Một số đặc điểm về ngôn ngữ và giọng điệu phê bình của Vũ Ngọc Phan trong nhà văn hiện đại

Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là một công trình khoa học có giá trị lớn từ

khi ra đời cho đến ngày hôm nay. Bởi trƣớc hết, đó là kết quả của quá trình làm việc

công phu, nghiêm túc của một nhà phê bình có cái nhìn khái quát cao. Sau đó, Nhà văn

hiện đại là sản phẩm của một bộ óc sắc sảo, một khả năng phân tích tỉ mỉ, một sự cảm

nhận tinh tế đối với những cái mới, cái đẹp trong văn chƣơng. Ở đó, Vũ Ngọc Phan

cũng thể hiện vốn kiến văn phong phú, trí tƣởng tƣợng dồi dào, đặc biệt là năng lực

ngôn ngữ tinh tế, sâu sắc và một giọng điệu linh hoạt phóng khoáng.

pdf 7 trang kimcuc 3240
Bạn đang xem tài liệu "Một số đặc điểm về ngôn ngữ và giọng điệu phê bình của Vũ Ngọc Phan trong nhà văn hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số đặc điểm về ngôn ngữ và giọng điệu phê bình của Vũ Ngọc Phan trong nhà văn hiện đại

Một số đặc điểm về ngôn ngữ và giọng điệu phê bình của Vũ Ngọc Phan trong nhà văn hiện đại
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
128 
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU PHÊ BÌNH 
CỦA VŨ NGỌC PHAN TRONG NHÀ VĂN HIỆN ĐẠI 
Lê Thu Trang
1
TÓM TẮT 
Là một công trình phê bình văn học xuất sắc, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc 
Phan không chỉ thể hiện tư duy lôgic của nhà khoa học mà còn mang đậm dấu ấn phê 
bình của người nghệ sĩ. Trong (Nhà văn hiện đại) dấu ấn phê bình nghệ sĩ ấy được thể 
hiện rõ nét ở ngôn ngữ và giọng điệu của Vũ Ngọc Phan. Đây cũng chính là vấn đề mà 
chúng tôi lựa chọn, trình bày trong bài viết này với hy vọng làm sáng tỏ thêm về một 
phương diện của (Nhà văn hiện đại), từ đó hiểu rõ hơn phong cách của một trong 
những cây bút phê bình xuất sắc của văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. 
Từ khóa: Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, ngôn ngữ, giọng điệu, phê bình 
1. MỞ ĐẦU 
Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là một công trình khoa học có giá trị lớn từ 
khi ra đời cho đến ngày hôm nay. Bởi trƣớc hết, đó là kết quả của quá trình làm việc 
công phu, nghiêm túc của một nhà phê bình có cái nhìn khái quát cao. Sau đó, Nhà văn 
hiện đại là sản phẩm của một bộ óc sắc sảo, một khả năng phân tích tỉ mỉ, một sự cảm 
nhận tinh tế đối với những cái mới, cái đẹp trong văn chƣơng. Ở đó, Vũ Ngọc Phan 
cũng thể hiện vốn kiến văn phong phú, trí tƣởng tƣợng dồi dào, đặc biệt là năng lực 
ngôn ngữ tinh tế, sâu sắc và một giọng điệu linh hoạt phóng khoáng. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Ngôn ngữ phê bình trong Nhà văn hiện đại 
Bàn về đặc điểm và yêu cầu đối với phê bình văn học, GS. Đỗ Đức Hiểu cho 
rằng: “Phê bình đòi hỏi phân tích và tổng hợp, phê bình yêu cầu hiểu biết khoa học 
và có sức mạnh cảm thụ. Nó vừa là lí trí, vừa là tình cảm, nó là thứ văn hóa có tính 
thẩm mỹ” [3; tr 11]. Bởi đối tƣợng của phê bình là nghệ thuật, mà nghệ thuật là thế 
giới của cái đẹp và cảm tính. Sức mạnh của phê bình là sự thuyết phục, và công cụ 
của nó chính là ngôn ngữ. Ở điểm này, nhà phê bình rất gần với nhà nghệ sĩ. Nếu 
không có sự nhạy cảm và năng lực ngôn từ thì kiến thức có phong phú cũng không 
thể giúp đƣợc gì nhà phê bình. Có thể nói, với hơn ngàn rƣỡi trang sách trong Nhà 
văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã để lại dấu ấn riêng của mình trong cách sử dụng từ 
ngữ, kiến tạo câu văn. 
