Một vài đề xuất về phương pháp rèn luyện kỹ năng viết trong việc dạy và học môn tiếng Pháp cho học viên, sinh viên học ngoại ngữ 2 tại Học viện Khoa học quân sự

heo từ điển Larousse Savoir rédiger (1997):

“Viết, đó là sử dụng bút chì hoặc bút mực, hay

bất cứ một phương tiện nào, đánh dấu lên một vật

trung gian (thường là giấy) những ký hiệu, những

từ của một ngôn ngữ nào đó, được cấu thành hoàn

chỉnh nhằm truyền tải một thông điệp cụ thể”.

Theo Danielle Bailly trong bài viết “Viết là gì

và để làm gì?”, những điều kiện cần thiết để viết,

đó là có cái gì để viết, biết người viết đang muốn

hướng tới ai và vì sao. Đối với hoạt động viết,

người viết và người nhận thông điệp không đối

diện trực tiếp với nhau mà thông quan vật trung

gian là giấy hay màn hình, nhưng đó luôn được coi

là một hoạt động giao tiếp.

Trong bài báo “Những khó khăn trong việc

học viết”, Godelieve Debeurme đã nêu quan điểm

về Viết như sau: “Viết là một hoạt động mà mục

tiêu hàng đầu đó là tạo nghĩa. Đó là một quá trình

mang tính tổng quan và đầy phức tạp, không chỉ

dừng lại ở viết chính tả mà còn là tập hợp những

kiến thức thuộc các trình độ khác nhau thành một

thể thống nhất, từ đó đạt đến được mục đích giải

quyết được một vấn đề”.

pdf 6 trang kimcuc 6400
Bạn đang xem tài liệu "Một vài đề xuất về phương pháp rèn luyện kỹ năng viết trong việc dạy và học môn tiếng Pháp cho học viên, sinh viên học ngoại ngữ 2 tại Học viện Khoa học quân sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một vài đề xuất về phương pháp rèn luyện kỹ năng viết trong việc dạy và học môn tiếng Pháp cho học viên, sinh viên học ngoại ngữ 2 tại Học viện Khoa học quân sự

