Một số đặc điểm về hoàn lưu khí quyển và tình trạng thiếu hụt mưa ở Việt Nam trong đợt el nino 2014-2016

Đặc điểm hoàn lưu khí quyển và sự thiếu hụt mưa ở Việt Nam trong đợt EL Nino 2014-2016

được nghiên cứu dựa trên cơ sở số liệu tái phân tích của Trung tâm Quốc gia về Dự báo Môi trường/Trung

tâm Quốc gia về Nghiên cứu khí quyển (NCEP/NCAR) và số liệu mưa quan trắc của 54 trạm khí tượng của

Việt Nam. Kết quả cho thấy, trong thời gian hoạt động của đợt El Nino, một số đặc điểm sau đây về hoàn

lưu khí quyển trên Đông Á - Tây Thái Bình Dương đã được ghi nhận: (1) Suy giảm của yếu tố hoàn lưu gồm

áp cao Thái Bình Dương (hoạt động thiên về phía Nam và phía Đông của áp thấp xích đạo), khí áp trên Đông

Bắc Thái Bình Dương, gió Đông, vận tải ẩm hướng Đông, bức xạ phát xạ sóng dài trên nửa phía Đông xích

đạo Thái Bình Dương; (2) Gia tăng của khí áp trên vùng biển xích đạo - nhiệt đới Tây Thái Bình Dương và

bức xạ phát xạ sóng dài ở khu vực Việt Nam và phụ cận. Tỷ lệ tháng thiếu hụt mưa vào khoảng 50% ở Bắc

Bộ, 60% ở Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, lên đến 75,9% ở Tây Nguyên, 73,7% ở Nam Bộ. Tỷ lệ trạm có lượng

mưa thiếu hụt trong cả đợt là 25% ở Tây Bắc, 28,6% ở Đông Bắc, 37,5% ở đồng bằng Bắc Bộ, lên đến 88,9%

ở Nam Trung Bộ và 100% ở Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ. Nói chung, tình trạng thiếu hụt mưa giảm

dần từ Nam ra Bắc. Đặc biệt, lượng mưa thiếu hụt trong đợt El Nino này lên đến 1.887,6 mm tại trạm khí

tượng Phú Quốc.

pdf 13 trang kimcuc 11640
Bạn đang xem tài liệu "Một số đặc điểm về hoàn lưu khí quyển và tình trạng thiếu hụt mưa ở Việt Nam trong đợt el nino 2014-2016", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số đặc điểm về hoàn lưu khí quyển và tình trạng thiếu hụt mưa ở Việt Nam trong đợt el nino 2014-2016