1
 CN. Học viên Cao học K4, chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Hồng Đức. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
129 
 Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã thể hiện dấu ấn nghệ sĩ của mình qua 
cách sử dụng ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc. Kiểu ngôn ngữ này trƣớc tiên đƣợc thể 
hiện ở việc sử dụng từ láy, từ tƣợng thanh, tƣợng hình gợi đƣợc đặc trƣng của đối 
tƣợng. Lần giở các trang viết về thi gia, chúng ta có thể bắt gặp ở đó cảm hứng tràn trề, 
lai láng của Vũ Ngọc Phan khi ông nhận xét về thơ và phong cách thơ của các tác giả. 
Nhƣ trong bài viết về Hàn Mặc Tử, Vũ Ngọc Phan đã dùng hình thức ngôn từ thật đẹp, 
thật lung linh, lãng mạn để bình bài thơ Huyền ảo. Vũ Ngọc Phan tỏ ra sự nhạy cảm 
đặc biệt khi nắm bắt đƣợc chất thơ, ý thơ của thi phẩm: “Lời trong sáng, êm nhƣ ru, 
còn ý thơ nhẹ nhàng, man mác, tỏa ra nhƣ mây khói, cảm động, huyền diệu biết bao 
nhiêu. Tình tứ đến thế là cùng. Một ngƣời mang bạo bệnh rất đau đớn mà có một tâm 
thần rất thƣ thái, bình tịnh nhƣ thế thật cũng lạ” [6; tr 143]. Nhà phê bình cũng tỏ ra là 
một ngƣời am hiểu về con ngƣời và thơ của Lƣu Trọng Lƣ khi viết: “Có thể tóm tắt tất 
cả những ý trong thơ của Lƣu Trọng Lƣ vào hai chữ Tình và Mộng”, “Lƣu Trọng Lƣ là 
một thi sĩ đa tình và mơ mộng” [6; tr 115]. Hoặc nhƣ những lời nhận xét của ông về 
Xuân Diệu: “Bây giờ ngƣời ta đã hiểu thơ Xuân Diệu. Ngƣời ta thấy thơ Xuân Diệu 
đằm thắm, nồng nàn nhất trong tất cả các nhà Thơ mới” [6; tr 168], “Bởi lẽ thơ ông 
là bầu xuân, thơ của ông là bình chứa muôn hƣơng của tuổi trẻ” [6; tr 172]. “Đằm thắm - 
nồng nàn, đa tình - mơ mộng”, những cặp từ giàu cảm xúc, giàu sức gợi của nhà phê 
bình đã gọi thật đúng linh hồn thế giới thơ của hai nhà thơ tiêu biểu trong phong trào 
Thơ mới. Có thể khám phá đến tận cùng thế giới thơ Xuân Diệu, Lƣu Trọng Lƣ, nắm bắt 
đƣợc từng nhịp thơ của mỗi tác giả, Vũ Ngọc Phan đã cho độc giả thấy sự nhạy bén, sắc 
sảo của một nhà phê bình nhạy cảm. 
Kiểu ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc của Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại 
còn đƣợc gợi lên từ những so sánh, ví von của tác giả. Khi nói về cách phê bình kịch, 
Vũ Ngọc Phan chọn cách so sánh bằng những hình ảnh thật cụ thể, sinh động: “Phê 
bình các vở kịch mà chỉ đọc không, nhƣ công việc tôi làm đây, là mới phê bình đƣợc 
có một nửa, nhƣ phê bình một bức họa đã vẽ đủ các đƣờng nét nhƣng chƣa đủ các 
màu, phê bình một pho tƣợng tuy đã đắp xong hình ngƣời nhƣng hãy còn thiếu các 
đƣờng gân thớ thịt” [6; tr 38]. Ông cũng chọn thủ pháp so sánh hình ảnh khi đánh giá 
về Kinh cầu tự của Huy Cận: “Kinh cầu tự với một lối văn ngập ngừng, bỡ ngỡ nhƣ 
ngƣời mới tập viết văn xuôi, tƣ tƣởng lại non nớt, vậy mà ông đã lo độc giả không 
hiểu đƣợc mình, đủ biết ở nƣớc ta cái già cũng nảy nở sớm quá, nên chóng khô héo. 
