Một số giải pháp nâng cao nhận thức áp dụng kế toán đối với khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam hiện nay
Khu vực kinh tế phi chính thức (KTPCT) từ lâu vẫn thường bị bỏ ngỏ bởi sự phát triển nhỏ lẻ và là khu vực kinh tế vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát và sự hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, không vì vậy mà nó mất đi sự phát triển, cũng như gia tăng về số lượng trong thời gian qua. Hầu hết các đối tượng trong khu vực KTPCT thường không thực hiện công tác kế toán theo
quy phạm chung. Trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu và rộng như hiện nay thì việc quản lý kinh tế càng
được quan tâm nhiều hơn, cũng từ đó vai trò của kế toán đối với khu vực này cũng càng được chú trọng và
cần được định hướng phát triển. Vì vậy, cần có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao nhận thức cho việc
áp dụng kế toán đối với khu vực KTPCT ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số giải pháp nâng cao nhận thức áp dụng kế toán đối với khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam hiện nay
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 49Số 116 - tháng 6/2017 *Khoa Kế toán - Đại học Duy Tân MOÄT SOá GIAûI PHAÙP NAÂNG CAO NHAÄN THÖÙC AÙP dUÏNG KEá TOAÙN ÑOáI VÔÙI KHU VÖÏC KINH TEá PHI CHÍNH THÖÙC Ôû VIEÄT NAM HIEÄN NAy ThS. DƯơNG THị THaNH HIềN* ThS. NGuyỄN THị ĐOaN TraNG* Khu vực kinh tế phi chính thức (KTPCT) từ lâu vẫn thường bị bỏ ngỏ bởi sự phát triển nhỏ lẻ và là khu vực kinh tế vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát và sự hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, không vì vậy mà nó mất đi sự phát triển, cũng như gia tăng về số lượng trong thời gian qua. Hầu hết các đối tượng trong khu vực KTPCT thường không thực hiện công tác kế toán theo quy phạm chung. Trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu và rộng như hiện nay thì việc quản lý kinh tế càng được quan tâm nhiều hơn, cũng từ đó vai trò của kế toán đối với khu vực này cũng càng được chú trọng và cần được định hướng phát triển. Vì vậy, cần có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao nhận thức cho việc áp dụng kế toán đối với khu vực KTPCT ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: kế toán, nhận thức, khu vực kinh tế phi chính thức A number of accounting awareness-raising measures for the informal economy in Vietnam today The informal economy has long been abandoned because of its small scale development and is the economic sector that is out of control and state support. Not so, however, that it lost its development, as well as the increase in the number of times. Most people and organizations in the area do not usually perform accounting work in accordance with general rules. In the context of the country’s deep and wide integration, the economic management is paid more attention and thus the role of accounting for this area is also focused and should be oriented development. Therefore, there should be effective measures to raise awareness of the application of accounting to the Vietnam informal economy in the current period. keywords: accounting, awareness, informal economy Giới thiệu về khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam Khu vực KTPCT được định nghĩa là “tất cả các doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân, sản xuất ít nhất một hoặc một vài sản phẩm và dịch vụ để bán hoặc trao đổi, không đăng kí kinh doanh (không có giấy phép kinh doanh) và không thuộc ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản” (gọi tắt là ngành nông nghiệp) (theo Định nghĩa của ILO – Tổ chức Lao động Thế giới). Cũng