Một vài đề xuất về phương pháp rèn luyện kỹ năng viết trong việc dạy và học môn tiếng Pháp cho học viên, sinh viên học ngoại ngữ 2 tại Học viện Khoa học quân sự
35KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
MỘT VÀI ĐỀ XUẤT VỀ PHƯƠNG PHÁP 
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT TRONG VIỆC DẠY 
VÀ HỌC MÔN TIẾNG PHÁP CHO HỌC VIÊN, 
SINH VIÊN HỌC NGOẠI NGỮ 2 
TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ
NGUYỄN KHÁNH HIỆP*
*Học viện Khoa học Quân sự, ✉ battienchesach@gmail.com
Ngày nhận bài: 30/10/2017; ngày hoàn thiện: 10/11/2017; ngày duyệt đăng: 15/11/2017 
TÓM TẮT 
Viết là một hoạt động truyền tín hiệu thông tin và luôn giữ một vị trí quan trọng trong các hoạt 
động giao tiếp. Trong việc dạy và học ngoại ngữ, viết được coi là thước đo đánh giá tính tự lập và 
sáng tạo của người học, đồng thời giúp người dạy kiểm soát được mức độ tiếp thu của người học. 
Vì vậy, việc rèn luyện kỹ năng viết cho người học ngoại ngữ nói chung và cho học viên, sinh viên 
học ngoại ngữ 2 tiếng Pháp tại Học viện Khoa học Quân sự nói riêng là cần thiết.
Từ khóa: kỹ năng viết, Học viện Khoa học Quân sự, tiếng Pháp
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong quá nghiên cứu tiếp thu một ngoại ngữ, 
cả giảng viên và học viên, sinh viên đều nhận thấy 
rằng, kỹ năng viết là một trong những kỹ năng 
khó. Sở dĩ như vậy vì đây là một hoạt động mang 
tính chủ quan, chứa đựng rất nhiều nhân tố có ảnh 
hưởng tới việc diễn đạt viết như kinh nghiệm thực 
tiễn, môi trường phát triển, quá trình tích lũy kiến 
thức của người học và sự chỉ dẫn hợp lý của người 
dạy. Do đó, để nâng cao được khả năng viết thì 
cần sự nỗ lực rất lớn của cả người dạy cũng như 
người học.
2. VIẾT VÀ KỸ NĂNG VIẾT
Theo từ điển Larousse Savoir rédiger (1997): 
“Viết, đó là sử dụng bút chì hoặc bút mực, hay 
bất cứ một phương tiện nào, đánh dấu lên một vật 
trung gian (thường là giấy) những ký hiệu, những 
từ của một ngôn ngữ nào đó, được cấu thành hoàn 
chỉnh nhằm truyền tải một thông điệp cụ thể”.
36 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
Theo Danielle Bailly trong bài viết “Viết là gì 
và để làm gì?”, những điều kiện cần thiết để viết, 
đó là có cái gì để viết, biết người viết đang muốn 
hướng tới ai và vì sao. Đối với hoạt động viết, 
người viết và người nhận thông điệp không đối 
diện trực tiếp với nhau mà thông quan vật trung 
gian là giấy hay màn hình, nhưng đó luôn được coi 
là một hoạt động giao tiếp.
Trong bài báo “Những khó khăn trong việc 
học viết”, Godelieve Debeurme đã nêu quan điểm 
về Viết như sau: “Viết là một hoạt động mà mục 
tiêu hàng đầu đó là tạo nghĩa. Đó là một quá trình 
mang tính tổng quan và đầy phức tạp, không chỉ 
dừng lại ở viết chính tả mà còn là tập hợp những 
kiến thức thuộc các trình độ khác nhau thành một 
thể thống nhất, từ đó đạt đến được mục đích giải 
quyết được một vấn đề”.
Từ những định nghĩa trên, có thể đưa ra khái 
niệm: Viết là quá trình sử dụng các ký hiệu, chữ cái 
của bảng chữ cái, các dấu câu để trình bày những 
suy nghĩ và ý tưởng thành một dạng văn bản có 
thể đọc được.
3. VIẾT VÀ KỸ NĂNG VIẾT TRONG 
VIỆC DẠY VÀ HỌC NGOẠI NGỮ
Viết là một trong số những kỹ năng quan trọng 
trong việc dạy và học ngoại ngữ, viết giúp người 
học nâng cao được về khả năng dùng từ. Ví dụ 
như, trong quá trình viết một bài văn bằng tiếng 
Pháp, người viết sẽ vừa phải tỉ mỉ lựa chọn từng 
từ ngữ cho đúng nghĩa vừa phải cân nhắc xem từ 
ngữ đó có bảo toàn được tính chính xác mà chúng 