Một số đặc điểm về hoàn lưu khí quyển và tình trạng thiếu hụt mưa ở Việt Nam trong đợt el nino 2014-2016
2 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 4 - 2017
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ HOÀN LƯU KHÍ QUYỂN VÀ TÌNH TRẠNG 
THIẾU HỤT MƯA Ở VIỆT NAM TRONG ĐỢT EL NINO 2014-2016
Nguyễn Văn Thắng(1), Nguyễn Trọng Hiệu(2), Mai Văn Khiêm(1), Vũ Văn Thăng(1)*
(1)Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu
(2)Trung tâm Khoa học Công nghệ Khí tượng Thủy văn và Môi trường
Ngày nhận bài 6/11/2017; ngày chuyển phản biện 8/11/2017; ngày chấp nhận đăng 29/11/2017
Tóm tắt: Đặc điểm hoàn lưu khí quyển và sự thiếu hụt mưa ở Việt Nam trong đợt EL Nino 2014-2016 
được nghiên cứu dựa trên cơ sở số liệu tái phân tích của Trung tâm Quốc gia về Dự báo Môi trường/Trung 
tâm Quốc gia về Nghiên cứu khí quyển (NCEP/NCAR) và số liệu mưa quan trắc của 54 trạm khí tượng của 
Việt Nam. Kết quả cho thấy, trong thời gian hoạt động của đợt El Nino, một số đặc điểm sau đây về hoàn 
lưu khí quyển trên Đông Á - Tây Thái Bình Dương đã được ghi nhận: (1) Suy giảm của yếu tố hoàn lưu gồm 
áp cao Thái Bình Dương (hoạt động thiên về phía Nam và phía Đông của áp thấp xích đạo), khí áp trên Đông 
Bắc Thái Bình Dương, gió Đông, vận tải ẩm hướng Đông, bức xạ phát xạ sóng dài trên nửa phía Đông xích 
đạo Thái Bình Dương; (2) Gia tăng của khí áp trên vùng biển xích đạo - nhiệt đới Tây Thái Bình Dương và 
bức xạ phát xạ sóng dài ở khu vực Việt Nam và phụ cận. Tỷ lệ tháng thiếu hụt mưa vào khoảng 50% ở Bắc 
Bộ, 60% ở Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, lên đến 75,9% ở Tây Nguyên, 73,7% ở Nam Bộ. Tỷ lệ trạm có lượng 
mưa thiếu hụt trong cả đợt là 25% ở Tây Bắc, 28,6% ở Đông Bắc, 37,5% ở đồng bằng Bắc Bộ, lên đến 88,9% 
ở Nam Trung Bộ và 100% ở Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ. Nói chung, tình trạng thiếu hụt mưa giảm 
dần từ Nam ra Bắc. Đặc biệt, lượng mưa thiếu hụt trong đợt El Nino này lên đến 1.887,6 mm tại trạm khí 
tượng Phú Quốc.
Từ khóa: El Nino, hoàn lưu khí quyển, thiếu hụt mưa.
1. Mở đầu
 Vào cuối những năm 1980, hiện tượng El 
Nino được nhiều người Việt Nam biết đến sau 
đợt El Nino nổi tiếng 1982-1983, kéo dài 15 
tháng với chỉ số Nino đại dương (ONI) tháng cao 
nhất đạt mức 2,1ᴼC. Cuối những năm 1990, đợt 
El Nino 1997-1998 kéo dài 14 tháng với chỉ số 
ONI tháng cao nhất lên đến 2,3ᴼC, được coi là 
một trong những hiện tượng khí tượng nổi bật 
của thế kỷ 20 [7]. Đến nay, đợt El Nino từ tháng 
11/2014 đến tháng 5/2016 kéo dài 19 tháng với 
chỉ số ONI tháng cao nhất cũng lên đến 2,3ᴼC 
đã có nhiều đánh giá, nhận xét của nhiều nhà 
khoa học thuộc các lĩnh vực khoa học tự nhiên 
và cả khoa học xã hội về mức độ khắc nghiệt và 
ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và kinh tế 
- xã hội của đợt El Nino này [1]. Gần đây, tác giả 
Nguyễn Đức Ngữ đã trình bày khá chi tiết về diễn 
