Một số giải pháp nâng cao nhận thức áp dụng kế toán đối với khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam hiện nay

Khu vực kinh tế phi chính thức (KTPCT) từ lâu vẫn thường bị bỏ ngỏ bởi sự phát triển nhỏ lẻ và là khu vực kinh tế vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát và sự hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, không vì vậy mà nó mất đi sự phát triển, cũng như gia tăng về số lượng trong thời gian qua. Hầu hết các đối tượng trong khu vực KTPCT thường không thực hiện công tác kế toán theo

quy phạm chung. Trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu và rộng như hiện nay thì việc quản lý kinh tế càng

được quan tâm nhiều hơn, cũng từ đó vai trò của kế toán đối với khu vực này cũng càng được chú trọng và

cần được định hướng phát triển. Vì vậy, cần có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao nhận thức cho việc

áp dụng kế toán đối với khu vực KTPCT ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

pdf 6 trang kimcuc 17260
Bạn đang xem tài liệu "Một số giải pháp nâng cao nhận thức áp dụng kế toán đối với khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số giải pháp nâng cao nhận thức áp dụng kế toán đối với khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam hiện nay

Một số giải pháp nâng cao nhận thức áp dụng kế toán đối với khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam hiện nay
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 49Số 116 - tháng 6/2017
*Khoa Kế toán - Đại học Duy Tân
MOÄT SOá GIAûI PHAÙP NAÂNG CAO NHAÄN THÖÙC
AÙP dUÏNG KEá TOAÙN ÑOáI VÔÙI KHU VÖÏC
KINH TEá PHI CHÍNH THÖÙC Ôû VIEÄT NAM HIEÄN NAy
ThS. DƯơNG THị THaNH HIềN*
ThS. NGuyỄN THị ĐOaN TraNG*
Khu vực kinh tế phi chính thức (KTPCT) từ lâu vẫn thường bị bỏ ngỏ bởi sự phát triển nhỏ lẻ và là khu vực kinh tế vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát và sự hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, không vì vậy mà nó mất đi sự phát triển, cũng như gia tăng về số lượng trong thời gian qua. Hầu hết các đối tượng trong khu vực KTPCT thường không thực hiện công tác kế toán theo 
quy phạm chung. Trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu và rộng như hiện nay thì việc quản lý kinh tế càng 
được quan tâm nhiều hơn, cũng từ đó vai trò của kế toán đối với khu vực này cũng càng được chú trọng và 
cần được định hướng phát triển. Vì vậy, cần có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao nhận thức cho việc 
áp dụng kế toán đối với khu vực KTPCT ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: kế toán, nhận thức, khu vực kinh tế phi chính thức
A number of accounting awareness-raising measures for the informal economy in Vietnam today
The informal economy has long been abandoned because of its small scale development and is the 
economic sector that is out of control and state support. Not so, however, that it lost its development, as well 
as the increase in the number of times. Most people and organizations in the area do not usually perform 
accounting work in accordance with general rules. In the context of the country’s deep and wide integration, 
the economic management is paid more attention and thus the role of accounting for this area is also focused 
and should be oriented development. Therefore, there should be effective measures to raise awareness of the 
application of accounting to the Vietnam informal economy in the current period.
keywords: accounting, awareness, informal economy
Giới thiệu về khu vực kinh tế phi chính thức 
ở Việt Nam
Khu vực KTPCT được định nghĩa là “tất cả các 
doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân, sản 
xuất ít nhất một hoặc một vài sản phẩm và dịch vụ 
để bán hoặc trao đổi, không đăng kí kinh doanh 
(không có giấy phép kinh doanh) và không thuộc 
ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản” (gọi tắt là 
ngành nông nghiệp) (theo Định nghĩa của ILO – 
Tổ chức Lao động Thế giới). Cũng theo ILO 2002 
thì Kinh tế phi chính thức bao gồm khu vực kinh 
tế phi chính thức và việc làm phi chính thức.