ta cần truyền đạt hay không. Trong quá trình đó 
người học đã tự giúp bản thân mình nâng cao thêm 
kỹ năng viết bài. Mặt khác viết là cách mở rộng 
vốn từ vựng người dạy và học ngoại ngữ. Các bài 
viết theo chủ đề khác nhau sẽ đòi hỏi lượng từ 
vựng khác nhau. Vì thế, viết càng nhiều thì càng 
nắm bắt được nhiều từ vựng. Đồng thời việc này 
cũng có lợi cho người dạy và học ngoại ngữ trong 
kỹ năng đọc hiểu; có khả năng chọn lọc từ vựng 
phù hợp nhất với nội dung bài viết. 
Đối với việc học ngoại ngữ viết có nhiều lợi 
ích. Với một học viên, sinh viên nhút nhát, hình 
thức viết là một cách và cơ hội để bày tỏ khi bản 
thân học viên, sinh viên đó cảm thấy khó khăn 
trong việc biểu đạt trực tiếp bằng lời, cũng như 
thuận lợi hơn với giảng viên trong việc có được 
những thông tin mang tính cá nhân, tế nhị từ phía 
học viên, sinh viên. Thông qua một bài viết giảng 
viên có thể hiểu sâu hơn quan điểm, tâm tư, tình 
cảm của học viên, sinh viên. Ngoài ra, viết cũng 
là một thước đo cho tính tự lập và cho phép giảng 
viên kiểm soát được mức độ tiếp thu của học viên, 
sinh viên trong quá trình học tập, rèn luyện.
4. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT TRONG 
VIỆC DẠY VÀ HỌC MÔN NGOẠI NGỮ 2 
TIẾNG PHÁP TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC 
QUÂN SỰ
Theo quy định về khung chương trình, trên 
lớp, đối với học viên, sinh viên ngoại ngữ 2 môn 
Tiếng Pháp sẽ học 375 tiết trong 3 học kỳ mỗi học 
kỳ 125 tiết tương đương với 5 tín chỉ và được chia 
đều cho 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Các kỹ 
năng được giảng dạy, thực hành xen kẽ, bổ sung 
linh hoạt trong quá trình học tập. Đối với kỹ năng 
viết, các chủ đề viết bám sát theo nội dung của 
chủ đề từng chương của giáo trình Initial 1. Thông 
thường, với mỗi chương, học viên, sinh viên sẽ có 
một chủ đề rèn luyện kỹ năng viết. 
Trong học phần 1, học viên, sinh viên phải có 
khả năng viết bài luận đơn giản, đó là khả năng 
giới thiệu bản thân, giới thiệu các thành viên trong 
gia đình hoặc giới thiệu một người bạn thân. Học 
viên, sinh viên sẽ vận dụng mọi kiến thức từ vựng, 
ngữ pháp đã được tiếp thu qua ngữ cảnh giao tiếp 
của bài học trong giáo trình chính để có thể diễn 
đạt được ý tưởng của mình theo đề bài đặt ra. 
Trong học phần 2, 3 và các học phần khác cao 
hơn chủ đề các bài luận ở mức độ khó hơn như 
kể về kỳ nghỉ, về bộ phim yêu thích hoặc những 
bài nghị luận đơn giản như sống ở thành thị hay 
nông thôn, làm thế nào để có sức khỏe tốt... Để 
viết tốt trong giai đoạn này đòi hỏi học viên, sinh 
37KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
viên phải có vốn kiến thức tương đối về từ vựng 
và ngữ pháp, phải có ý thức tự rèn luyện kỹ năng 
viết nhiều hơn.
Tuy nhiên thực tế cho thấy học viên, sinh viên 
ngại học môn viết, không đầu tư nhiều thời gian 
vào bài viết, có thói quen tìm bài sẵn trên mạng để 
đối phó trong kỳ thi.... Điểm thi viết thường không 
cao, mắc nhiều lỗi về ngữ pháp, cách dùng từ, tìm 
ý, diễn đạt ý.
Qua khảo sát 100 đối tượng là học viên, sinh 
viên năm thứ 3 khoa tiếng Anh và tiếng Trung đang 
học ngoại ngữ 2 tiếng Pháp tại Học viện Khoa học 
Quân sự. Kết quả thu được như sau:
61% học viên, sinh viên cho rằng, tiếng Pháp 
là môn ngoại ngữ khó; 23% cho rằng, tiếng Pháp 
bình thường; 6% cho rằng, tiếng Pháp dễ học. Như 
vậy, có thể thấy tiếng Pháp là một ngôn ngữ khó 
đối với đa số học viên, sinh viên tại Học viện Khoa 
học Quân sự.