Ở nƣớc ngoài, quả lâu chín, nên vừa to, vừa ngọt; ở nƣớc ta quả phần nhiều bị rám 
nắng hơn là chín, nên vừa nhỏ, vừa chua” [6; tr 169]. Vẫn biết ý của nhà phê bình là 
chỉ ra những hạn chế, non nớt của Huy Cận ở Kinh cầu tự so với Pascal trong tác 
phẩm Tư tưởng, nhƣng cách nói so sánh nhƣ vậy không tạo cho ngƣời đọc cảm giác 
phủ bút gay gắt, trực tiếp, mà ngƣời đọc nhận ra đƣợc vấn đề từ những liên tƣởng, so 
sánh đầy ẩn ý. Viết về Tiếng thu của Lƣu Trọng Lƣ, Vũ Ngọc Phan đã đặt tác phẩm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
130 
này trong thế đối sánh với Bài hát thu về của Verlaine để cảm nhận: “Tiếng thu của 
Lƣu Trọng Lƣ thật không khác gì tiếng đàn thu não nùng của Verlaine trong Bài hát 
thu về. Thật nó nhẹ nhàng từ âm điệu, đến ý tƣởng, nó cám dỗ ta bằng sự mơn man, 
rồi thấm dần vào cõi lòng ta phải ngất ngây về cái hiu quạnh ở bên sự sống của loài 
ngƣời. Ngƣời cô phụ, con nai vàng, bất cứ là ngƣời hay cảnh vật, đã góp phần vào 
cuộc sống thì đều phải rạo rực, ngơ ngác về cái thổn thức của mùa thu dƣới ánh trăng 
mờ” [6; tr 103]. Khơi gợi liên tƣởng từ một so sánh, Vũ Ngọc Phan đã khiến trái tim 
ngƣời đọc phải thổn thức khi đọc những câu thơ của Tiếng thu bằng ngôn ngữ bình 
phẩm giàu hình ảnh, cảm xúc sau đó. Vũ Ngọc Phan đã dùng những từ ngữ thật đẹp, 
thật gợi cảm khiến ngƣời đọc phải ngất ngây, ngơ ngác trƣớc thế giới nghệ thuật 
trong Tiếng thu. Ở đó ta dƣờng nhƣ cũng cảm nhận rõ những xao động rạo rực trong 
trái tim ngƣời viết. 
Với hơn ngàn rƣỡi trang sách, phê bình 79 nhà văn, Nhà văn hiện đại còn để lại ấn 
tƣợng cho ngƣời đọc bằng kiểu ngôn ngữ giàu nhịp điệu với câu văn dài, cân xứng, hài 
hòa - kiểu ngôn ngữ trải dài trên rất nhiều trang văn của nhà phê bình Vũ Ngọc Phan: 
“Hồi xƣa, thơ mà âm điệu du dƣơng thì phải liệt thơ Thanh Quan vào bực 
nhất. Nhƣng thơ Thanh Quan có cái giọng đài các, nghiêm trang quá, nên tuy ngƣời 
ta có cảm về âm điệu mà không gần đƣợc về tính tình. Những tính tình thanh cao 
diễn ra lời thơ của Thanh Quan là những tính tình của một ngƣời trong khuê khổn 
đứng trƣớc cảnh tang thƣơng mà chau mày rơi lụy; cây đàn của bà là cây đàn cao 
điệu, nên không mấy ngƣời họa kịp, mà phần đông cũng không hiểu đƣợc hết tiếng 
tơ” [5; tr 171]. 
Hay: “Giọng đùa cợt lẳng lơ của Hồ Xuân Hƣơng, giọng nhạo đời của Trần Kế 
Xƣơng, giọng thù ứng ý nhị của Nguyễn Khắc Hiếu, giọng giao duyên tình tứ của Trần 
Tuấn Khải, từng ấy giọng thơ, ngày nay ta thấy cả trong hai tập thơ trào phúng của Tú 
Mỡ” [6, tr 172]. 
