Một số nghiên cứu về khó khăn tâm lí trong học tập nghề nghiệp của sinh viên các trường Cao đẳng, Đại học
Hoạt động học tập ở trường cao đẳng (CĐ), đại học
(ĐH) là hoạt động học tập nghề nghiệp; nội dung học tập
là hệ thống tri thức, kĩ năng liên quan đến các khoa học
cơ bản, khoa học cơ sở của chuyên ngành và chuyên
ngành gắn với nghề nghiệp tương lai của người học. Việc
nắm vững nội dung học tập là điều kiện quan trọng giúp
sinh viên (SV) trở thành những “chuyên gia” trong một
lĩnh vực nghề nghiệp. Đào tạo nghề nghiệp là hoạt động
dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kĩ năng và thái độ
nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được
việc làm hay tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học
hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp (Điều 3, khoản 2,
Luật Giáo dục nghề nghiệp, 2014) [1].
Vì vậy, bước vào môi trường CĐ, ĐH là bước ngoặt
quan trọng đối với SV, là cơ hội để SV tích lũy tri thức
và kĩ năng nghề nghiệp, tạo điều kiện cho họ có được
một nghề nghiệp ổn định sau này, từ đó có được một cuộc
sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, đó cũng là một quá trình
học tập mà SV phải đối mặt với nhiều khó khăn tâm lí
(KKTL); và bên cạnh những cố gắng nỗ lực của bản thân,
SV cần nhận được những biện pháp hỗ trợ phù hợp để có
thể vượt qua những khó khăn đó. Vấn đề KKTL trong
học tập của SV đã được nhiều công trình nghiên cứu ở
nước ngoài và Việt Nam đề cập đến dưới nhiều góc độ
khác nhau. Bài viết đề cập một số nghiên cứu về KKTL
trong học nghề của SV các trường CĐ, ĐH
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số nghiên cứu về khó khăn tâm lí trong học tập nghề nghiệp của sinh viên các trường Cao đẳng, Đại học
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142 136 Email: ducminhsw@gmail.com MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÍ TRONG HỌC TẬP NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC Bùi Đức Minh - Ban Tổ Chức tỉnh uỷ Sơn La Ngày nhận bài: 26/05/2018; ngày sửa chữa: 15/06/2018; ngày duyệt đăng: 18/06/2018. Abstract: The paper mentions some domestic and international studies on psychological difficulties in apprenticeship of students at colleges and universities. These studies have been considered from many different perspectives, subjects and fields in order to determine the manifestation and causes of psychological difficulties in apprenticeship of students as well as the effect of these difficulties on the learning effectiveness of students. Also, the article proposes some measures to minimize these psychological difficulties in apprenticeship of students. Keywords: Difficulties, psychological difficulties, apprenticeship, students. 1. Mở đầu Hoạt động học tập ở trường cao đẳng (CĐ), đại học (ĐH) là hoạt động học tập nghề nghiệp; nội dung học tập là hệ thống tri thức, kĩ năng liên quan đến các khoa học cơ bản, khoa học cơ sở của chuyên ngành và chuyên ngành gắn với nghề nghiệp tương lai của người học. Việc nắm vững nội dung học tập là điều kiện quan trọng giúp sinh viên (SV) trở thành những “chuyên gia” trong một lĩnh vực nghề nghiệp. Đào tạo nghề nghiệp là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kĩ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm hay tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp (Điều 3, khoản 2, Luật Giáo dục nghề nghiệp, 2014) [1]. Vì vậy, bước vào môi trường CĐ, ĐH là bước ngoặt quan trọng đối với SV, là cơ hội để SV tích lũy tri thức và kĩ năng nghề nghiệp, tạo điều kiện cho họ có được một nghề nghiệp ổn định sau này, từ đó có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, đó cũng là một quá trình học tập mà SV phải đối mặt với nhiều khó khăn tâm lí (KKTL); và bên cạnh những cố gắng nỗ lực của bản thân, SV cần nhận được những biện pháp hỗ trợ phù hợp để có thể vượt qua những khó khăn đó. Vấn đề KKTL trong học tập của SV đã được nhiều công trình nghiên cứu ở nước ngoài và Việt Nam đề cập đến dưới nhiều góc độ khác nhau. Bài viết đề cập một số nghiên cứu về KKTL trong học nghề của SV các trường CĐ, ĐH. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng là nghiên cứu tài liệu để phân tích, tổng hợp và khái quát các xu hướng nghiên cứu về KKTL trong học nghề của SV các trường CĐ, ĐH. 2.2. Những nghiên cứu ở nước ngoài về khó khăn tâm lí trong hoạt động học tập nghề nghiệp của sinh viên các trường cao đẳng, đại học Vấn đề KKTL trong học nghề của SV các trường CĐ, ĐH đã được các tác giả nước ngoài xem xét dưới các góc độ khác nhau, với nhiều khách thể và lĩnh vực khác nhau nhằm xác định biểu hiện, nguyên nhân gây ra những KKTL trong học nghề, ảnh hưởng của những KKTL đó đến hiệu quả học tập của SV và một số biện pháp hỗ trợ nhằm giảm thiểu những KKTL này ở SV. 2.2.1. Những nghiên cứu về các biểu hiện khó khăn tâm lí trong học nghề của sinh viên các trường cao đẳng, đại học Có thể khái quát thành 4 biểu hiện cụ thể: - Thứ nhất, là những xúc cảm tiêu cực nảy sinh trong quá trình học tập tại các trường CĐ và ĐH: bao gồm chán nản, lo lắng, căng thẳng, thất vọng, buồn phiền, mệt mỏi, cô độc Khi nghiên cứu một nhóm 351 SV ở Anh, Andrew và Wilding (2004) đã phát hiện ra 40% SV có vấn đề tâm lí được đặc trưng bởi sự lo lắng và căng thẳng [2], kết quả nghiên cứu của Sarason I.G. và Sarason B.R (2002) cũng cho thấy, nhiều SV khi vào đại học vì không thể học tốt nên dẫn đến căng thẳng, từ đó họ liên tục cảm thấy thất vọng và tuyệt vọng. Họ nhận thấy những điều tiêu cực và tự coi mình là người thất bại [3]. Tác giả Palmer và Puri (2006) đã chỉ ra nhiều nhóm khó khăn mà SV thường gặp phải khi học ở trường ĐH và khó khăn trong học tập là một khó khăn lớn. Đối với khó khăn trong học tập, SV có các biểu hiện như lo lắng ngành học không phù hợp với mong ước của bản thân, các em không biết nên tiếp tục học hay chuyển nghề, chuyển trường [4]. - Thứ hai, là vấn đề thích nghi với môi trường học tập trong trường CĐ, ĐH. Vấn đề tâm lí này thường xảy ra VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142 137 ở đối tượng SV năm thứ nhất. Theo Sade và Coll (2003), SV khi mới bước vào trường ĐH, ngay từ học kì đầu tiên đã phải dành thời gian điều chỉnh để phù hợp với môi trường học tập mới. Đây được coi là vấn đề chính trong bối cảnh giáo dục đặc thù bởi nhiều SV đến trường ĐH từ những môi trường khác nhau và họ phải sống trong môi trường ĐH với nền văn hóa dễ gây sốc. Vì vậy, nền tảng và sự chuẩn bị của SV đóng vai trò quan trọng đáng kể [5]. Tổng kết của Palmer và Puri (2006), các nhóm khó khăn lớn mà SV thường gặp phải khi học ở trường ĐH, đó là: 1) Khó khăn khi rời mái ấm gia đình và bắt đầu cuộc sống ở trường ĐH, xa gia đình, người thân và bạn bè; 2) Khó khăn khi sống ở môi trường mới, cùng với những người khác; 3) Khó khăn trong việc đảm bảo ăn uống có lợi cho sức khỏe với điều kiện kinh phí hạn hẹp; 4) Khó khăn liên quan đến học tập và sự mong chờ của cá nhân đối với khóa học; 5) Khó khăn liên quan đến quan hệ xã hội; 6) Khó khăn về kinh tế [4]. - Thứ ba, là những biểu hiện tâm lí nghiêm trọng và một số biểu hiện có liên quan đến rối nhiễu và rối loạn tâm lí, biểu hiện thường gặp là tự gây tổn thương cho cơ thể, rối loạn ăn uống, sử dụng các chất kích thích, tấn công tình dục ở trường học, lạm dụng tình dục sớm, tự tử Theo kết quả nghiên cứu tại 274 trung tâm tham vấn (Gallagher, Sysko và Zhang, 2001) [6], có 85% trung tâm báo cáo rằng, có sự gia tăng các vấn đề tâm lí nghiêm trọng ở đối tượng SV trong hơn 5 năm qua, bao gồm thất bại trong học tập (71%), tự sát, tự gây tổn thương cho cơ thể (51%), rối loạn ăn uống (38%), các vấn đề về chất cồn (45%), sử dụng các chất kích thích khác (49%), tấn công tình dục ở trường học (33%) và các vấn đề liên quan tới sự lạm dụng tình dục sớm (34%). Theo đánh giá, có khoảng 16% số SV gặp các vấn đề tâm lí nghiêm trọng (Gallagher, Gill và Sysko, 2000) [7]. Theo một báo cáo khảo sát quốc gia của Mĩ, 28% SV ĐH năm thứ nhất thường