Trong 4 kỹ năng, 90% học viên, sinh viên cho 
rằng, kỹ năng viết là kỹ năng khó chỉ sau kỹ năng 
nghe; 10% cho rằng, kỹ năng viết là kỹ năng khó 
nhất. Với kỹ năng viết, học viên, sinh viên gặp khó 
khăn nhất trong việc diễn đạt vì chưa có đủ kiến 
thức về ngữ pháp, từ vựng, văn hóa Pháp và bị ảnh 
hưởng nhiều từ ngoại ngữ đang học.
Trong một bài viết tiếng Pháp, 67% học viên, 
sinh viên cho rằng, mở bài là phần khó khăn nhất 
vì phải nêu vấn đề một cách ngắn gọn, hấp dẫn, 
gây hứng thú cho người đọc; 30% học viên, sinh 
viên cho rằng, kết luận là phần khó nhất vì kết luận 
phải tổng kết được các ý chính được nêu trong 
phần thân bài đồng thời nên lên quan điểm, cảm 
nghĩ của bản thân đối với vấn đề trong bài viết. 
Chỉ có 3% học viên, sinh viên cho rằng thân bài là 
phần khó viết nhất vì khi lập dàn ý phần thân bài 
là quan trọng nhất.
Diễn đạt viết được tiến hành theo các bước như 
sau: phân tích đề bài, tìm ý, huy động từ vựng, 
gắn kết các ý thành bài viết mạch lạc, hoàn chỉnh; 
45% học viên, sinh viên cho rằng bước huy động 
từ vựng là khó nhất; 26% cho rằng, bước gắn kết 
các ý thành bài viết mạch lạc, hoàn chỉnh là khó 
nhất; 20% cho rằng, bước tìm ý là khó nhất; 9% 
cho rằng, phân tích đề bài là khó nhất. Như vậy, 
số lượng lớn học viên, sinh viên gặp khó khăn vì 
thiếu vốn từ vựng và cũng khó khăn trong việc sử 
dụng đúng các từ ngữ, gắn kết các câu lại với nhau 
để bài viết có sự liên kết và mạch lạc.
5. MỘT VÀI ĐỀ XUẤT VỀ PHƯƠNG 
PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT TRONG 
VIỆC DẠY HỌC MÔN NGOẠI NGỮ TIẾNG 
PHÁP TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ
5.1. Đề xuất về phía giảng viên
5.1.1. Hoạt động trên lớp học
Thông qua chủ đề viết hoặc một bài viết mẫu, 
giảng viên đưa ra những câu hỏi gợi mở có liên 
quan tới chủ đề bài sắp viết để dẫn dắt học viên, 
sinh viên vào nội dung bài viết. Giảng viên thường 
yêu cầu hoạt động theo nhóm, liệt kê các ý có liên 
quan tới chủ đề viết, sau đó sẽ tổng hợp lại lên 
bảng để học viên, sinh viên tham khảo, bổ sung, 
vận dụng vào bài viết của mình. Bên cạnh đó, 
giảng viên còn đưa ra một số dạng bài tập liên 
quan đến kỹ năng viết như dựng câu, sắp xếp trật 
tự bài văn, điền từ thích hợp. Từ đó học viên, sinh 
viên tiếp cận tốt hơn với chủ đề sẽ viết. Đối với 
dạng văn miêu tả, giảng viên còn sử dụng các giáo 
cụ trực quan sinh động như tranh, ảnh để học viên, 
sinh viên được quan sát các hình ảnh có liên quan 
tới chủ đề viết, sau đó yêu cầu mỗi cá nhân sẽ tự 
miêu tả về bức tranh đó để tự xây dựng bài viết 
của mình. 
Khi đã có dàn ý cụ thể và tiến hành viết bài, 
giảng viên bao quát lớp và tiếp cận tới từng học 
viên, sinh viên để cung cấp từ vựng và cấu trúc 
khi cần thiết trong quá trình thực hành viết của họ.
Sau khi đã hoàn thành bài viết theo thời gian quy 
định, giảng viên kiểm tra bài bằng nhiều cách khác 
nhau, tùy vào chủ đề và thời lượng chương trình:
38 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
Giảng viên thường thu bài của học viên, sinh 
viên về nhà và chữa bài cho từng người, sau đó trả 
bài trong buổi học viết tiếp theo.
Giảng viên thu bài của một số học viên, sinh 
viên tại lớp và chữa bài để làm mẫu cho cả lớp tự 
sửa bài của mình.
Giảng viên yêu cầu từ 1 - 2 học viên, sinh viên 
đọc bài của mình trước lớp, cả lớp sẽ cùng thảo luận 
theo hướng dẫn của giảng viên để sửa bài cho người 
đó và rút ra kinh nghiệm cho bài viết của mình. 
Giảng viên yêu cầu chữa bài theo nhóm, từ 2 - 