theo ILO 2002 thì Kinh tế phi chính thức bao gồm khu vực kinh tế phi chính thức và việc làm phi chính thức. TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN50 Số 116 - tháng 6/2017 Thực tế khu vực KTPCT tồn tại từ lâu và đã trở thành một bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế của tất cả các nước trên thế giới, trong đó đương nhiên có một nước đang phát triển như Việt Nam. Hoạt động của nó xuất hiện khắp mọi nơi và phát triển vô cùng mạnh mẽ, phong phú, như các hộ kinh doanh cá thể, các hình thức buôn bán nhỏ lẻ, các loại hình dịch vụ phát triển tự phát (kinh doanh vỉa hè, xe ôm, may vá quần áo...). Có thể coi khu vực phi chính thức như là một bộ phận của khu vực thể chế hộ gia đình (Hệ thống Tài khoản Quốc gia SNa 1993). Các đơn vị sản xuất thuộc khu vực phi chính thức được phân biệt bao gồm hai nhóm: (i) doanh nghiệp phi chính thức của lao động tự làm việc cho bản thân và không sử dụng lao động làm thuê thường xuyên; (ii) doanh nghiệp của các chủ sử dụng lao động phi chính thức sử dụng lao động làm thuê có tính chất thường xuyên. Đặc điểm chính của khu vực này là: Do các hộ kinh doanh gia đình điều hành và thực hiện; Tài sản dùng cho sản xuất kinh doanh là tài sản thuộc sở hữu cơ sở kinh doanh; Không đăng ký kinh doanh, không thực hiện công tác kế toán đầy đủ; Điều kiện lao động tại khu vực này thường không đảm bảo; Người lao động làm việc không ổn định, thu nhập thấp và không được hưởng bất kỳ các chính sách xã hội nào (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế). Một khảo sát mới đây cho thấy tốc độ tăng trưởng và thay đổi về cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của khu vực KTPCT đang diễn ra rất mạnh. Với mức tăng bình quân khoảng 7%/năm, cơ cấu loại hình kinh doanh cũng thay đổi đáng kể. Đáng nói nhất là ngành kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn, tăng 132% hay đối với dịch vụ tài chính tín dụng tăng tới 32%. Nét nổi bật trong việc các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể tham gia vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế có thể thấy rõ nét qua việc phát triển của các làng nghề. Với trên 400 làng nghề, hiện nay tổng mức hàng hoá xuất khẩu từ các sản phẩm của làng nghề đã vượt quá con số 500 triệu uSD (không kể các sản phẩm đồ gỗ). Khu vực kinh tế phi chính thức tồn tại như một tất yếu khách quan, luôn luôn chịu sự tác động của các qui luật kinh tế, của chính sách phát triển kinh tế - xã hội nhưng lại nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước và không được hưởng sự hỗ trợ nào từ phía Nhà nước. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tổng số hộ sản TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 51Số 116 - tháng 6/2017 xuất kinh doanh cá thể phi nông nghiệp trên cả nước là 4,658 triệu hộ năm 2014, và 4,536 triệu hộ năm 2013. Đây là một con số tăng trưởng ấn tượng trong suốt 10 năm qua tại Việt Nam. Tính đến năm 2014, số việc làm mà khu vực kinh tế này tạo ra là khoảng 7,9 triệu lao động. Trong đó, khu vực kinh tế tư nhân trong nước đã đóng góp gần 50% GDP, riêng khu vực kinh tế cá thể đã đóng góp tới trên 33% GDP. Phần lớn người lao động Việt Nam vẫn thuộc bộ phận phi chính thức - ở đó điều kiện làm việc không đảm bảo, trả công không đủ trang trải cuộc sống cũng như không được bảo vệ. Tuy nhiên, phải thừa nhận và khẳng định trên thực tế vai trò và vị trí của khu vực KTPCT trong sự phát triển kinh tế xã hội, bởi đây cũng là một bộ phận của nền kinh tế và sẽ còn tồn tại lâu dài, góp phần vào sự phát triển của đất nước. Thực trạng nhận thức về áp dụng kế toán đối với khu vực kTPCT Hiện nay, số lượng các cá thể tham gia khu vực KTPCT