xuyên cảm thấy bị áp lực và 8% cảm thấy bị suy nhược (HERI, UCLA, 2000) [8]. - Thứ tư, là những khó khăn trong việc tự nhận thức, nhận thức và thái độ đối với học tập. Nghiên cứu về các khó khăn trong quá trình học tập của SV ở độ tuổi trên 25 chưa tốt nghiệp ĐH, ngoài hai khó khăn về tổ chức và khó khăn về hoàn cảnh, Cross (1978, 1986) còn phát hiện thấy một khó khăn chính nữa ở những SV này là KKTL xuất phát từ thái độ, sự tự nhận thức về chính mình trong học tập [9], [10]. Darkenwald và Merriam (1982) đánh giá rằng, các vấn đề KKTL có xu hướng liên quan chặt chẽ tới hoạt động giáo dục và học tập của người học, đặc biệt là tiềm năng của người học [11]. Merriam (1984) nhấn mạnh, KKTL được coi là rào cản mạnh hơn các khó khăn về tổ chức hay hoàn cảnh vì KKTL phản ánh những trải nghiệm tiêu cực đối với môi trường học tập [12]. Như vậy, nhiều tác giả nước ngoài đã quan tâm nghiên cứu những biểu hiện KKTL trong hoạt động học tập của SV. Các nhà nghiên cứu này đã chỉ ra nhiều biểu hiện KKTL khác nhau nảy sinh ở SV trong quá trình học tập ở CĐ cũng như ĐH. Tuy nhiên các biểu hiện mới chỉ được tập trung xem xét ở cấp độ xúc cảm (lo lắng, căng thẳng, mệt mỏi,), các biểu hiện ở cấp độ nhận thức và hành vi trong đời sống tâm lí của SV còn ít được nghiên cứu. 2.2.2. Những nghiên cứu về nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lí trong học nghề của sinh viên các trường cao đẳng, đại học Khi nghiên cứu về KKTL trong học tập của SV các trường CĐ, ĐH, các tác giả nước ngoài đã chỉ ra nhiều nguyên nhân dẫn đến KKTL trong hoạt động học tập của SV. Có các nguyên nhân khách quan từ bên ngoài và cả những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ chính các em. Trước hết là yếu tố văn hóa-xã hội như hoàn cảnh gia đình, cha mẹ thiếu kĩ năng, khả năng thích nghi kém, bạo lực, sử dụng chất kích thích, cồn và quan hệ tình dục sớm, các mối liên kết cá nhân lỏng lẻo có thể dẫn đến tình trạng gia tăng các vấn đề tâm lí (Gallagher, Gill và Sysko, 2000) [7]. Tiếp đến là kết quả học tập cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về mức độ KKTL trong học tập của SV. Nghiên cứu sự khác nhau về các vấn đề tâm lí của 120 SV trường ĐH Quốc tế Hồi giáo có học lực giỏi và yếu, Safree, Yasin, Dzulkifli nhận định rằng, thành tích học tập kém là một trong những nguyên nhân gây ra các vấn đề tâm lí ở SV. Kết quả nghiên cứu cho thấy, những SV có học lực kém thường có mức độ lo âu, căng thẳng cao hơn những SV có học lực giỏi [13]. Ngoài ra, là vấn đề thiếu hụt các kĩ năng. Nghiên cứu sự thiếu hụt kĩ năng xã hội - một yếu tố làm gia tăng các vấn đề tâm lí trên 118 SV ở Mĩ đã cho phép các tác giả Segrin, Chris và Flora, Jeanne (2000) đưa ra nhận định rằng, sự thiếu hụt các kĩ năng xã hội chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến những KKTL ở SV. Những SV có kĩ năng xã hội thấp có KKTL cao hơn các SV có kĩ năng xã hội tốt [14]. Từ những nghiên cứu trên, có thể thấy rằng, các tác giả nước ngoài đã chỉ ra khá nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến KKTL trong học tập của SV, trong đó tập trung chủ yếu vào các nguyên nhân chủ yếu như chuyển cấp học, môi trường học tập thay đổi, sự không chuẩn bị sẵn sàng về mặt tâm lí, sự chưa trưởng thành về mặt nhân cách của SV, động cơ, thái độ học tập, thiếu sự hỗ trợ kịp thời của nhà trường, giảng viên Tuy nhiên, KKTL của SV trong hoạt động học tập, đặc biệt là của SV dân tộc ít người trong học nghề còn bắt nguồn từ niềm tin vào khả năng học tập của chính bản thân SV, khả năng sử dụng VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142 138 ngôn ngữ phổ thông, tính tích cực và chủ động trong học nghề, điều kiện và phương tiện thực hành nghề, năng lực và phương pháp giảng dạy hướng dẫn thực hành nghề của giảng viên, hỗ trợ từ gia đình Những yếu tố này còn ít được các tác giả nước ngoài đề cập đến. 2.2.3. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của khó khăn tâm lí trong học nghề đến hiệu quả học tập của sinh viên các trường cao đẳng, đại học KKTL của SV cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả học tập, tỉ lệ lưu ban và tốt nghiệp của họ. Brackney và Karabenick (1995) phát hiện ra rằng, mức độ KKTL cao ở SV liên quan chặt chẽ đến hiệu quả học tập. SV có mức độ KKTL cao thì cảm giác lo lắng về thi cử gia tăng, khả năng tự học, hiệu quả quản lí thời gian và sử dụng các nguồn lực trong học tập thấp. Họ cũng thiếu kiên trì hơn khi phải đối mặt với khó khăn cũng như sử dụng các chiến lược học tập hiệu quả hay tìm kiếm sự hỗ trợ về học tập [15]. Kết quả nghiên cứu của Goodwin (2006) trên nhóm SV dân tộc ít người cho thấy, với nhiều SV, khó khăn được nhìn nhận như là thử thách trong cuộc đời, giúp SV trưởng thành hơn khi cố gắng vượt qua. Tuy nhiên, với không ít SV, khó khăn gặp phải trong thời gian học ĐH đã để lại dấu ấn nặng nề trong tâm trí, gây căng thẳng, giảm chất lượng cuộc sống, ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập và tương lai nghề nghiệp sau này [16]. Như vậy, những áp lực từ hoạt động học tập gây ra những KKTL cho SV, ngược lại, những căng thẳng, lo lắng, buồn phiền, mệt mỏi (những KKTL) làm cho SV cảm thấy suy kiệt, thất vọng và tuyệt vọng, từ đó làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động học tập của SV, làm giảm hiệu quả học tập và ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai nghề nghiệp của các em sau này. Có thể khẳng định rằng, các cá nhân có mức độ KKTL cao thường thiếu các kĩ năng xử lí thông tin - yếu tố có tính quyết định tới hiệu quả học tập và thành công của họ 2.2.4. Những nghiên cứu về biện pháp hỗ trợ để giảm thiểu khó khăn tâm lí trong học nghề của sinh viên các trường cao đẳng, đại học Trên cơ sở làm rõ những nguyên nhân dẫn đến KKTL trong học tập của SV, các tác giả nước ngoài cũng đã đề xuất một số biện pháp góp phần giảm thiểu KKTL trong học tập của SV. Để giảm thiểu các khó khăn, rào cản trong quá trình học tập của người học, theo các nhà tâm lí học, sự tham vấn tâm lí trong nhà trường đóng vai trò đặc biệt quan trọng (Caplan, 1970; Friend và Cook, 1996) [17], [18]. Hoạt động tham vấn tập trung vào các khía cạnh tâm lí của hành vi con người, quá trình can thiệp và các kết quả. Mặc dù sự tham vấn chủ yếu nhằm giải quyết các vấn đề cá nhân của người học, song trong nhiều trường hợp, nó liên quan tới sự cộng tác của tập thể nhằm cải thiện môi trường lớp học, trường học và thúc đẩy sự phát triển tâm lí tích cực của tất cả các thành viên. Tại các trường ĐH, CĐ, bộ phận tham vấn tâm lí có nhiệm vụ hỗ trợ SV nhằm xác định và đạt được các mục tiêu cá nhân, học tập và nghề nghiệp thông qua cung cấp tư vấn về việc phát triển, ngăn chặn và phòng ngừa. Theo truyền thống, có sự nhấn mạnh vào việc tư vấn phát triển và phòng ngừa. Tuy nhiên, vai trò và chức năng của bộ phận tham vấn thuộc các trường ĐH và CĐ tiếp tục thay đổi để đáp ứng với một loạt các yếu tố xã hội, chính trị và kinh tế (CAS, 1999) [19]. Theo Archer và Cooper (1998), việc cung cấp dịch vụ tham vấn cho SV về sự đa văn hóa và giới tính, nhu cầu phát triển và nghề nghiệp, sự thay đổi cuộc sống, sự căng thẳng, bạo lực và các vấn đề tâm lí nghiêm trọng khác là một trong những thách thức lớn của bộ phận tham vấn thuộc các trường ĐH, CĐ [15]. Như vậy, trên cơ sở làm rõ những nguyên nhân dẫn đến KKTL trong học tập của SV, các tác giả nước ngoài nhận thấy rằng, cần phải có các biện pháp can thiệp phù hợp và hữu hiệu mới có thể hạn chế được những KKTL này ở các em. Theo các nhà tâm lí học nước ngoài, để giảm thiểu các KKTL trong quá trình học tập của người học, sự tham vấn tâm lí trong nhà trường đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hỗ trợ SV xác định và đạt được các mục tiêu cá nhân, học tập và nghề nghiệp thông qua cung cấp dịch vụ tham vấn ngăn chặn và phòng ngừa KKTL. Tóm lại, dưới góc độ hoạt động học tập, nghiên cứu của các tác giả nước ngoài thường đi sâu vào lĩnh vực tâm lí của người học cũng