3 người. Các nhóm trao đổi bài và sửa bài cho nhau 
dưới sự hướng dẫn và điều hành của giảng viên.
5.1.2. Phương pháp ngoài giờ học
Ngoài những tiết học viết được quy định trong 
chương trình, giảng viên thường xuyên tổ chức các 
hoạt động ngoài giờ lên lớp để nâng cao kỹ năng 
viết cho học viên, sinh viên.
Học viên, sinh viên được chia thành các nhóm, 
dựa theo chủ đề và gợi ý mà giảng viên đã đưa 
ra, sinh viên thảo luận, thống nhất ý kiến và bắt 
đầu xây dựng dàn ý, từ dàn ý khái quát đến dàn 
ý chi tiết. Sau đó, giảng viên sẽ yêu cầu đại diện 
mỗi nhóm lên trình bày nội dung bài viết của mình 
trước lớp thông qua bản dàn ý đã lập. Từ đó, các 
nhóm khác sẽ cùng thảo luận và sửa bài cho nhau. 
Hoạt động này không những nâng cao được kỹ 
năng viết mà còn nâng cao được khả năng lập dàn 
ý logic cũng như thuyết trình trước tập thể.
Ngoài ra, giảng viên còn cung cấp trước nội 
dung chủ đề viết để học viên, sinh viên về nhà 
chuẩn bị, thiết kế dàn ý và viết hoàn chỉnh bằng 
cách trình chiếu slide, kết hợp hiệu quả giữa nội 
dung bài viết với những hình ảnh mình họa có liên 
quan. Với phương pháp này, một mặt học viên, 
sinh viên sẽ cảm thấy hứng thú học viết hơn và bài 
viết sẽ trở lên sinh động, không bị nhàm chán, mặt 
khác, phương pháp giúp học viên, sinh viên rèn 
luyện tổng hợp được nhiều kỹ năng, hiểu bài một 
cách nhanh chóng và hiệu quả hơn. 
Giảng viên còn kết hợp nội dung bài viết với 
các hoạt động ngoài giờ bằng việc kết hợp với các 
trò chơi tập thể, giải trí. Mỗi cá nhân sẽ nói một 
câu có liên quan tới chủ đề viết, việc làm này giúp 
học viên, sinh viên cảm thấy thoải mái, phát huy 
được tính sáng tạo, ứng dụng nhanh kiến thức mà 
mình vừa được học.
5.1.3. Một số biện pháp khác cần chú ý
Giảng viên cần nắm vững đối tượng người 
học: Giảng viên cần hiểu rõ trình độ, năng lực 
ngôn ngữ, tâm lý, tính cách, sở thích, phong cách 
học của từng học viên, sinh viên. Nhờ đó, giảng 
viên mới đưa ra được những quyết định sáng suốt 
về phương pháp giảng dạy và sử dụng tài liệu phù 
hợp với từng đối tượng người học cụ thể.
Giảng viên nên áp dụng các cách sửa lỗi khác 
nhau vào dạy kỹ năng viết: Giảng viên tìm ra 
phương án sửa lỗi tương đối, linh hoạt, phù hợp 
thì sẽ giúp học viên, sinh viên tìm ra lỗi của mình 
và biết cách sửa lỗi.
Giảng viên nên thiết kế nhiều dạng bài tập thực 
hành viết và các hoạt động phục vụ cho việc dạy kỹ 
năng viết: Căn cứ vào mục tiêu từng bài giảng, nội 
dung trọng tâm, trọng điểm của mỗi bài, các trang 
thiết bị dạy học, trình độ, thời lượng dành cho mỗi 
bài viết, đặc điểm tâm sinh lý của học viên, sinh 
viên để thiết kế những hoạt động học kỹ năng viết, 
những bài tập dành cho từng bài cụ thể một cách 
phù hợp.
5.2. Đề xuất về phía học viên, sinh viên
5.2.1. Trước khi viết bài
Trước khi viết một chủ đề nào đó, học viên, 
sinh viên thường phải suy nghĩ lấy ý tưởng cho 
chủ đề, sau đó ghi nhanh những ý tưởng đó ra giấy 
nháp, các ý tưởng đó được viết lại một cách nhanh 
chóng, ngắn gọn dưới dạng từ khóa hoặc cấu trúc 
ngữ pháp quan trọng và không nhất thiết phải theo 
một trật tự nào cả. Ví dụ: với chủ đề: “Hãy giới 
thiệu các thành viên trong gia đình của bạn”, học 
viên, sinh viên thường ghi nhanh các từ, cụm từ 
39KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
liên quan đến danh từ chỉ thành viên trong gia đình 
như: ma mère, mon père, mon frère...; Tính từ chỉ 
tính cách: sympathique, généroux; Động từ chỉ 
hoạt động yêu thích: chanter, faire, du camping; 