biến của sự kiện El Nino, biến động của hoàn 
lưu khí quyển, ảnh hưởng của El Nino 2014-
2016 đến sự gia tăng nhiệt độ, thiếu hụt mưa 
gây ra hạn hán và xâm nhập mặn trên nhiều địa 
phương, đặc biệt là vùng ven biển miền Trung, 
Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Tuy 
nhiên, sự biến đổi của khí áp mực biển, vận tải 
ẩm,... và sự thiếu hụt lượng mưa trên các vùng 
khí hậu chưa được tính toán cụ thể [3]. 
Bài báo này phân tích chi tiết diễn biến, đặc 
điểm của hoàn lưu khí quyển liên quan với thiếu 
hụt mưa và phân bố của các đặc trưng phản ảnh 
mức độ thiếu hụt mưa trên các vùng khí hậu của 
Việt Nam trong đợt El Nino 2014-2016.
2. Phương pháp và số liệu
Phương pháp khí hậu Synop được sử dụng để 
phân tích các bản đồ khí hậu phản ảnh điều kiện 
hoàn lưu khí quyển, bao gồm bản đồ trung bình 
tháng thời kỳ 1981-2010, bản đồ chuẩn sai trung 
bình tháng của các đặc trưng: Khí áp mực biển (SLP), 
*Liên hệ tác giả: Vũ Văn Thăng
Email: vvthang26@gmail.com
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 4 - 2017
3
vận tải ẩm tổng hợp (Q) và bức xạ phát xạ sóng dài 
(OLR) các tháng trong đợt El Nino 11/2014-5/2016.
Phương pháp tính toán vận tải ẩm, khí áp mực 
biển và bức xạ phát xạ sóng dài được tính theo các 
phương pháp được các tác giả tổng kết trong [2, 4, 5]. 
Phương pháp thống kê được sử dụng để tính 
toán và phân tích hệ quả thiếu hụt mưa trong 
giai đoạn đầu trùng với mùa đông 2014-2015, 
giai đoạn giữa trùng với mùa hè 2015 và giai 
đoạn cuối bao gồm mùa đông 2015-2016 và 
tháng đầu tiên của mùa hè 2016 đợt El Nino 
2014-2016 thông qua các đặc trưng: Chuẩn sai 
lượng mưa tháng, lượng mưa tháng thiếu hụt 
nhiều nhất, tổng chuẩn sai lượng mưa cả đợt El 
Nino, tổng chuẩn sai lượng mưa âm nhiều nhất 
và một số chỉ tiêu bổ trợ khác.
Số liệu được sử dụng trong bài báo bao gồm: 
khí áp mực biển, thông lượng phát xạ sóng dài, 
độ ẩm riêng (q, g kg-1), gió vĩ hướng, kinh hướng 
(u, v) trên các mực đẳng áp: Từ 1.000 hPa đến 
mực 300 hPa với độ phân giải ngang 2,5°x2,5° 
độ kinh vĩ trên khu vực Đông Á - Tây Thái Bình 
Dương mở rộng (ĐA-TTBD) giới hạn 40°S-60°N, 
60°E-100°W, lấy từ số liệu phân tích lại của 
NCEP/NCAR thời kỳ 1981-2016.
Các đợt El Nino được xác định dựa trên tiêu 
chí của Cơ quan Khí quyển đại dương quốc gia 
(NOAA) dựa vào chỉ số Nino đại dương (ONI). 
ONI là trung bình trượt 3 tháng của chuẩn sai 
nhiệt độ mặt nước biển trên vùng Nino 3.4. Đợt 
El Nino là một chuỗi ít nhất 5 tháng liên tục trị số 
ONI không dưới 0,5°C [6]. 
Số liệu mưa của 54 trạm khí tượng, phân 
chia khá đều cho 7 vùng khí hậu (Hình 1).
Tây Bắc (TB): Mường Tè, Sìn Hồ, Lai Châu, Điện 
Biên, Sông Mã, Yên Châu, Mộc Châu, Sơn La.
Đông Bắc (ĐB): Hà Giang, Sa Pa, Thái Nguyên, 
Phú Hộ, Bảo Lạc, Lạng Sơn, Tiên Yên.
Đồng bằng Bắc Bộ (ĐBBB): Phù Liễn, Hòn Dấu, 
Sơn Tây, Hà Nội, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, 
Nho Quan. 
Bắc Trung Bộ (BTB): Thanh Hóa, Vinh, Tương 