như sự thay đổi môi trường học tập từ cấp học này sang cấp học khác. Các nghiên cứu tập trung vào những biểu hiện KKTL, nguyên nhân gây ra KKTL, ảnh hưởng của KKTL đến hiệu quả học tập của SV nói chung, SV năm thứ nhất nói riêng và bao quát đến nhóm đối tượng SV lớn tuổi và một số nhóm SV yếu thế. Đặc biệt, các tác giả nước ngoài đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt động tham vấn tâm lí trong nhà trường và vai trò cần thiết của đội ngũ các nhà tâm lí học trong việc hỗ trợ, tham vấn học đường nhằm cải thiện môi trường lớp học, trường học, thúc đẩy sự phát triển tâm lí tích cực của SV; từ đó giảm thiểu và hạn chế KKTL ở các em trong quá trình học tập. 2.3. Những nghiên cứu ở trong nước về khó khăn tâm lí trong hoạt động học tập nghề nghiệp của sinh viên các trường cao đẳng, đại học Ở Việt Nam, KKTL trong hoạt động học tập nghề ... các khó khăn khác (sức khỏe, áp lực, gia đình, chỗ ở, làm thêm, xin việc) [26]. Như vậy, có thể thấy, biểu hiện KKTL trong hoạt động học tập của SV là vấn đề được nhiều tác giả trong nước quan tâm nghiên cứu. Đa số tác giả cho rằng, VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142 140 KKTL của SV rất đa dạng, phức tạp, biểu hiện chủ yếu ở ba mặt nhận thức, thái độ/xúc cảm và hành vi/kĩ năng trong các khâu của hoạt động học tập. Tuy nhiên, còn ít nghiên cứu đi sâu chỉ ra các biểu hiện KKTL trong hoạt động học tập với ba khâu cơ bản là học tập trên lớp; tự học, tự nghiên cứu và thực hành nghề, đặc biệt là hoạt động học nghề với vấn đề quan trọng nhất của hoạt động này là việc thực hiện các nhiệm vụ trong khâu thực hành nghề của SV dân tộc ít người các trường CĐ nghề. 2.3.2. Những nghiên cứu về các nguyên nhân dẫn đến khó khăn tâm lí trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học Nghiên cứu về các nguyên nhân dẫn đến KKTL trong hoạt động học tập của SV, các tác giả trong nước đã chỉ ra nhiều nguyên nhân khác nhau. Theo tác giả Nguyễn Thế Hùng (2008), có nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan gây ra các KKTL trong học tập của SV năm thứ nhất Trường CĐ Bến Tre, trong đó nguyên nhân chính là do chưa có phương pháp học tập hợp lí, chưa quen với môi trường học tập ở trường CĐ; do thiếu sách, giáo trình, tài liệu tham khảo [27]. Nghiên cứu của tác giả của tác giả Đặng Thị Lan (2016) cho thấy nguyên nhân dẫn đến KKTL của SV dân tộc thiểu số khi học ngoại ngữ ở Trường ĐH Ngoại ngữ là chưa có phương pháp học ngoại ngữ phù hợp, những biến động lớn về môi trường học tập [21]. Bên cạnh việc tìm hiểu những nguyên nhân gây ra những KKTL trong hoạt động của SV các trường CĐ, ĐH tác giả Đỗ Văn Bình (2008) còn nghiên cứu sự ảnh hưởng của những KKTL đến hoạt động học tập của SV, đó là KKTL trong hoạt động học tập có ảnh hưởng tới sự phát triển tâm lí, nhân cách của SV năm thứ nhất. Sự ảnh hưởng trải đều tới tất cả các mặt trong sự phát triển tâm lí, nhân cách của SV. Ảnh hưởng nhiều nhất là làm cho SV “không hứng thú đến lớp, bỏ giờ, bỏ tiết” và “gây tâm lí căng thẳng, stress” [28]. Từ những phân tích ở trên, có thể thấy rằng, có nhiều nguyên nhân dẫn đến KKTL trong hoạt động học tập của SV các trường CĐ, ĐH. Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan bên trong xuất phát từ chính chủ thể học tập là SV, thì những điều kiện khách quan bên ngoài cũng sẽ là những nguyên nhân khiến cho hoạt động học nảy sinh khó khăn nói chung và KKTL nói riêng. 