Đọc những dòng văn trên, độc giả không chỉ rung động vì cảm đƣợc tiếng 
lòng tha thiết của các thi nhân, mà còn bâng khuâng bởi từng câu chữ trong bài viết 
đều là tâm huyết, tình cảm của nhà phê bình. Vế câu văn cân xứng về từ ngữ, hình 
ảnh, cái tôi này lồng vào cái tôi kia. Vũ Ngọc Phan hiện diện trên trang viết vừa 
trong tƣ cách một học giả, vừa trong tƣ cách một nghệ sĩ. Ông cung cấp cho ta 
những nhận định nhẹ nhàng nhƣng mang đầy tính chính xác vì đƣợc phát hiện bằng 
cảm quan bén nhạy của một nhà nghiên cứu tài hoa. Hơn nữa, những nhận định ấy 
đều đƣợc diễn đạt bằng những từ ngữ trau chuốt, những câu văn với nhịp điệu hài 
hòa, gây đƣợc hứng thú thẩm mĩ sâu sắc ở ngƣời đọc. Đây cũng chính là truyền 
thống của cách bình văn Phƣơng Đông khi ngƣời bình văn cũng là một nghệ sĩ, 
mƣợn tác phẩm để gửi gắm lòng mình và Vũ Ngọc Phan dù muốn hay không, vẫn 
chịu ảnh hƣởng. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
131 
Viết về nỗi nhớ nhung trong thơ Nguyễn Giang, ông có cách ngắt từ, ngắt vế câu 
thật ấn tƣợng: “Ta nên để ý đến điều này: ngay trong sự nhớ ngƣời yêu, tác giả bao giờ 
cũng đặt sự nhớ nhung ấy vào một cảnh, mà sự cân đối, sự gần gụi, sự hòa hợp của 
những vật trong cảnh vẫn là điều quan hệ. Nào trên bệ, nào nƣớc, nào hoa, nào gió, nào 
cành, đó là những thứ có thể sinh tình mà tác giả gửi vào đó ít nhiều tâm sự” [6; tr 85]. 
Ta cũng có thể cảm nhận đƣợc cái xôn xao của từ, nhịp nhàng, dồn dập của câu văn khi 
đến với những trang Vũ Ngọc Phan viết về Lƣu Trọng Lƣ. Không chỉ gây ấn tƣợng từ 
lời nhận xét mở đầu thật chính xác, những câu văn dài giàu cảm xúc lí giải sau đó cũng 
mang đến cho ngƣời đọc nhiều rung cảm: “Lƣu Trọng Lƣ là một thi sĩ đa tình và mơ 
mộng. Ông say sƣa tất cả những cái đẹp của ngƣời và tạo vật, tấm lòng ông lúc nào 
cũng thổn thức, trí não ông lúc nào cũng mơ màng, ông đem xáo trộn thực với mộng, 
mộng với thực, thổ lộ nên những lời thơ huyền ảo vô cùng” [6; tr 101]. 
Có thể nói, kiểu ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, nhạc điệu này của 
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã giúp ta hiểu hơn yêu cầu về phê bình mà tác 
giả Hoàng Ngọc Hiến từng đề cập đến: “Phê bình xứng đáng là văn học thì phải có 
“văn” cũng nhƣ ngƣời viết phê bình xứng đáng là nhà văn trƣớc hết phải có văn”, “phê 
bình đòi hỏi năng khiếu và vốn kiến văn đặc biệt” [2, tr 39]. Có màu sắc riêng trong sử 
dụng ngôn từ, tài hoa trong cách tạo nhạc điệu câu văn cũng là cách để Vũ Ngọc Phan 
khẳng định bản chất nghệ sĩ, chất “văn” của ngƣời viết phê bình. 
2.2. Giọng điệu phê bình trong Nhà văn hiện đại 
Giọng điệu là một phƣơng diện quan trọng thể hiện dấu ấn phong cách riêng của 
tác giả. Theo Katie Wales, giọng điệu (tone) “đƣợc dùng với nghĩa một phẩm chất âm 
thanh đặc biệt nào đó có liên quan đến những cảm xúc hoặc tình cảm đặc biệt nào đó”. 