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN50 Số 116 - tháng 6/2017
Thực tế khu vực KTPCT tồn tại từ lâu và đã 
trở thành một bộ phận quan trọng cấu thành nền 
kinh tế của tất cả các nước trên thế giới, trong đó 
đương nhiên có một nước đang phát triển như Việt 
Nam. Hoạt động của nó xuất hiện khắp mọi nơi và 
phát triển vô cùng mạnh mẽ, phong phú, như các 
hộ kinh doanh cá thể, các hình thức buôn bán nhỏ 
lẻ, các loại hình dịch vụ phát triển tự phát (kinh 
doanh vỉa hè, xe ôm, may vá quần áo...).
Có thể coi khu vực phi chính thức như là một 
bộ phận của khu vực thể chế hộ gia đình (Hệ thống 
Tài khoản Quốc gia SNa 1993). Các đơn vị sản 
xuất thuộc khu vực phi chính thức được phân biệt 
bao gồm hai nhóm: (i) doanh nghiệp phi chính 
thức của lao động tự làm việc cho bản thân và 
không sử dụng lao động làm thuê thường xuyên; 
(ii) doanh nghiệp của các chủ sử dụng lao động phi 
chính thức sử dụng lao động làm thuê có tính chất 
thường xuyên. Đặc điểm chính của khu vực này là: 
Do các hộ kinh doanh gia đình điều hành và thực 
hiện; Tài sản dùng cho sản xuất kinh doanh là tài 
sản thuộc sở hữu cơ sở kinh doanh; Không đăng 
ký kinh doanh, không thực hiện công tác kế toán 
đầy đủ; Điều kiện lao động tại khu vực này thường 
không đảm bảo; Người lao động làm việc không 
ổn định, thu nhập thấp và không được hưởng bất 
kỳ các chính sách xã hội nào (bảo hiểm xã hội, bảo 
hiểm y tế).
Một khảo sát mới đây cho thấy tốc độ tăng 
trưởng và thay đổi về cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực 
kinh doanh của khu vực KTPCT đang diễn ra rất 
mạnh. Với mức tăng bình quân khoảng 7%/năm, 
cơ cấu loại hình kinh doanh cũng thay đổi đáng kể. 
Đáng nói nhất là ngành kinh doanh tài sản và dịch 
vụ tư vấn, tăng 132% hay đối với dịch vụ tài chính 
tín dụng tăng tới 32%. Nét nổi bật trong việc các cơ 
sở sản xuất kinh doanh cá thể tham gia vào tốc độ 
tăng trưởng của nền kinh tế có thể thấy rõ nét qua 
việc phát triển của các làng nghề. Với trên 400 làng 
nghề, hiện nay tổng mức hàng hoá xuất khẩu từ các 
sản phẩm của làng nghề đã vượt quá con số 500 
triệu uSD (không kể các sản phẩm đồ gỗ). 
Khu vực kinh tế phi chính thức tồn tại như 
một tất yếu khách quan, luôn luôn chịu sự tác 
động của các qui luật kinh tế, của chính sách phát 
triển kinh tế - xã hội nhưng lại nằm ngoài sự kiểm 
soát của Nhà nước và không được hưởng sự hỗ 
trợ nào từ phía Nhà nước. Theo số liệu thống kê 
của Tổng cục Thống kê, Phòng Thương mại và 
Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tổng số hộ sản 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 51Số 116 - tháng 6/2017
xuất kinh doanh cá thể phi nông nghiệp trên cả 
nước là 4,658 triệu hộ năm 2014, và 4,536 triệu 
hộ năm 2013. Đây là một con số tăng trưởng ấn 
tượng trong suốt 10 năm qua tại Việt Nam. Tính 
đến năm 2014, số việc làm mà khu vực kinh tế này 
tạo ra là khoảng 7,9 triệu lao động. Trong đó, khu 
vực kinh tế tư nhân trong nước đã đóng góp gần 
50% GDP, riêng khu vực kinh tế cá thể đã đóng 
góp tới trên 33% GDP. Phần lớn người lao động 
Việt Nam vẫn thuộc bộ phận phi chính thức - ở đó 
điều kiện làm việc không đảm bảo, trả công không 
đủ trang trải cuộc sống cũng như không được bảo 
vệ. Tuy nhiên, phải thừa nhận và khẳng định trên 
thực tế vai trò và vị trí của khu vực KTPCT trong 
sự phát triển kinh tế xã hội, bởi đây cũng là một 
bộ phận của nền kinh tế và sẽ còn tồn tại lâu dài, 
góp phần vào sự phát triển của đất nước.