ngày càng nhiều, toàn quốc có trên 3 triệu cơ sở kinh doanh cá thể, mức tăng bình quân hàng năm khoảng 5%. Khu vực kinh tế này cũng đóng góp tới 72% tỷ trọng tổng thu thuế môn bài mà ngành thuế thu được. Tuy vậy, số thu từ khu vực kinh tế này được đánh giá là nhỏ, nhiều nơi còn có biểu hiện thất thu. Ngành thuế dự kiến sẽ mở rộng việc áp dụng chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ đối với thành phần kinh tế hộ tư nhân. Tuy nhiên, một thực trạng diễn ra là hầu hết các hộ gia đình, cá nhân kinh doanh đều chưa thực hiện công tác kế toán theo quy định chung. Ngày 25 tháng 10 năm 2000. Bộ Tài chính ra quyết định số 169-2000/QĐ-BTC quy định về Chế độ kế toán hộ kinh doanh, kèm với đó là quyết định 131 - 2002/ QĐ-BTC sửa đổi, bổ sung. Theo đó, kế toán hộ kinh doanh phải ghi chép đầy đủ, chính xác, kịp thời, trung thực mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ. Hiện nay, hầu hết các hộ kinh doanh đều ghi chép lại các hoạt động kinh doanh của mình theo một cách riêng để quản lý, để dễ nhớ, nhưng không theo một quy chuẩn chung nào. Họ cũng không quan tâm nhiều đến công tác kế toán, bởi tính chất nhỏ lẻ và chỉ cần ghi chép những gì cần thiết. Việc đó cũng phần nào hợp lý đối với các trường hợp kiểu kinh doanh như tạp hóa nhỏ, quán ăn nhỏ, quầy photocopy, sửa chữa xe máy... Tuy nhiên, các kiểu kinh doanh khác với quy mô lớn hơn cần thiết phải có sự ghi chép thu - chi hằng ngày, sử dụng hóa đơn, mở sổ chi tiết theo dõi từng hoạt động, từng loại hàng... thì vẫn chưa áp dụng và gần như bỏ ngỏ. Và thực tế Chế độ kế toán hay bất kỳ quyết định liên quan nào của Nhà nước đưa ra cũng chưa được sự hưởng ứng, quan tâm hay tác động nhiều đến khu vực KTPCT này. Ngoài những hộ kinh doanh nhỏ không cần đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, thì những hộ sản xuất kinh doanh theo quy định phải đăng ký nhưng không đăng ký kinh doanh (phi chính thức không hợp pháp) lại là vấn đề cần quan tâm và cần áp dụng công tác kế toán một cách triệt để. Các hộ sản xuất kinh doanh kiểu này thường không ghi chép, không báo cáo tất cả các hoạt động kinh doanh, giấu doanh thu, có thuê lao động nhưng không ký hợp đồng lao động... Các hộ kinh doanh này cũng không phát hành hóa đơn Giá trị gia tăng khi khách hàng yêu cầu, dẫn tới khó tiếp cận với các khách hàng lớn (cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp trong nước, ngoài nước) đòi hỏi phải có chứng từ khi giao dịch. Theo quy định của Nhà nước, hộ kinh doanh cá thể sẽ có 3 khoản thuế phải nộp: thuế môn bài, thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân căn cứ theo hình thức quản lý của hộ kinh doanh đó. Các hộ kinh doanh thường cho rằng làm việc với cơ quan thuế phức tạp và chấp nhận với cách tính thuế khoán (ngoài thuế môn bài bắt buộc). Cách tính thuế khoán là dựa trên số liệu kê khai của hộ kinh doanh, cơ quan thuế để ấn định mức thuế và mức thuế này cố định trong cả năm. Nếu hộ, cá nhân kinh doanh có mức doanh thu hàng năm dưới 100 triệu đồng thì thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT (tức không phải nộp thuế GTGT), nhưng vẫn phải nộp thuế môn bài và thuế TNCN (Theo khoản 25 điều 4, TT 219/2013/TT-BTC). Phương pháp xác định TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN52 Số 116 - tháng 6/2017 thuế giá trị gia tăng (GTGT) phải nộp của các hộ kinh doanh là nếu tính trực tiếp trên doanh thu thì số thuế GTGT phải nộp được xác định bằng tỷ lệ % (x) doanh thu; Nếu theo phương pháp khoán thì xác định thuế GTGT phải nộp theo tỷ lệ % trên doanh thu của hộ khoán. Nhìn chung đây cũng là một cách quản lý nhưng chưa thực sự triệt để, cả 2 phía là hộ kinh doanh và cơ quan thuế