Với X.J.Kenedy thì “bất cứ cái gì khiến ta luận ra thái độ của tác giả thƣờng đƣợc gọi 
là giọng điệu”. Nhƣ vậy, điểm nổi bật của giọng điệu là qua nó, nhà văn thể hiện đƣợc 
thái độ, tƣ tƣởng, tình cảm của chính mình. Hơn một nghìn trang sách của Nhà văn 
hiện đại đã cho ta thấy rõ chất giọng nổi bật trong phê bình văn học của Vũ Ngọc Phan 
là nhẹ nhàng, từ tốn, điềm đạm; nhƣng nhiều khi cũng có những đối thoại đầy hóm 
hỉnh, thâm thúy. 
Đọc Nhà văn hiện đại, chúng ta dễ dàng nhận thấy, giọng điệu phê bình, nhẹ 
nhàng, từ tốn của Vũ Ngọc Phan đƣợc thể hiện từ những trang đầu tiên đến trang 
cuối cùng. Chẳng hạn, nhận xét về lối văn dịch của Nguyễn Giang, Vũ Ngọc Phan đã 
phân tích rất nhiều dẫn chứng để chỉ ra: “Đến sự gọn gàng, thì tôi phải thành thật nói 
là không thấy có trong mấy trang dịch của ông” [6; tr 90], “Ông dịch phần nhiều 
đúng nghĩa, nhƣng không đƣợc gọn gàng và sáng suốt. Hay có lẽ ông cho mấy điều 
sau là không quan hệ chăng” [6; tr 92]. Chỉ ra cái chƣa đƣợc, chƣa tốt, chƣa thành 
công nhƣng câu văn nào của Vũ Ngọc Phan cũng hết sức nhẹ nhàng, điềm đạm. Ngay 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
132 
cả khi ca ngợi, khẳng định một tác giả nào đó, ông cũng nhẹ nhàng, từ tốn thể hiện sự 
đánh giá trân trọng của mình: “Về sự thành thật, có lẽ Hàn Mặc Tử hơn hết cả các 
nhà thơ hiện đại. Cũng vì ông rất thành thật nên theo sát hẳn tính tình cùng tƣ tƣởng 
của ông; bên những bài tầm thƣờng, ngƣời ta thấy dƣới ngòi bút của ông những bài 
tuyệt tác” [6; tr 145]. Những điều này cho thấy, gay gắt lên án, chỉ trích hay ngợi ca 
tung hô thái quá không phải là đặc điểm, phong cách phê bình của Vũ Ngọc Phan. Có 
lẽ con ngƣời mực thƣớc ấy luôn muốn thể hiện mọi vấn đề trong sự sự hài hòa, giản dị 
nhất, con ngƣời ấy luôn kính trọng tƣ tƣởng, tình cảm của ngƣời viết. Nên chúng ta có 
thể hiểu vì sao tác giả Đặng Tiến lại nhận xét: “Về những lý tƣởng, ông trình bày nhiều 
hơn là phê phán, mà đã phê phán thì có tình, có lý, lời khen chừng mực, lời chê trang 
nhã, có phần kín đáo quá” [7]. 