Thực trạng nhận thức về áp dụng kế toán đối 
với khu vực kTPCT
Hiện nay, số lượng các cá thể tham gia khu 
vực KTPCT ngày càng nhiều, toàn quốc có trên 3 
triệu cơ sở kinh doanh cá thể, mức tăng bình quân 
hàng năm khoảng 5%. Khu vực kinh tế này cũng 
đóng góp tới 72% tỷ trọng tổng thu thuế môn bài 
mà ngành thuế thu được. Tuy vậy, số thu từ khu 
vực kinh tế này được đánh giá là nhỏ, nhiều nơi 
còn có biểu hiện thất thu. Ngành thuế dự kiến sẽ 
mở rộng việc áp dụng chế độ kế toán, hoá đơn 
chứng từ đối với thành phần kinh tế hộ tư nhân. 
Tuy nhiên, một thực trạng diễn ra là hầu hết các hộ 
gia đình, cá nhân kinh doanh đều chưa thực hiện 
công tác kế toán theo quy định chung. Ngày 25 
tháng 10 năm 2000. Bộ Tài chính ra quyết định số 
169-2000/QĐ-BTC quy định về Chế độ kế toán hộ 
kinh doanh, kèm với đó là quyết định 131 - 2002/
QĐ-BTC sửa đổi, bổ sung. Theo đó, kế toán hộ 
kinh doanh phải ghi chép đầy đủ, chính xác, kịp 
thời, trung thực mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính 
phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất kinh 
doanh của hộ. Hiện nay, hầu hết các hộ kinh doanh 
đều ghi chép lại các hoạt động kinh doanh của 
mình theo một cách riêng để quản lý, để dễ nhớ, 
nhưng không theo một quy chuẩn chung nào. Họ 
cũng không quan tâm nhiều đến công tác kế toán, 
bởi tính chất nhỏ lẻ và chỉ cần ghi chép những gì 
cần thiết. Việc đó cũng phần nào hợp lý đối với 
các trường hợp kiểu kinh doanh như tạp hóa nhỏ, 
quán ăn nhỏ, quầy photocopy, sửa chữa xe máy... 
Tuy nhiên, các kiểu kinh doanh khác với quy mô 
lớn hơn cần thiết phải có sự ghi chép thu - chi hằng 
ngày, sử dụng hóa đơn, mở sổ chi tiết theo dõi từng 
hoạt động, từng loại hàng... thì vẫn chưa áp dụng 
và gần như bỏ ngỏ. Và thực tế Chế độ kế toán hay 
bất kỳ quyết định liên quan nào của Nhà nước đưa 
ra cũng chưa được sự hưởng ứng, quan tâm hay tác 
động nhiều đến khu vực KTPCT này.