đều chưa có sự quan tâm, quản lý cần thiết đối với hoạt động kinh doanh và theo dõi doanh thu, chi phí rõ ràng. Về phía các hộ kinh doanh có sử dụng lao động bình quân trên 10 người, doanh thu sản xuất đều đặn trong cả năm, nộp thuế theo phương pháp khoán có doanh thu trên 100 triệu/năm sẽ nộp thuế theo tỷ lệ trên doanh thu, khai thuế 1 lần/ năm. Từ đầu năm 2016, doanh thu tính thuế được căn cứ vào doanh thu khoán và doanh thu trên hóa đơn, không phân biệt hóa đơn sử dụng theo quyển hay hóa đơn sử dụng lẻ theo từng số, có nghĩa là hộ kinh doanh phải đóng thêm thuế riêng cho mỗi hóa đơn xuất bán cho khách hàng, ngoài khoản thuế đóng dựa trên doanh thu khoán và được xuất hóa đơn trong phạm vi cho phép (tính trên số thuế khoán) như hiện nay. Với cách tính thuế khoán như thế sẽ không có lợi cho các hộ kinh doanh. Trong đó, quy định mới về cách tính “thuế khoán” đã tác động đến tâm lý của hơn 3 triệu hộ kinh doanh trên cả nước. Việc “đánh” thuế trực tiếp trên doanh thu khiến nhiều hộ kinh doanh cá thể sẽ phải nộp thuế nhiều hơn vì không được trừ chi phí đầu vào, không được giảm trừ gia cảnh như trước... Theo Tổng cục Thuế, mặc dù thuế môn bài thu từ cơ sở sản xuất kinh doanh hộ cá thể chiếm 72% tổng thuế môn bài nhưng thuế GTGT thu được chỉ chiếm 9,8% tổng thu thuế GTGT và thuế thu nhập DN chỉ chiếm 14,7%. Tương tự, thuế tiêu thụ đặc biệt là 0,3% và thuế tài nguyên là 5%. Thực tế khảo sát cho thấy mặc dù nhiều cở sản xuất kinh doanh cá thể có quy mô khá lớn, thậm chí lớn hơn cả các doanh nghiệp thuộc loại nhỏ song vẫn tồn tại ở dạng cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể (thuộc khu vực kinh tế phi chính thức) mà không chuyển đổi sang các loại hình Doanh nghiệp (khu vực kinh tế chính thức). Việc duy trì mô hình cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể không những làm mất đi cơ hội phát triển, giá trị gia tăng của chính các cơ sở này mà còn tạo thêm khó khăn trong việc quản lý đối với ngành thuế. Ngoài ra, Chế độ kế toán áp dụng cho hộ kinh doanh được ban hành năm 2000, trước khi Luật Kế toán có hiệu lực (01/01/2004), điều này bộc lộ nhiều điểm bất cập. Chế độ kế toán hộ kinh doanh không nêu khái niệm về doanh thu, chi phí nên nội dung và phạm vi doanh thu, chi phí không được xác định rõ ràng; Chế độ kế toán hộ kinh doanh không đề cập đến thời điểm ghi nhận doanh thu, chi phí và cách xác định chi phí trong trường hợp sử dụng cho hoạt động kinh doanh lẫn với tiêu dùng của hộ gia đình nên thu nhập để tính chi phí trong kỳ không phản ánh đúng nghĩa vụ thuế hộ kinh doanh phải nộp; Vấn đề về chiết khấu thương mại, giảm giá, khuyến mại chưa được đặt ra để giải quyết. Quy định hộ kinh doanh vẫn sử dụng chứng từ bắt buộc và chứng từ hướng dẫn, dẫn đến sự không thống nhất giữa các chủ thể tham gia vào thị trường trong sử dụng hóa đơn chứng từ. Đối với phương pháp tính thuế GTGT, theo Thông tư 92/2015/TT-BTC, số thuế GTGT phải nộp được xác định bằng tỷ lệ % để tính thuế GTGT trên doanh thu và được quy định theo từng lĩnh vực hoạt động. Tuy nhiên, việc áp dụng tính thuế như trên đã tạo ra nhiều bất cập. Quy định không tính đến quy mô hoạt động, doanh thu tạo ra trong kỳ tính thuế nhiều hay ít, dẫn đến thực trạng có hộ kinh doanh hoạt động với mức doanh thu lớn nhưng vẫn áp dụng thuế khoán vì không có số liệu ghi chép trên sổ kế toán. Trong bối cảnh đất nước hội nhập phát triển, gia nhập TPP và aEC đều hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, thúc đẩy thương mại, thu hút đầu tư dựa trên lợi thế của một thị trường mở, thống nhất và thực sự là một thời cơ lớn. Bên cạnh đó cũng có những khó khăn, thách thức không nhỏ. Khu vực KTPCT cũng không