2.3.3. Những nghiên cứu về các biện pháp giảm thiểu khó khăn tâm lí trong học tập của sinh viên cao đẳng, đại học Tác giả Nguyễn Thế Hùng (2008) cho rằng, để hạn chế những KKTL này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, giảng viên và SV, cũng như cần thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, hướng dẫn SV phương pháp học tập để từ đó hình thành cho SV phương pháp học tập hợp lí [27]. Tác giả Đặng Thị Lan (2016) đề xuất một số ý kiến nhằm giúp SV dân tộc thiểu số có thể giảm thiểu các KKTL để đạt kết quả cao trong hoạt động học ngoại ngữ. “Về phía nhà trường: nhà trường, các đơn vị đào tạo, các phòng ban chức năng và cán bộ, giảng viên cần giúp SV dân tộc thiểu số năm thứ nhất nhanh chóng làm quen với môi trường học tập mới ngay từ những ngày đầu tiên vào học ở trường. Phòng Đào tạo nên phối hợp với các bộ phận liên quan tổ chức cho SV dân tộc thiểu số năm thứ nhất một buổi nói chuyện về “Phương pháp học ngoại ngữ” để có thể nắm được phương pháp học ngoại ngữ phù hợp. Về phía giảng viên dạy ngoại ngữ: cần thống nhất việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực, tự nghiên cứu, rèn luyện của SV dân tộc thiểu số. Mặt khác, cần quan tâm hơn đến việc hướng dẫn phương pháp học ngoại ngữ cho SV dân tộc thiểu số để giảm bớt những KKTL cho các em khi tiếp cận phương pháp giảng dạy mới ở ĐH. Về phía SV dân tộc thiểu số năm thứ nhất: cần hình thành phương pháp học ngoại ngữ trên cơ sở rèn luyện các kĩ năng học tập ở ĐH; tích cực, chủ động trong quá trình học ngoại ngữ góp phần giảm bớt KKTL để nâng cao kết quả học tập” [21; tr 16]. Đỗ Thị Hạnh Phúc và Triệu Thị Hương (2007) nhận thấy rằng, để giải quyết những KKTL nảy sinh trong hoạt động học tập của SV Học viện Cảnh sát Nhân dân, “SV đã sử dụng nhiều cách ứng phó chưa thật sự mang lại hiệu quả mong muốn như sử dụng biện pháp hướng vào bản thân hoặc âm thầm chịu đựng. Do đó, theo các tác giả, vấn đề đặt ra là cần nhanh chóng xây dựng một mô hình trợ giúp tâm lí phù hợp cho SV nhằm giúp họ ứng phó hiệu quả khi gặp phải những KKTL trong học tập và rèn luyện” [23; tr 22-27]. 2.4. Một số nhận xét Qua những nghiên cứu về KKTL trong học nghề của SV, chúng tôi đưa ra một số nhận xét dưới đây: Thứ nhất, bước vào môi trường ĐH, CĐ là bước ngoặt quan trọng đối với SV. Do đó, trên cơ sở xem xét các đặc điểm tâm, sinh lí của SV trong mối tương quan với hoạt động học tập, nhiều công trình nghiên cứu đã bàn luận khá sâu về những KKTL mà SV phải đối diện trong quá trình từ khi bắt đầu nhập học cho đến khi tốt nghiệp, nhấn mạnh nếu các KKTL được giải quyết thì đồng nghĩa với việc SV đã chuyển đổi từ những yêu cầu bên ngoài thành những yêu cầu bên trong bản thân họ và họ vượt qua những yêu cầu, đạt được các giá trị cuộc sống. Ngược lại, họ sẽ gặp KKTL, là một “lực cản bản thân” khiến họ khó thành công trong cuộc sống. Thứ hai, các nghiên cứu trên thế giới đã phân chia các nhóm khó khăn mà SV thường gặp phải khi học ở trường CĐ, ĐH; phân tích thực trạng, xác định nguyên nhân gốc VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142 141 rễ cũng như nhấn mạnh vai trò quan trọng về nền tảng, sự chuẩn bị cũng như sức khỏe tinh thần tích cực sẽ giúp SV điều chỉnh bản thân thích nghi tốt với môi trường học tập mới. Đặc biệt, đối với đối tượng SV thiệt thòi, có hoàn cảnh khó khăn, các nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố tâm lí - xã hội quan trọng ảnh hưởng tới kết quả học tập của nhóm SV này và nhấn mạnh các nhà hoạch định chính sách, nhà lãnh đạo và nhà trường cần hiểu rõ các yếu tố này vừa mang tính rủi ro, rào cản, vừa mang tính động lực, cơ hội đối với SV trong quá trình học tập. Theo các tác giả, tại các trường ĐH, CĐ ở nước ngoài, bộ phận tham vấn tâm lí có nhiệm vụ hỗ trợ SV nhằm xác định và đạt được các mục tiêu cá nhân, học tập và nghề nghiệp thông qua cung cấp tư vấn về việc phát triển, ngăn chặn và phòng ngừa các vấn đề về KKTL. Thứ ba, ở Việt Nam, các nghiên cứu cho thấy những biểu hiện KKTL trong hoạt động học tập của SV khá đa dạng, chủ yếu tập trung ở các mặt nhận thức, cảm xúc thái độ và hành vi, kĩ năng Theo các tác giả, có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra các KKTL, đòi hỏi SV cần trải qua quá trình thích ứng, tham gia vào hoạt động học tập ở trường ĐH nhằm lĩnh hội được những yêu cầu của các hành động học tập mới. Đặc biệt, đối với nhóm SV thiệt thòi, những KKTL trong học tập lại càng nặng nề hơn, do đó cần có sự phối hợp giữa nhà trường, các khoa, cán bộ giảng viên cũng như bản thân SV nhằm