Ngoài những hộ kinh doanh nhỏ không cần 
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, 
thì những hộ sản xuất kinh doanh theo quy định 
phải đăng ký nhưng không đăng ký kinh doanh 
(phi chính thức không hợp pháp) lại là vấn đề cần 
quan tâm và cần áp dụng công tác kế toán một 
cách triệt để. Các hộ sản xuất kinh doanh kiểu này 
thường không ghi chép, không báo cáo tất cả các 
hoạt động kinh doanh, giấu doanh thu, có thuê lao 
động nhưng không ký hợp đồng lao động... Các hộ 
kinh doanh này cũng không phát hành hóa đơn 
Giá trị gia tăng khi khách hàng yêu cầu, dẫn tới 
khó tiếp cận với các khách hàng lớn (cơ quan Nhà 
nước, doanh nghiệp trong nước, ngoài nước) đòi 
hỏi phải có chứng từ khi giao dịch. Theo quy định 
của Nhà nước, hộ kinh doanh cá thể sẽ có 3 khoản 
thuế phải nộp: thuế môn bài, thuế giá trị gia tăng 
và thuế thu nhập cá nhân căn cứ theo hình thức 
quản lý của hộ kinh doanh đó. Các hộ kinh doanh 
thường cho rằng làm việc với cơ quan thuế phức 
tạp và chấp nhận với cách tính thuế khoán (ngoài 
thuế môn bài bắt buộc). Cách tính thuế khoán là 
dựa trên số liệu kê khai của hộ kinh doanh, cơ 
quan thuế để ấn định mức thuế và mức thuế này 
cố định trong cả năm. Nếu hộ, cá nhân kinh doanh 
có mức doanh thu hàng năm dưới 100 triệu đồng 
thì thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT (tức 
không phải nộp thuế GTGT), nhưng vẫn phải nộp 
thuế môn bài và thuế TNCN (Theo khoản 25 điều 
4, TT 219/2013/TT-BTC). Phương pháp xác định 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN52 Số 116 - tháng 6/2017
thuế giá trị gia tăng (GTGT) phải nộp của các hộ 
kinh doanh là nếu tính trực tiếp trên doanh thu 
thì số thuế GTGT phải nộp được xác định bằng tỷ 
lệ % (x) doanh thu; Nếu theo phương pháp khoán 
thì xác định thuế GTGT phải nộp theo tỷ lệ % trên 
doanh thu của hộ khoán. Nhìn chung đây cũng là 
một cách quản lý nhưng chưa thực sự triệt để, cả 
2 phía là hộ kinh doanh và cơ quan thuế đều chưa 
có sự quan tâm, quản lý cần thiết đối với hoạt động 
kinh doanh và theo dõi doanh thu, chi phí rõ ràng.
Về phía các hộ kinh doanh có sử dụng lao động 
bình quân trên 10 người, doanh thu sản xuất đều 
đặn trong cả năm, nộp thuế theo phương pháp 
khoán có doanh thu trên 100 triệu/năm sẽ nộp 
thuế theo tỷ lệ trên doanh thu, khai thuế 1 lần/
năm. Từ đầu năm 2016, doanh thu tính thuế được 
căn cứ vào doanh thu khoán và doanh thu trên hóa 
đơn, không phân biệt hóa đơn sử dụng theo quyển 
hay hóa đơn sử dụng lẻ theo từng số, có nghĩa là 
hộ kinh doanh phải đóng thêm thuế riêng cho mỗi 
hóa đơn xuất bán cho khách hàng, ngoài khoản 
thuế đóng dựa trên doanh thu khoán và được xuất 
hóa đơn trong phạm vi cho phép (tính trên số thuế 
khoán) như hiện nay. Với cách tính thuế khoán như 
thế sẽ không có lợi cho các hộ kinh doanh. Trong 
đó, quy định mới về cách tính “thuế khoán” đã tác 
động đến tâm lý của hơn 3 triệu hộ kinh doanh 
trên cả nước. Việc “đánh” thuế trực tiếp trên doanh 
thu khiến nhiều hộ kinh doanh cá thể sẽ phải nộp 
thuế nhiều hơn vì không được trừ chi phí đầu vào, 
không được giảm trừ gia cảnh như trước... 
Theo Tổng cục Thuế, mặc dù thuế môn bài thu 
từ cơ sở sản xuất kinh doanh hộ cá thể chiếm 72% 
tổng thuế môn bài nhưng thuế GTGT thu được chỉ 
chiếm 9,8% tổng thu thuế GTGT và thuế thu nhập 
DN chỉ chiếm 14,7%. Tương tự, thuế tiêu thụ đặc 
biệt là 0,3% và thuế tài nguyên là 5%. Thực tế khảo 
sát cho thấy mặc dù nhiều cở sản xuất kinh doanh 
cá thể có quy mô khá lớn, thậm chí lớn hơn cả các 
doanh nghiệp thuộc loại nhỏ song vẫn tồn tại ở 
dạng cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể (thuộc khu 
vực kinh tế phi chính thức) mà không chuyển đổi 
sang các loại hình Doanh nghiệp (khu vực kinh tế 
chính thức). Việc duy trì mô hình cơ sở sản xuất 
kinh doanh cá thể không những làm mất đi cơ hội 
phát triển, giá trị gia tăng của chính các cơ sở này 
mà còn tạo thêm khó khăn trong việc quản lý đối 
với ngành thuế.
