư vào công ty liên kết”, “Ảnh hưởng của việc thay đổi tỉ giá hối 
đoái” và “Thuê tài chính” cũng có sự chênh lệch đáng kể giữa mức độ hài hòa về đo 
lường và khai báo thông tin. 
Chuẩn mực “Kế toán các khoản đầu tư vào công ty liên kết” có mức độ hài hòa 
thấp nhất cả về đo lường (50%) và khai báo thông tin (8.3%). Nguyên nhân của sự khác 
biệt này là do VAS 7 được biên soạn dựa trên IAS 28 với tên gọi “Kế toán các khoản 
đầu tư vào công ty liên kết” đã được sửa đổi vào năm 2000. Tuy nhiên, vào năm 2003 
IASB ban hành lại IAS 28 với tên gọi mới “Đầu tư vào công ty liên kết” và có sự thay 
đổi đáng kể về nội dung so với IAS 28 trước đây. Sau đó, IAS 28 tiếp tục được sửa đổi 
cho phù hợp với những thay đổi của các IAS liên quan và IFRS mới ban hành. Trong 
khi đó, VAS 7 không được cập nhật những thay đổi căn bản của IAS 28, dẫn đến sự 
khác biệt đáng kể giữa VAS 7 và IAS 28. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy các chuẩn mực về tài sản cố định và đầu tư có mức 
độ hài hòa về đo lương thấp hơn so với mức trung bình. Giữa VAS và IAS/IFRS có sự 
khác nhau cơ bản về cơ sở đo lường giá trị tài sản: VAS chủ yếu sử dụng giá gốc để đo 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 161
lường giá trị tài sản, trong khi đó IAS/IFRS cho phép sử dụng giá gốc hoặc giá trị hợp 
lý. Chẳng hạn như IAS cho phép sử dụng phương pháp giá gốc hoặc phương pháp đánh 
giá lại để đo lường giá trị tài sản cố định và bất động sản đầu tư sau khi ghi nhận ban 
đầu; hoặc là IAS/IFRS qui định các khoản đầu tư vào công ty liên kết hoặc liên doanh 
được nắm giữ để bán thì phải được đo lường theo giá trị hợp lý. Chuẩn mực “Hàng tồn 
kho” cũng có mức độ hài hòa về đo lường thấp hơn so với mức bình quân. Sự khác nhau 
cơ bản giữa VAS 2 và IAS 2 về đo lường giá trị hàng tồn kho là IAS 2 cho phép sử 
dụng các phương pháp ước tính giá trị hàng tồn kho như phương pháp chi phí định mức 
hoặc phương pháp giá bán lẻ, nhưng vấn đề này không được đề cập ở VAS 2. Ngoài ra, 
VAS 2 cho phép sử dụng phương pháp nhập sau – xuất trước để tính giá hàng tồn kho, 
nhưng IAS 2 không cho phép sử dụng phương pháp này. 
Để xác định nguyên nhân dẫn đến sự hài hòa về khai báo thông tin ở mức độ thấp, 
phân tích sâu hơn sự hài hòa về khai báo thông tin (xem bảng 3) cho thấy IAS/IFRS yêu 
cầu khai báo thông tin nhiều hơn so với VAS ở phần lớn các chuẩn mực; ngoại trừ các 
chuẩn mực “Doanh thu và thu nhập khác” và “Chi phí lãi vay” cho thấy sự khác nhau 
giữa VAS và IAS/IFRS hoàn toàn do VAS yêu cầu khai báo thông tin nhiều hơn. 
Bảng 3: Phân tích sự hài hòa về khai báo thông tin 
Chuẩn mực D-DJCS (%) 
IAS/IFRS-
score (%) 
VAS-score 
(%) 
TSCĐ hữu hình 81,8 18,2 0 
Doanh thu và thu nhập khác 75,0 0 25,0 
Chi phí lãi vay 66,7 0 33,3 
Hàng tồn kho 66,7 22,2 11,1 
Bất động sản đầu tư 66,7 16,65 16,65 
Thông tin tài chính về các khoản vốn 
góp liên doanh 
60,0 40,0 0 
Thuê tài sản 59,2 40,8 0 
TSCĐ vô hình 52,9 23,55 23,55 
Ảnh hưởng của việc thay đổi tỉ giá hối 
đoái 
37,5 37,5 25,0 
Đầu tư vào công ty liên kết 8,3 75,0 16,7 
Ghi chú: IAS/IFRS-score thể hiện mức độ thông tin được yêu cầu khai báo bởi 
IAS/IFRS nhưng không được yêu cầu bởi VAS tương ứng. Ngược lại, VAS-score thể 
hiện mức độ thông tin được yêu cầu khai báo bởi VAS nhưng không được yêu cầu bởi 
IAS/IFRS tương ứng. 