Sau đó, lựa chọn ra những từ, cụm từ, ý tưởng có 
thể sử dụng được và phù hợp với chủ đề. Đây là 
một cách rất phổ biến và hiệu quả giúp học viên, 
sinh viên không bị bỏ sót nội dung nào khi viết và 
làm cho nội dung của bài viết sát với chủ đề.
Bước thứ hai là xác định yêu cầu đề bài, đây 
là một bước rất quan trọng, bởi nó giúp bài viết đi 
đúng hướng, mạch lạc và thống nhất Trong bước 
này, học viên, sinh viên phải xác định dạng hình 
thức bài viết: bài giới thiệu hay bài viết thư; phạm 
vi đối tượng được đề cập, giới hạn độ dài bài viết, 
lượng từ vựng được yêu cầu. Nếu không xác 
định luận đề ngay trong bước đầu tiên thì bài viết 
sẽ rơi vào tình trạng viết lan man hoặc lạc đề. 
Từ bước xác định luận đề ở trên, tiếp tục thực 
hiện việc lập dàn ý. Mở bài bao gồm câu dẫn nhập, 
luận đề. Thân bài bao gồm 2 - 3 đoạn văn, trong 
mỗi đoạn văn sẽ chứa câu chủ đề nhằm củng cố 
luận đề và một số lý lẽ chứng minh. Để làm tốt 
phần thân bài cần thực hiện các bước như: phân 
tích đề bài; tìm ý; huy động từ vựng, cấu trúc; 
gắn kết các ý thành bài viết mạch lạc, hoàn chỉnh. 
Thực chất việc lập dàn ý là chỉ đưa ra câu chủ đề 
cho mỗi đoạn và viết dưới dạng câu danh từ chứ 
không phải câu hoàn chỉnh và chỉ lập dàn ý cho 
phần thân bài, từ dàn ý trên mới viết mở bài và kết 
luận trước. Kết bài thường nhắc lại luận đề và 1, 2 
ý chính đã nêu ra ở phần trước đó và đưa ra nhận 
xét, cảm nghĩ của bản thân. Việc lập dàn bài giúp 
học viên, sinh viên tổng hợp được đầy đủ các ý, 
nội dung cần viết. Bài viết sẽ chặt chẽ, logic, các ý 
không bị lặp lại hoặc đảo lộn mà hướng theo một 
thể thống nhất.
5.2.2. Trong khi viết bài
Dựa trên phần đã lập dàn ý ở trên, học viên, 
sinh viên bắt đầu viết bài. Trong quá trình viết, học 
viên, sinh viên sẽ kết hợp với việc tra từ điển, sử 
dụng các từ cụm từ có liên quan, cấu trúc ngữ pháp 
của câu. Trong khi viết, học viên, sinh viên có thể 
sử dụng từ nối để đảm bảo liên kết giữa các đoạn. 
Ngoài ra, để bài viết thêm sinh động và mang tính 
thuyết phục cao, mỗi học viên, sinh viên có thể 
tham khảo một số bài viết mẫu, mẫu câu do giảng 
viên cung cấp hoặc tra cứu trên mạng internet. Khi 
gặp vấn đề trong lựa chọn nghĩa của các từ vựng, 
đặc biệt là các từ mới cũng như cấu trúc câu, họ có 
thể trao đổi với bạn bè trong lớp và có thể hỏi trực 
tiếp giảng viên để hạn chế những lỗi sai trong bài.
5.2.3. Sau khi viết bài
Khi đọc lại bài viết, bên cạnh việc sửa lỗi chính 
tả, ngữ pháp, học viên, sinh viên cần chú ý viết 
trau chuốt hơn tới câu chủ đề ở mỗi đoạn và câu 
kết để tạo được sự quan tâm và sự đồng cảm từ 
người đọc.
Sau khi đã đọc lại và tự sửa bài của mình, học 
viên, sinh viên thường trao đổi bài cho bạn cùng 
học để trao đổi, kiểm tra lại và sửa lỗi đã mắc, từ 
đó rút ra bài học, những lưu ý để tránh mắc phải 
trong những bài viết tiếp theo.
5.2.4. Một số biện pháp khác cần chú ý 
Học viên, sinh viên luyện đọc nhiều hơn: 
Luyện đọc thường xuyên để tích lũy thêm nhiều 
từ vựng và cấu trúc mới. Những quyển sách luôn 
chứa đựng rất nhiều kiến thức và cách hành văn 
hay. Trong khi đọc, nên đặt một quyển sổ nhỏ bên 
cạnh dùng để ghi chép lại những ý hay khi cần. 
Cách học này rất chủ động và tự nhiên, giúp cho 
học viên, sinh viên tránh được cảm giác nhàm 
chán khi ngồi học. 
Học viên, sinh viên cần xác định mục đích 
bài viết: Phân tích rõ đối tượng và mục đích bài 
viết lựa chọn được cách hành văn thật phù hợp và 
chính xác. 