Ngoài ra, Chế độ kế toán áp dụng cho hộ kinh 
doanh được ban hành năm 2000, trước khi Luật 
Kế toán có hiệu lực (01/01/2004), điều này bộc lộ 
nhiều điểm bất cập. Chế độ kế toán hộ kinh doanh 
không nêu khái niệm về doanh thu, chi phí nên nội 
dung và phạm vi doanh thu, chi phí không được 
xác định rõ ràng; Chế độ kế toán hộ kinh doanh 
không đề cập đến thời điểm ghi nhận doanh thu, 
chi phí và cách xác định chi phí trong trường hợp 
sử dụng cho hoạt động kinh doanh lẫn với tiêu 
dùng của hộ gia đình nên thu nhập để tính chi phí 
trong kỳ không phản ánh đúng nghĩa vụ thuế hộ 
kinh doanh phải nộp; Vấn đề về chiết khấu thương 
mại, giảm giá, khuyến mại chưa được đặt ra để 
giải quyết. Quy định hộ kinh doanh vẫn sử dụng 
chứng từ bắt buộc và chứng từ hướng dẫn, dẫn 
đến sự không thống nhất giữa các chủ thể tham 
gia vào thị trường trong sử dụng hóa đơn chứng 
từ. Đối với phương pháp tính thuế GTGT, theo 
Thông tư 92/2015/TT-BTC, số thuế GTGT phải 
nộp được xác định bằng tỷ lệ % để tính thuế GTGT 
trên doanh thu và được quy định theo từng lĩnh 
vực hoạt động. Tuy nhiên, việc áp dụng tính thuế 
như trên đã tạo ra nhiều bất cập. Quy định không 
tính đến quy mô hoạt động, doanh thu tạo ra trong 
kỳ tính thuế nhiều hay ít, dẫn đến thực trạng có 
hộ kinh doanh hoạt động với mức doanh thu lớn 
nhưng vẫn áp dụng thuế khoán vì không có số liệu 
ghi chép trên sổ kế toán.
Trong bối cảnh đất nước hội nhập phát triển, 
gia nhập TPP và aEC đều hứa hẹn mang lại nhiều 
lợi ích cho nền kinh tế, thúc đẩy thương mại, thu 
hút đầu tư dựa trên lợi thế của một thị trường mở, 
thống nhất và thực sự là một thời cơ lớn. Bên cạnh 
đó cũng có những khó khăn, thách thức không 
nhỏ. Khu vực KTPCT cũng không nằm ngoài quy 
luật chung này. Nền kinh tế cạnh tranh gắt gao 
hơn và đòi hỏi sự chuyên nghiệp hơn, các hình 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 53Số 116 - tháng 6/2017
thức kinh doanh thuộc khu vực 
KTPCT phải thực sự nỗ lực, 
nâng cao chất lượng sản phẩm, 
cũng như đòi hỏi áp dụng triệt 
để các chính sách hỗ trợ thêm 
của Chính phủ để thực sự mang 
lại thêm nhiều lợi ích cho nền 
kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, việc 
không kê khai đầy đủ và áp dụng 
đúng quy trình sổ sách kế toán, 
lập hóa đơn, chứng từ, xác định 
đúng doanh thu bán hàng trên 
cơ sở áp dụng Chế độ kế toán 
là một rào cản lớn cho sự phát 
triển lâu dài.
Do đó, cần hơn hết là phải có các giải pháp để 
nâng cao nhận thức áp dụng kế toán cho khu vực 
kinh tế này thích ứng hơn với xu thế hội nhập, mở 
rộng hoạt động sản xuất, thực hiện công tác kế toán 
và có thể nộp thuế như các doanh nghiệp thuộc 
khu vực kinh tế chính thức.