5. Kết luận 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 162 
Mức độ hài hòa giữa VAS và IAS/IFRS của 10 chuẩn mực được nghiên cứu thấp 
hơn so với mục tiêu đề ra là 90% (theo phát biểu của ông Bùi Văn Mai – vụ trưởng Vụ Kế 
toán của Bộ tài chính trong một phỏng vấn của báo Vnexpress). Các chuẩn mực liên quan 
đến doanh thu và chi phí có mức độ hài hòa cao hơn các chuẩn mực liên quan đến tài sản. 
Mức độ hài hòa về đo lường cao hơn hài hòa về khai báo thông tin. Kết quả nghiên cứu có 
thể được giải thích bởi 3 lý do chính. Thứ nhất, VAS về cơ bản được soạn thảo dựa trên 
các IAS/IFRS tương ứng được ban hành đến năm 2003, nhưng sau đó không được cập 
nhật những sửa đổi của IAS liên quan và IFRS mới được ban hành sau năm 2003. Điều 
này dẫn đến khoảng cách giữa IAS/IFRS và VAS ngày càng tăng. Thứ 2, IAS/IFRS ngày 
càng hướng tới đo lường tài sản dựa trên cơ sở giá trị hợp lý nhằm đảm bảo tính ‘liên 
quan’ của thông tin kế toán đối với các đối tượng sử dụng, trong khi đó giá gốc vẫn là cơ 
sở đo lường chủ yếu được qui định bởi VAS. Điều này làm cho các chuẩn mực liên quan 
đến tài sản có mức độ hài hòa về đo lương thấp. Thứ 3, IAS/IFRS cho phép sử dụng xét 
đoán và ước tính nhiều hơn so với VAS, dẫn đến IAS/IFRS yêu cầu khai báo thông tin 
liên quan đến sử dụng xét đoán và ước tính nhiều hơn. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa VAS và IAS/IFRS, đặc 
biệt là vấn đề khai báo thông tin. Điều này gây ra sự lo ngại là báo cáo tài chính được lập 
theo VAS có thể không đáp ứng được nhu cầu thông tin ở mức độ hợp lý để có thể ra 
quyết định của các đối tượng liên quan. Ngoài ra, việc sử dụng giá gốc làm cơ sở đo 
lường chủ yếu có thể đảm bảo độ ‘tin cậy’ nhưng làm giảm tính ‘liên quan’ của thông tin 
được cung cấp bởi báo cáo tài chính. Do đó, Việt Nam cần cải thiện hệ thống chuẩn mực 
kế toán để tăng cường mức độ hài hòa với IAS/IFRS nếu muốn tăng cường khả năng cạnh 
tranh trên thị trường tài chính quốc tế. Để tiến tới vận dụng IAS/IFRS một cách đầy đủ, 
Việt Nam cần từng bước hoàn thiện môi trường kinh tế và luật pháp phù hợp với yêu cầu 
của IAS/IFRS. Chẳng hạn như thị trường giao dịch tài sản cần phải ‘minh bạch’ và ‘hoạt 
động’ để có thể sử dụng giá trị hợp lý làm cơ sở đo lường giá trị tài sản. 