nằm ngoài quy luật chung này. Nền kinh tế cạnh tranh gắt gao hơn và đòi hỏi sự chuyên nghiệp hơn, các hình TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 53Số 116 - tháng 6/2017 thức kinh doanh thuộc khu vực KTPCT phải thực sự nỗ lực, nâng cao chất lượng sản phẩm, cũng như đòi hỏi áp dụng triệt để các chính sách hỗ trợ thêm của Chính phủ để thực sự mang lại thêm nhiều lợi ích cho nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, việc không kê khai đầy đủ và áp dụng đúng quy trình sổ sách kế toán, lập hóa đơn, chứng từ, xác định đúng doanh thu bán hàng trên cơ sở áp dụng Chế độ kế toán là một rào cản lớn cho sự phát triển lâu dài. Do đó, cần hơn hết là phải có các giải pháp để nâng cao nhận thức áp dụng kế toán cho khu vực kinh tế này thích ứng hơn với xu thế hội nhập, mở rộng hoạt động sản xuất, thực hiện công tác kế toán và có thể nộp thuế như các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế chính thức. Một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức áp dụng kế toán trong khu vực kTPCT Thứ nhất, Bộ Tài chính cần sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Chế độ kế toán hộ kinh doanh cho phù hợp với thực tiễn phát triển, phù hợp với quy định quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, tránh thất thu thuế, đồng thời dễ dàng hơn cho các nhóm đối tượng thuộc khu vực KTPCT thực hiện. Quyết định 169/2000/QĐ-BTC và sửa đổi, bổ sung theo quyết định 131/2002/QĐ-BTC đã quá cũ và không còn phù hợp với giai đoạn phát triển này, cần phải bổ sung thay đổi và hoàn thiện theo định hướng như: Cần đưa ra khái niệm doanh thu, chi phí phù hợp với quy định của Luật Kế toán hiện nay. Xác định rõ nội dung, phạm vi xác định doanh thu, chi phí để thống nhất quản lý thông tin với các đối tượng khác. Đồng thời, cần quy định cụ thể điều kiện ghi nhận doanh thu, chi phí để thống nhất quản lý doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh trong kỳ tính thuế, trên cơ sở đó xác định đúng đắn nghĩa vụ thuế mà hộ kinh doanh phải nộp. Cần đưa ra các quy định cụ thể về các vấn đề chiết khấu thương mại, giảm giá, khuyến mại Cần bỏ các quy định về chứng từ bắt buộc và chứng từ hướng dẫn, để đảm bảo tính thống nhất trong quy định về sử dụng hóa đơn, chứng từ đối với tất cả các thành phần kinh tế. Cần hoàn thiện các quy định về sổ kế toán để tạo thuận lợi cho các hộ kinh doanh trong ghi chép sổ sách, quản lý và kiểm soát được hoạt động và là căn cứ để cơ quan thuế xác định phương pháp tính thuế, mức thuế phải nộp: Nhóm hộ kinh doanh có doanh thu dưới 100 triệu đồng, không yêu cầu mở sổ kế toán bắt buộc và áp dụng theo phương pháp tính thuế khoán như hiện nay; Nhóm hộ kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng đến 500 triệu đồng, yêu cầu mở sổ theo dõi doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh và sổ tồn kho vật liệu, hàng hóa; cách xác định thuế GTGT phải nộp dựa vào thông tin về doanh thu, chi phí và thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế; Nhóm hộ kinh doanh có doanh thu trên 500 triệu đồng, yêu cầu mở sổ theo dõi doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh và sổ tồn kho vật liệu, hàng hóa, sổ theo dõi tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, sổ theo dõi tài khoản thuế và các khoản phải thu, phải trả. Cách xác định thuế GTGT phải nộp dựa vào thông tin về doanh thu, chi phí và thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế. TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN54 Số 116 - tháng 6/2017 Cần hoàn thiện cách tính thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT để đảm bảo phát huy được tính ưu việt của thuế GTGT. Không nên áp dụng tính