Một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức áp 
dụng kế toán trong khu vực kTPCT
Thứ nhất, Bộ Tài chính cần sớm nghiên cứu sửa 
đổi, bổ sung Chế độ kế toán hộ kinh doanh cho 
phù hợp với thực tiễn phát triển, phù hợp với quy 
định quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, tránh thất 
thu thuế, đồng thời dễ dàng hơn cho các nhóm đối 
tượng thuộc khu vực KTPCT thực hiện. Quyết định 
169/2000/QĐ-BTC và sửa đổi, bổ sung theo quyết 
định 131/2002/QĐ-BTC đã quá cũ và không còn 
phù hợp với giai đoạn phát triển này, cần phải bổ 
sung thay đổi và hoàn thiện theo định hướng như:
Cần đưa ra khái niệm doanh thu, chi phí phù 
hợp với quy định của Luật Kế toán hiện nay. Xác 
định rõ nội dung, phạm vi xác định doanh thu, 
chi phí để thống nhất quản lý thông tin với các đối 
tượng khác. Đồng thời, cần quy định cụ thể điều 
kiện ghi nhận doanh thu, chi phí để thống nhất 
quản lý doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh 
trong kỳ tính thuế, trên cơ sở đó xác định đúng đắn 
nghĩa vụ thuế mà hộ kinh doanh phải nộp. 
Cần đưa ra các quy định cụ thể về các vấn đề chiết 
khấu thương mại, giảm giá, khuyến mại 
Cần bỏ các quy định về chứng từ bắt buộc và 
chứng từ hướng dẫn, để đảm bảo tính thống nhất 
trong quy định về sử dụng hóa đơn, chứng từ đối 
với tất cả các thành phần kinh tế.
Cần hoàn thiện các quy định về sổ kế toán để 
tạo thuận lợi cho các hộ kinh doanh trong ghi chép 
sổ sách, quản lý và kiểm soát được hoạt động và là 
căn cứ để cơ quan thuế xác định phương pháp tính 
thuế, mức thuế phải nộp: Nhóm hộ kinh doanh 
có doanh thu dưới 100 triệu đồng, không yêu cầu 
mở sổ kế toán bắt buộc và áp dụng theo phương 
pháp tính thuế khoán như hiện nay; Nhóm hộ kinh 
doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng đến 500 
triệu đồng, yêu cầu mở sổ theo dõi doanh thu, chi 
phí, kết quả kinh doanh và sổ tồn kho vật liệu, hàng 
hóa; cách xác định thuế GTGT phải nộp dựa vào 
thông tin về doanh thu, chi phí và thuế suất thuế 
GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế; Nhóm hộ 
kinh doanh có doanh thu trên 500 triệu đồng, yêu 
cầu mở sổ theo dõi doanh thu, chi phí, kết quả kinh 
doanh và sổ tồn kho vật liệu, hàng hóa, sổ theo dõi 
tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, sổ theo dõi tài khoản 
thuế và các khoản phải thu, phải trả. Cách xác định 
thuế GTGT phải nộp dựa vào thông tin về doanh 
thu, chi phí và thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, 
dịch vụ chịu thuế.
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN54 Số 116 - tháng 6/2017
Cần hoàn thiện cách tính thuế theo phương 
pháp trực tiếp trên GTGT để đảm bảo phát huy 
được tính ưu việt của thuế GTGT. Không nên áp 
dụng tính thuế GTGT phải nộp theo tỷ lệ % trên 
doanh thu nhằm tránh tình trạng thu thuế trùng 
thuế, phù hợp với bản chất của phương pháp tính 
là trực tiếp trên GTGT.
Thứ hai, tăng cường sự hiện diện và vai trò của kế 
toán trong khu vực KTPCT bằng một số cách như: 
Tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức 
ngắn hạn về kế toán, về thuế cho các đối tượng 
kinh doanh tương đối lớn thuộc khu vực KTPCT 
với mức học phí thấp hoặc miễn phí để khuyến 
khích các hộ tổ chức kinh doanh có mức thu nhập 
ổn định (từ 100 triệu đồng/năm trở lên) biết cách 
quản lý và theo dõi doanh thu, chi phí, biết cách 
lập chứng từ, tiếp nhận chứng từ và có kê khai 
thuế rõ ràng. 