giúp SV khắc phục KKTL để đạt kết quả cao trong học tập. 3. Kết luận KKTL trong hoạt động học nghề của SV là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu để phát huy hiệu quả hoạt động học tập của SV. KKTL được biểu hiện ở sự lo lắng, căng thẳng, chán nản, mệt mỏi trong quá trình học tập làm ảnh hưởng đến kết quả. Nguyên nhân dẫn đến những KKTL này là do chưa quen với môi trường học tập ở trường cao đẳng, đại học, SV còn thiếu hụt các kĩ năng, chưa có phương pháp học tập hợp lí, do thiếu sách, giáo trình, tài liệu tham khảo và những KKTL trong việc tự nhận thức, nhận thức và thái độ đối với học tập Ngoài ra, KKTL còn gây ảnh hưởng tới sự phát triển tâm lí, nhân cách của SV. Việc xác định được những KKTL và những nguyên nhân dẫn đến KKTL sẽ giúp cho SV, giảng viên, lãnh đạo nhà trường, các nhà hoạch định chính sách tìm ra các giải pháp hợp lí. Tài liệu tham khảo [1] Quốc hội (2014). Luật Giáo dục nghề nghiệp, số 74/2014/QH13, ngày 27/11/2014. [2] Andrew B. - Wilding J. M. (2004). The relation of depression and anxiety to life-stress and achievement in students. British Journal of Psychology, Vol. 95 (4), pp. 509-522. [3] Sarason I. G. - Sarason B. R. (2002). Abnormal Psychology: the Problem of Maladaptive Behavior, Upper Saddle River, N.J: Prentice Hall. [4] Palmer, S. - Puri, A. (2006). Coping with stress at university: A survival guide. SAGE Publication, London. [5] Sade, D. - Coll, R. K. (2003). Technology and technology education: Views of some Solomon Island primary teachers and curriculum development officers. International Journal of Science and Mathematics Education, Vol. 1, pp. 87-114. [6] Gallagher, R. - Sysko, H. - Zhang, B. (2001). National survey of counseling center directors. Alexandria, VA: International Association of Counseling Services. [7] Gallagher, R. - Gill, A. - Sysko, H. (2000). National survey of counseling center directors. Alexandria, VA: International Association of Counseling Services. [8] Higher Education Research Institute, University of California, Los Angeles (HERI, UCLA) (2000). The American freshman: National norms for fall 2000. Los Angeles: HERI, UCLA. [9] Cross, K. P. (1978). The Missing Link: Connecting Adult Learners to Learning Resources. New York: College Entrance Examination Board. [10] Cross, K. P. (1986). Adults as Learners. San Francisco, CA: Jossey-Bass Publishers. [11] Darkenwald, G. G. - Merriam, S. B. (1982). Adult Education; Foundations of Practice. New York: Harper - Row, Publishers. [12] Merriam, S. B. (1984). Adult development; implications for adult education. (Information Series No. 282). Columbus, OH: The Ohio State University, The National Center for Research in Vocational Education. (ERIC Clearinghouse on Adult, Career, and Vocational Education No. ED 246 309), pp. 1-3. [13] Safree Md. A. - Yasin Md. - Dzulkifli M.A.D. (2009). Differences in Psychological Problem between Low and high Achieving Students. The Journal of Behavioral Science, Vol. 4 (1), pp. 49-58. [14] Segrin Chris - Flora Jeanne (2000). Poor Social Skills Are a Vulnerability Factor in the Development of Psychosocial Problem, Human Communication Research, Vol. 26 (3), pp. 489-514. [15] Brackney, B. - Karabenick, S. (1995). Psychopathology and academic performance: The VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142 142 role of motivation and learning strategies. Journal of Counseling Psychology, Vol. 42 (4), pp. 456-465. [16] Goodwin, L. L. (2006). Graduating Class: Disadvantaged Students Crossing the Bridge of Higher Education. State University of New York Press, Albany. [17] Caplan, G. (1970). The theory and practice of mental health consultation. New York: Basic Books. [18] Friend, M. - Cook, L. (1996). Collaboration skills for school professionals (2nd ed). National Professional Resources, Inc. [19] Archer and Cooper (1998). Counseling and mental health service on campus: A handbook of contemporary practices and