Trong khuôn khổ bài viết này, kết quả nghiên cứu về sự hài hòa giữa VAS và 
IAS/IFRS chỉ giới hạn trong 10 chuẩn mực chủ yếu có ảnh hưởng quan trọng đến báo 
cáo tài chính ở Việt Nam. Tuy nhiên, nếu phạm vi nghiên cứu được mở rộng ra toàn bộ 
các chuẩn mực kế toán hiện có thì mức độ hài hòa giữa VAS và IAS/IFRS sẽ đánh giá 
một cách đầy đủ hơn. Bài viết cũng chỉ đề cập sự hài hòa về qui định kế toán giữa VAS 
và IAS/IFRS. Mức độ hài hòa với IAS/IFRS trong thực tiễn công tác lập báo cáo tài 
chính của các doanh nghiệp ở Việt Nam còn phụ thuộc vào mức độ tuân thủ chuẩn mực 
kế toán trong công tác lập báo cáo tài chính. Tuy nhiên, nghiên cứu sự hài hòa về qui 
định kế toán giữa VAS và IAS/IFRS cung cấp nền tảng cần thiết cho nghiên cứu sự hài 
hòa với IAS/IFRS trong thực tế vận dụng chuẩn mực kế toán lập báo tài chính của các 
doanh nghiệp ở Việt Nam. Đồng thời, nghiên cứu sự hài hòa về qui định kế toán giữa 
VAS và IAS/IFRS sẽ có ý nghĩa hơn nếu sự hài hòa với IAS/IFRS trong thực tế vận 
dụng chuẩn mực kế toán lập báo tài chính của các doanh nghiệp ở Việt Nam được 
nghiên cứu tiếp theo. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 163
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Ball, R. 2006. International Financial Reporting Standards (IFRS): Pros and Cons 
for Investors. Accounting & Business Research 36 (Special Issue: International 
Accounting Policy Forum): 5-27. 
=ehost-live (accessed April 19, 2010). 
[2] Carmona, S., and M. Trombetta. 2008. On the Global Acceptance of IAS/IFRS 
Accounting Standards: The Logic and Implications of the Principles-based System. 
Journal of Accounting and Public Policy 27 (6): 455-461. 
1/2/9d29d760c77f4dc1f3668d84033ba4d9 (accessed April 16, 2010). 
[3] Daske, H., L. Hail, C. Leuz, and R. Verdi. 2008. Mandatory IFRS Reporting 
around the World: Early Evidence on the Economic Consequences. Journal of 
Accounting Research 46 (5): 1085-1142. 
&clientId=22212&RQT=309&VName=PQD (accessed April 17, 2010). 
[4] Deegan, C. 2009. Financial Accounting Theory. 3rd ed. Sydney: McGraw-Hill 
Australia Pty Ltd. 
[5] Ding, Y., T. Jeanjean, and H. Stolowy. 2005. Why Do National GAAP Differ from 
IAS? The Role of Culture. The International Journal of Accounting 40 (4): 325-
350. 
2/2/d4b4b083a3500e220c2f19e65ae72699 (accessed April 22, 2010). 
[6] Emenyonu, E. N., and A. Adhikari. 1998. Measuring the Degree of International 
Harmony in Selected Accounting Measurement Practices. Australian Accounting 
Review 8 (2): 24-32. 
ientId=22212&RQT=309&VName=PQD (accessed April 17, 2010). 
[7] Emenyonu, E. N., and S. J. Gray. 1992. EC Accounting Harmonisation: An 
Empirical Study of Measurement Practices in France, Germaney and the UK. 
Accounting and Business Research 23 (89): 49-58. 
[8] IASB. 2010. Preface to International Financial Reporting Standards. 
 (accessed May 02, 2010). 
[9] Jones, S., and A. R. Belkaoui. 2010. Financial accounting theory. Melbourne: 
Cengage Learning. Point of view. 2009. www.iasplus.com (accessed April 2, 
2010). 
[10] Prather-Kinsey, J. 2006. Developing countries converging with developed-country 
accounting standards: Evidence from South Africa and Mexico. The International 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 
 164 
Journal of Accounting 41 (2): 141-162. 
1/2/38d7136adf8eebbeb4c39c49ac5974e6 (accessed April 22, 2010). 
[11] Rahman, A., H. Perera, and S. Ganeshanandam. 1996. Measurement of Formal 
Harmonisation in Accounting: An Exploratory Study. Accounting & Business 
Research 26 (4): 325-339. 
=ehost-live (accessed April 15, 2010). 
 --------. 2002. Accounting Practice Harmony, Accounting Regulation and Firm 
Characteristics. Abacus 38 (1): 46-77.  
(accessed April 17, 2010). 
[12] Setyadi, A., Rusmin, G. Tower, and A. Brown. 2008. Variance in Indonesian 
Companies' Compliance of Financial Reporting. In Accounting and Finance 
Association of Australia and New Zealand Conference. Sydney, Australia. 
[13] Vnexpress. 2003. Kế toán Việt Nam tiến gần các chuẩn mực quốc tế. 
 (accessed 22 August 
2010). 

File đính kèm:

  • pdfmuc_do_hai_hoa_giua_chuan_muc_ke_toan_viet_nam_va_chuan_muc.pdf