Với tƣ cách của một nhà phê bình, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại còn thể 
hiện một giọng điệu hóm hỉnh, thâm thúy kiểu nhà Nho khi ông muốn chỉ ra điểm hạn 
chế của các tác giả, tác phẩm. Điều này có lẽ là do Vũ Ngọc Phan xuất thân trong một 
gia đình Nho học, bản thân ông ban đầu cũng học chữ Hán. Khi thấy ngƣời khác phê 
bình một ngƣời nào đó mà cứ ham trích dẫn sách nọ sách kia, ông bình luận một cách 
ung dung: “Nói một câu hợp lẽ, việc gì phải viện đến nhiều thầy nhƣ thế. Sau nữa, đã 
biết viết tất phải biết đọc, cần gì phô cái đọc của mình!” [6; tr 306]. Đôi khi ông có 
cách nêu ƣu điểm của ngƣời viết mà lại để ngƣời viết và bạn đọc thấy nhƣợc điểm của 
chính tác giả ấy. Nhƣ trƣờng hợp nói về Lê Văn Trƣơng ông trích câu kết thúc cuốn 
tiểu thuyết Tôi là mẹ: “Nàng ôm con khe khẽ ru: Sƣơng buồn âm kín non sông”, và rồi 
kết luận: “Đấy là cái giọng mà Lê Văn Trƣơng thƣờng không có” [6; tr 306]. Dù thấu 
hiểu dụng ý ca ngợi của Thiếu Sơn đối với Nguyễn Văn Vĩnh về công lao của tác giả 
này đối với Văn học Việt Nam nhƣng Vũ Ngọc Phan đã chỉ ra cái “kỳ khôi” trong 
“luận điệu” phê bình của Thiếu Sơn: “Nhƣng cái luận điệu mới kỳ khôi làm sao? Thơ 
ngụ ngôn của La Fontaine, hài kịch của Moliere, tiểu thuyết của Balzac đều là những 
thi phẩm, văn phẩm không những làm vẻ vang cho nƣớc Pháp, mà Thiếu Sơn lại bảo là 
tầm thƣờng. Không hiểu ông cho hai chữ này cái nghĩa thế nào? Hay “tầm thƣờng” có 
nghĩa là “phổ thông” chăng?” [6, tr 13]. Vũ Ngọc Phan không đƣa ra một lời nhận xét 
hay phán quyết nào. Ông chỉ nhẹ nhàng đặt ra một câu hỏi nhƣng lại ẩn chứa trong đó 
cái nhìn thâm thúy của một học giả đầy hiểu biết. Đó không chỉ là câu hỏi dành cho 
Thiếu Sơn, mà còn là một lời nhắc nhở trong cách sử dụng ngôn ngữ phê bình nói chung. 
Bởi ngôn ngữ phê bình có một chức năng, sứ mệnh riêng. Nó là nhận xét, đánh giá 
nhƣng cũng là định hƣớng, gợi mở nên ngƣời viết cần chú ý tính khách quan, chính xác. 
Với trƣờng hợp Lƣu Trọng Lƣ, nếu Vũ Ngọc Phan ca ngợi và dành nhiều lời khen 
tặng về thơ ca, thì ở thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn, nhà phê bình lại thẳng thắn nhận 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
133 
xét là “rất tầm thƣờng, không có gì đặc sắc cả” [6, tr 113]. Ông đã làm rõ thêm lời phê 
của mình bằng một giọng điệu rất hóm hỉnh khi nói về nhân vật tiên trong tập truyện 
Huyền không động: “Mà tiên quái gì lại có thứ tiên dứt tình với một kẻ phàm trần một 
cách lật lọng nhƣ thế”, “Lƣu Trọng Lƣ tả nhân cách tiên kém đến thế” [6, tr 113]. Giọng 
điệu ấy khiến ngƣời đọc không giấu đƣợc tiếng cƣời, nhƣng phải khách quan mà nhận 
rằng phê bình về tiểu thuyết và truyện ngắn của Lƣu Trọng Lƣ nhƣ thế là rất đúng. Lƣu 
Trọng Lƣ dù viết nhiều thể loại đi chăng nữa thì bao giờ với ngƣời đọc, ông cũng chỉ là 
một thi gia “thơ và mộng mà thôi”. 
Với trƣờng hợp Trần Thanh Mại, ông thật sắc sảo khi viết: “Trần Thanh Mại thật 
không phải là một nhà phê bình dè dặt. Shakespeare và Lord Byron là hai nhà đại thi 
hào của Anh và của cả thế giới nữa, vậy mà “cũng không ăn đứt đƣợc” Hàn Mạc Tử. 