Bổ sung các quy định mang tính hướng dẫn 
thực hiện công tác kế toán cho các hộ kinh doanh 
theo hướng đơn giản, dễ thực hiện. 
Tiếp cận với từng cơ sở sản xuất kinh doanh cá 
thể để tìm hiểu rõ hơn về phương thức kinh doanh, 
thu nhập hằng năm và hướng dẫn, bồi dưỡng trực 
tiếp nghiệp vụ kế toán, thuế...
Thứ ba, đối với các cơ sở kinh doanh có số 
lao động thường xuyên trên 10 người, doanh thu 
ổn định (khoảng trung bình 100 triệu đồng/năm 
trở lên) nên được định hướng chuyển từ khu vực 
kinh tế phi chính thức sang khu vực kinh tế chính 
thức để áp dụng đầy đủ, chính xác các chính sách 
kế toán, thuế. Điều này là cần thiết, khi chuyển 
sang khu vực kinh tế chính thức sẽ được hưởng sự 
quan tâm, ưu đãi nhiều hơn của Nhà nước, chính 
sách quản lý rõ ràng hơn. Ngoài ra sẽ góp phần 
nâng đáng kể tính minh bạch trong mọi hoạt động 
Nhà nước, hạn chế đến mức thấp nhất các hoạt 
động không chính thức của các doanh nghiệp như 
hiện nay.
Cuối cùng, thành công của tiến trình hội nhập 
và phát triển phụ thuộc vào việc tiến trình này có 
thể đem đến lợi ích cho doanh nghiệp, cho người 
lao động, gia đình của họ và cho toàn xã hội hay 
không. Khu vực kinh tế phi chính thức cần hơn hết 
sự hỗ trợ chính sách từ các Bộ, Ngành để thúc đẩy 
môi trường thuận lợi, tạo thêm việc làm tốt, bao 
gồm: các biện pháp phát triển theo làng nghề, các 
chính sách tiêu thụ sản phẩm, các giải pháp hỗ trợ 
về đào tạo, tín dụng, chính sách thuế với mục đích 
hỗ trợ tăng trưởng, hợp pháp hóa các ngành nghề 
kinh doanh theo hướng có lợi để phát triển cùng 
với xu thế hội nhập chung của đất nước. Ngoài ra 
Nhà nước cần quan tâm hơn đến các chính sách 
an sinh xã hội, như việc áp dụng sâu và rộng chính 
sách Bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với khu vực 
kinh tế này nhằm đảm bảo sự bình đẳng cho mọi 
thành phần lao động. Chính từ những sự hỗ trợ 
quan tâm này sẽ thúc đẩy sự phát triển, tăng doanh 
thu cho khu vực KTPCT, tiệm cận với mức doanh 
thu ổn định.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ThS. Nguyễn Thị Thu Hà, Vai trò của kế toán 
trong khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt 
Nam, Tạp chí Tài chính kỳ 1 số tháng 4/2016. 
2. ThS. Phạm Thị Thanh, Chế độ kế toán và thuế 
đối với hộ kinh doanh - Những vấn đề cần 
trao đổi, Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 6/2016.
3. Viện Khoa học Thống kê, Tổng quan về kết 
quả điều tra thống kê khu vực kinh tế phi 
chính thức ở Việt Nam và một số khuyến 
nghị về quản lý thông tin thị trường lao 
động và phát triển nguồn nhân lực, 2010.
4. Quyết định 169/2000/QĐ-BTC ngày 
25/10/2009 của Bộ Tài chính;
5. Quyết định 131/2002/QĐ-BTC ngày 
18/10/2002 của Bộ Tài chính; 
6. Thông tư 92/2015/TT-BTC ngày 15/6/2015; 
Thông tư 156/2013/TT-BTC ngày 
6/11/2013; Thông tư 219/2013/TT-BTC 
ngày 31/12/2013.
7. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2014.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_giai_phap_nang_cao_nhan_thuc_ap_dung_ke_toan_doi_voi.pdf