Học viên, sinh viên sử dụng ngay những từ vừa 
học: Một đặc điểm dễ nhận thấy là mỗi người chỉ 
thường sử dụng 2/3 trên tổng số vốn từ bản thân 
biết. Do đó, trong quá trình luyện viết, cố gắng áp 
dụng những từ vừa học vào câu. Một cuốn sổ tay 
40 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
ghi chú từ mới và cấu trúc là cần thiết. Điều này 
sẽ giúp dễ nhớ từ mới và cấu trúc làm văn phong 
phong phú hơn và tránh lặp từ. 
Học viên, sinh viên viết những điều mình thích: 
Động cơ học tập chính là yếu tố quan trọng trong 
học tập, không nên miễn cưỡng viết các vấn đề quá 
khó hoặc không thân thuộc với bản thân. Trước hết, 
học viên, sinh viên hãy tập trình bày những chủ đề 
bản thân thật sự yêu thích và cố gắng hoàn thiện 
bài viết tốt nhất có thể; sau đó, nhờ giảng viên góp 
ý; như vậy, sẽ có thêm nhiều động lực viết tiếp sau 
khi nhận được phản hồi. Không phải ngẫu nhiên 
khi có nhận định rằngkỹ năng viết chính là một 
trong những kỹ năng quan trọng nhất giúp người 
học thành công trong công việc và học tập.
6. KẾT LUẬN
Để nâng cao khả năng giao tiếp tiếng Pháp, 
học viên, sinh viên cần có nhận thức chung về kỹ 
năng viết, tầm quan trọng của kỹ năng viết. Vì đây 
là một kỹ năng đòi hỏi người viết phải có trình độ 
ngôn ngữ nhất định, qua đó có thể diễn đạt được ý 
kiến, quan điểm thể hiện trong quá trình sử dụng 
ngôn ngữ. Kỹ năng viết là một kỹ năng khó nên 
việc nâng cao và rèn luyện không dễ dàng, nó yêu 
cầu sự kiên trì bền bỉ, lâu dài, đòi hỏi người học 
phải biết thực hiện một cách khoa học và người 
dạy phải biết sử dụng các phương pháp phù hợp để 
đạt được hiệu quả cao nhất.
Tóm lại, viết là một kỹ năng quan trọng. Việc 
rèn luyện kỹ năng viết thường xuyên sẽ giúp ích 
rất nhiều cho tư duy lôgic và năng lực phân tích 
của mỗi người, giúp người viết giải quyết tốt các 
vấn đề trong quá trình thu thập và sắp xếp tài liệu 
viết theo một trình tự khoa học. Viết còn có ý nghĩa 
và tác dụng quan trọng trong việc biểu đạt tình 
cảm, giao lưu tư tưởng, truyền bá tin tức. Trong xã 
hội hiện đại ngày nay, con người càng phải nâng 
cao kỹ năng viết cho bản thân, đặc biệt là kỹ năng 
viết bằng ngoại ngữ, có như vậy con người mới 
dễ dàng đáp ứng được yêu cầu trong công việc và 
trong cuộc sống hàng ngày./.
Tài liệu tham khảo:
1. Phan Chí Công (2016), “Một số giải pháp 
nâng cao chất lượng dạy kỹ năng viết cho học viên 
và sinh viên năm thứ ba khoa tiếng Anh, Học viện 
Khoa học Quân sự”, Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ 
Quân sự, số 02, tr.89-96. 
2. Nguyễn Thanh Hà (2016), Tài liệu Viết tiếng 
Pháp, Học viện Khoa học Quân sự, Hà Nội.
SOME SUGESTIONS FOR METHODS TO PRACTISE WRITING SKILLS IN 
TEACHING AND LEARNING FRENCH FOR LEARNERS OF FRENCH AS A 
SECOND FOREIGN LANGUAGE AT MILITARY SCIENCE ACADEMY
NGUYEN KHANH HIEP
Abstract: Writing is a kind of information transmission and of great importance in communication 
activity. In language teaching and studying, writing functions as the benchmark to assess learners’ 
independence and creativeness as well as enables teacher to monitor the learners’ level of 
acquisition.Thus, the practice of wording skill in French writing skills for learners of French as a 
second language at Military Science Academy is necessary.
Keywords: writing skill, Military Science Academy, French
Received: 30/10/2017; Revised: 06/11/2017; Accepted for publication: 15/11/2017

File đính kèm:

  • pdfmot_vai_de_xuat_ve_phuong_phap_ren_luyen_ky_nang_viet_trong.pdf