thuế GTGT phải nộp theo tỷ lệ % trên doanh thu nhằm tránh tình trạng thu thuế trùng thuế, phù hợp với bản chất của phương pháp tính là trực tiếp trên GTGT. Thứ hai, tăng cường sự hiện diện và vai trò của kế toán trong khu vực KTPCT bằng một số cách như: Tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn về kế toán, về thuế cho các đối tượng kinh doanh tương đối lớn thuộc khu vực KTPCT với mức học phí thấp hoặc miễn phí để khuyến khích các hộ tổ chức kinh doanh có mức thu nhập ổn định (từ 100 triệu đồng/năm trở lên) biết cách quản lý và theo dõi doanh thu, chi phí, biết cách lập chứng từ, tiếp nhận chứng từ và có kê khai thuế rõ ràng. Bổ sung các quy định mang tính hướng dẫn thực hiện công tác kế toán cho các hộ kinh doanh theo hướng đơn giản, dễ thực hiện. Tiếp cận với từng cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể để tìm hiểu rõ hơn về phương thức kinh doanh, thu nhập hằng năm và hướng dẫn, bồi dưỡng trực tiếp nghiệp vụ kế toán, thuế... Thứ ba, đối với các cơ sở kinh doanh có số lao động thường xuyên trên 10 người, doanh thu ổn định (khoảng trung bình 100 triệu đồng/năm trở lên) nên được định hướng chuyển từ khu vực kinh tế phi chính thức sang khu vực kinh tế chính thức để áp dụng đầy đủ, chính xác các chính sách kế toán, thuế. Điều này là cần thiết, khi chuyển sang khu vực kinh tế chính thức sẽ được hưởng sự quan tâm, ưu đãi nhiều hơn của Nhà nước, chính sách quản lý rõ ràng hơn. Ngoài ra sẽ góp phần nâng đáng kể tính minh bạch trong mọi hoạt động Nhà nước, hạn chế đến mức thấp nhất các hoạt động không chính thức của các doanh nghiệp như hiện nay. Cuối cùng, thành công của tiến trình hội nhập và phát triển phụ thuộc vào việc tiến trình này có thể đem đến lợi ích cho doanh nghiệp, cho người lao động, gia đình của họ và cho toàn xã hội hay không. Khu vực kinh tế phi chính thức cần hơn hết sự hỗ trợ chính sách từ các Bộ, Ngành để thúc đẩy môi trường thuận lợi, tạo thêm việc làm tốt, bao gồm: các biện pháp phát triển theo làng nghề, các chính sách tiêu thụ sản phẩm, các giải pháp hỗ trợ về đào tạo, tín dụng, chính sách thuế với mục đích hỗ trợ tăng trưởng, hợp pháp hóa các ngành nghề kinh doanh theo hướng có lợi để phát triển cùng với xu thế hội nhập chung của đất nước. Ngoài ra Nhà nước cần quan tâm hơn đến các chính sách an sinh xã hội, như việc áp dụng sâu và rộng chính sách Bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với khu vực kinh tế này nhằm đảm bảo sự bình đẳng cho mọi thành phần lao động. Chính từ những sự hỗ trợ quan tâm này sẽ thúc đẩy sự phát triển, tăng doanh thu cho khu vực KTPCT, tiệm cận với mức doanh thu ổn định. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ThS. Nguyễn Thị Thu Hà, Vai trò của kế toán trong khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam, Tạp chí Tài chính kỳ 1 số tháng 4/2016. 2. ThS. Phạm Thị Thanh, Chế độ kế toán và thuế đối với hộ kinh doanh - Những vấn đề cần trao đổi, Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 6/2016. 3. Viện Khoa học Thống kê, Tổng quan về kết quả điều tra thống kê khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam và một số khuyến nghị về quản lý thông tin thị trường lao động và phát triển nguồn nhân lực, 2010. 4. Quyết định 169/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2009 của Bộ Tài chính; 5. Quyết định 131/2002/QĐ-BTC ngày 18/10/2002 của Bộ Tài chính; 6. Thông tư 92/2015/TT-BTC ngày 15/6/2015; Thông tư 156/2013/TT-BTC ngày 6/11/2013; Thông tư 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013. 7. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2014.
File đính kèm:
- mot_so_giai_phap_nang_cao_nhan_thuc_ap_dung_ke_toan_doi_voi.pdf