Tôi dám chắc nếu nhà thi sĩ này còn sống, cũng sẽ phải đỏ mặt về những lời quá to tát 
của họ Trần. Tôi không đƣợc cái hân hạnh đọc toàn tập Cẩm châu duyên vì một lẽ giản 
dị là nó chƣa ra đời, nhƣng đọc những câu do Trần Thanh Mại trích và cho là hay 
tuyệt, tôi thấy cái câu này của ngƣời Tàu bình phẩm ngƣời Việt Nam ta thật đúng quá 
chừng: Ngƣời thì bé nhỏ mà lại hay đại ngôn” [5; tr 534]. Nhịp hai câu đầu ngắn, chậm 
rãi, “dè dặt”, nghe rất hiền lành chƣa có gì bất ngờ, đến tận “cho là hay tuyệt” vẫn bình 
yên, nhƣng đến hai chữ “đại ngôn” hạ cuối câu ba thì không còn sự “dè dặt” nữa, khiến 
ta phải bật cƣời. Ta chỉ còn thấy giọng của ngƣời trích dẫn hơn là thấy giọng của ngƣời 
đƣợc trích dẫn. Tất nhiên, Vũ Ngọc Phan chỉ mới đọc qua những câu trích Cẩm châu 
duyên từ Trần Thanh Mại, nếu ông đọc hết Hàn Mặc Tử, chắc sẽ không bi quan đến thế. 
Giọng điệu là yếu tố đặc biệt quan trọng để biểu hiện phong cách viết của một 
nhà lí luận phê bình. Nhiều trang viết kết hợp với những tone giọng linh hoạt trong 
Nhà văn hiện đại đã cho thấy tác giả là ngƣời đọc nhiều, thử nghiệm nhiều và trải 
nghiệm nhiều trên hành trình sáng tạo và nghiên cứu văn chƣơng. 
3. KẾT LUẬN 
Nếu nhà phê bình cần phải có sự nhạy cảm đối với cái đẹp và năng lực sáng tạo 
ngôn từ thì Vũ Ngọc Phan qua Nhà văn hiện đại đã thể hiện đƣợc những dấu ấn phong 
cách của mình trong giọng điệu thể hiện, trong cách sử dụng từ ngữ, xếp đặt câu văn. 
Đó là lối phê bình với ngôn ngữ tinh tế, cảm xúc, giàu hình ảnh, nhịp điệu. Đó là sự kết 
hợp của giọng điệu phê bình nhã nhặn, từ tốn, điềm đạm xen lẫn với giọng hóm hỉnh, 
thâm thúy, sâu sắc kiểu nhà Nho. Đặt trong bối cảnh văn học đầu thế kỉ XX, với những 
dấu ấn riêng ấy, Vũ Ngọc Phan không chỉ khẳng định một phong cách phê bình đặc sắc 
mà còn đóng góp không nhỏ cho sự ra đời của khoa nghiên cứu phê bình văn học Việt 
Nam hiện đại. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 26. 2015 
134 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (1996), Từ điển 
thuật ngữ văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 
[2] Hoàng Ngọc Hiến (1989), Nhà phê bình cần phải “có văn”, Tạp chí Văn học, (2). 
[3] Đỗ Đức Hiểu (1992), Phê bình văn học, phê bình phong cách học, Báo Văn 
nghệ, (19). 
[4] Vũ Ngọc Khánh (1992), Học tập Nhà văn Vũ Ngọc Phan, Tạp chí Văn học, (6). 
[5] Vũ Ngọc Phan (1998), Nhà văn hiện đại, tập 1, Nxb. Văn học (tái bản), Hà Nội. 
[6] Vũ Ngọc Phan (1998), Nhà văn hiện đại, tập 2, Nxb. Văn học (tái bản), Hà Nội. 
[7] Đặng Tiến (1998), Vũ Ngọc Phan với phê bình văn học Việt Nam, Tạp chí 
Đoàn kết, (1). 
SOME CHARACTERISTICS OF LANGUAGE AND CRITICAL TONE 
OF VU NGOC PHAN IN NHA VAN HIEN DAI 
Le Thu Trang 
ABSTRACT 
Nha van hien dai, an excellent literary work on criticism by Vu Ngoc Phan, not 
only expresses logical thinking of a scientist but also has the critical cachet of an 
artist. In this Nha van hien dai, the artist critical stamp is clearly expressed in Vu Ngoc 
Phan’s language and tone. It is the issue that we have chosen and presented in this 
article with the hope of further clarification on an aspect of Nha van hien dai, thereby, 
a better understanding about the style of one of the best modern critical writers in 
Vietnamese literary in the early 20
th 
century can be more comprehensible. 
Key words: Vu Ngoc Phan, Nha van hien dai, language, tone, critical 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_dac_diem_ve_ngon_ngu_va_giong_dieu_phe_binh_cua_vu_ng.pdf