challenges. San Francisco: Jossey Bass. [20] Nguyễn Xuân Thức - Đào Thị Lan Hương (2007). Phân tích các biểu hiện khó khăn tâm lí trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất sư phạm. Tạp chí Tâm lí học, số 09, tr 14-21. [21] Đặng Thị Lan (2015). Khó khăn tâm lí trong hoạt động học ngoại ngữ của sinh viên dân tộc thiểu số năm thứ nhất ở Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội: Nghiên cứu nước ngoài, số 31 (3), tr 33-43. [22] Phạm Văn Tuân (2013). Khó khăn tâm lí trong hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Trà Vinh. Tạp chí Tâm lí học, số7, tr 31-35. [23] Đỗ Thị Hạnh Phúc - Triệu Thị Hương (2007). Những khó khăn tâm lí của sinh viên Học viện Cảnh sát Nhân dân. Tạp chí Tâm lí học, số 9 (102), tr 22-27. [24] Nguyễn Thị Út Sáu (2009). Nguyên nhân gây nên khó khăn tâm lí trong học tập theo học chế tín chỉ của sinh viên hệ cử tuyển Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên. Tạp chí Giáo dục, số 218, tr 15- 21. [25] Nguyễn Thị Hoài (2007). Sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất người dân tộc thiểu số. Tạp chí Tâm lí học, số 4 (97), tr 27 - 35. [26] Trần Thị Tú Anh (2010). Những khó khăn của sinh viên thiệt thòi trong thời gian học tại Đại học Huế. Tạp chí Khoa học, trường Đại học Huế, số 62, tr 5-16. [27] Nguyễn Thế Hùng (2008). Khó khăn tâm lí trong học tập của sinh viên năm thứ nhất Trường Cao đẳng Bến Tre. Tạp chí Tâm lí học, số 5 (110), tr 55-59. [28] Đỗ Văn Bình (2008). Khó khăn tâm lí trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất Trường Cao đẳng sư phạm Quảng Trị. Tạp chí Tâm lí học, số 2, tr 59-63. THỰC TRẠNG NHẬN THỨC... (Tiếp theo trang 135) Kết quả nghiên cứu trên đây giúp chúng tôi đề xuất chương trình tập huấn cho GVMN về đặc điểm/nhận biết trẻ RLPT và các cách thức hỗ trợ/giáo dục cho trẻ có RLPT trên địa bàn TP. Đà Nẵng trong thời gian tới. Tài liệu tham khảo [1] Bộ GD-ĐT (2008). Quyết định số 02/2008/QĐ- BGDĐT ngày 22/01/2008 ban hành quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non. [2] Bộ GD-ĐT - Bộ Nội vụ (2015). Thông tư liên tịch số 20/2015/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 14/09/2015 quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non. [3] Segen Joseph C. (2006). Concise Dictionary of Modern Medicine (Illustrated ed.). McGraw-Hill. [4] Dickerson, AS - Rahbar, MH - Pearson, DA. (2017). Autism spectrum disorder reporting in lower socioeconomic neighborhoods. Autism, Vol. 21 (4), pp. 470-480. [5] K.D. Macey (2005). Attention-deficit/hyperactivity disorder: teacher knowledge and referral for assessment. Doctoral dissertation, Texas A&M University. [6] M. Ives - N. Munro (2002). Caring For A Child With Autism. Jessica Kingsley Publishers, London, UK. [7] Sandin, S. - Schendel, D - Magnusson, P. (2016). Autism risk associated with parental age and with increasing difference in age between the parents. Molecular Psychiatry Vol. 21 (5), pp. 693-700 [8] Janvier, YM - Harris, JF - Coffield, CN. (2016). Screening for autism spectrum disorder in underserved communities: early childcare providers as reporters. Autism, Vol. 20 (3), pp. 364-373. [9] American Psychitric Association (APA) (2013). Diagnostic and Statistical Manual Of Mental Disorders (DSM-5). Fifth Edition, published. [10] F.R. Volkmar - R. Paul - A. Klin - D. Cohen (2005). Handbook of Autism and Pervasive Developmental Disorders. Volume Two, Published by John Wiley & Sons, Inc., U.S. [11] Trần Văn Công - Vũ Thị Minh Hương (2011). Xung quanh vấn đề chẩn đoán trẻ tự kỉ hiện nay. Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa học Xã hội và Nhân văn, số 27, tr 1-8. [12] Crowe, BHA - Salt, AT (2015). Autism: the management and support of children and young people on the autism spectrum (NICE Clinical Guideline 170). Archives of Disease in Childhood - Education and Practice, Vol. 100 (1), pp. 20-23.
File đính kèm:
- mot_so_nghien_cuu_ve_kho_khan_tam_li_trong_hoc_tap_nghe_nghi.pdf