Dương, Kỳ Anh, Hà Tĩnh, Đồng Hới, Đông Hà, Huế.
Nam Trung Bộ (NTB): Đà Nẵng, Tam Kỳ, Ba 
Tơ, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang, 
Trường Sa, Phú Quý.
Tây Nguyên (TN): Kon Tum, Plây cu, Ayunpa, 
Buôn Ma Thuột, Đắk Nông, Đà Lạt, Bảo Lộc.
Nam Bộ (NB): Vũng Tàu, Mỹ Tho, Cần Thơ, Sóc 
Trăng, Rạch Giá, Phú Quốc, Cà Mau. 
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Diễn biến của hoàn lưu khí quyển trong các 
giai đoạn của El Nino 2014-2016
Thời gian tồn tại của đợt El Nino, từ tháng 
11/2014 đến tháng 5/2016 [5]. Theo phương 
pháp phân chia các giai đoạn hoạt động của 
của một đợt El Nino [1], có thể chia đợt El Nino 
2014-2016 làm 3 giai đoạn như sau: (1) Giai 
đoạn đầu: Từ tháng 11/2014 đến tháng 4/2015, 
trùng với mùa đông 2014-2015; (2) Giai đoạn 
giữa: Từ tháng 5/2015 đến tháng 10/2015, trùng 
với mùa hè 2015 và (3) Giai đoạn cuối: Từ tháng 
11/2015 đến tháng 5/2016, bao gồm mùa đông 
2015-2016 và tháng đầu tiên của mùa hè 2016.
Hình 1. Lưới trạm nghiên cứu
4 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 4 - 2017
 Dưới đây trình bày diễn biến của các yếu tố 
hoàn lưu trên ĐA-TTBD trong từng giai đoạn của 
đợt El Nino 11/2014-5/2016. 
3.1.1 Giai đoạn đầu (mùa đông 2014-2015)
 a) Khí áp mực biển
11/2014 12/2014 1/2015
2/2015 3/2015 4/2015
Hình 2. Khí áp mực biển (hPa) trung bình tháng trong giai đoạn đầu, tháng 11/2014-4/2015
11/2014 12/2014 1/2015
2/2015 3/2015 4/2015
Hình 3. Chuẩn sai khí áp mực biển (hPa) trung bình tháng trong giai đoạn đầu, 
tháng 11/2014-4/2015 so với thời kỳ 1981-2010
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 4 - 2017
5
 Áp cao lục địa (CLD) phát triển, có tháng tâm 
áp lên đến 1.030 hPa, áp thấp Aleus (TALE) khơi 
sâu, có tháng tâm áp chỉ 995 hPa, áp cao Thái 
Bình Dương (CTBD) suy yếu, tâm áp vào tháng 
mạnh nhất chỉ 1.020 hPa, áp thấp Ấn Độ (TAĐ) 
rất mờ nhạt, áp thấp xích đạo (TXĐ) thường đóng 
kín trong phạm vi: 20°S-10°N; 100°E-140°W, ở vĩ 
độ thấp hơn và xa hơn về phía Đông, cường độ 
ổn định ở mức 1.010 hPa, rất ít khi tâm áp xuống 
đến 1.008 hPa (Hình 2). Chuẩn sai khí áp mực 
biển trên Hình 3 cho thấy, CTBD mạnh hơn trong 
2 tháng đầu và 2 tháng cuối mùa đông và yếu 
hơn trong 2 tháng giữa mùa đông, CLD yếu hơn 
trong các tháng đầu và giữa mùa đông và mạnh 
hơn trong 2 tháng cuối mùa đông, TALE yếu hơn 
trong các tháng đầu mùa đông và mạnh hơn 
trong các tháng tháng giữa và cuối mùa đông, 
TXĐ lệch Nam và lệch Đông hơn, dẫn đến khí 
áp cao hơn trên nửa phía Tây xích đạo - nhiệt 
đới Thái Bình Dương (TBD). Ở Việt Nam và phụ 
cận (Biển Đông và vịnh Bengal) khí áp mực biển 
thấp hơn so với trung bình nhiều năm trong các 
tháng đầu nửa đầu mùa đông (tháng 11, 12, 1) 
và cao hơn so với trung bình trong các tháng 
nửa cuối mùa đông (tháng 2, 3, 4).
 b) Vận tải ẩm 
 Chuẩn sai véc-tơ tổng vận tải ẩm các tháng 
trong giai đoạn đầu trên Hình 4 cho thấy, dòng 
vận tải ẩm hướng Đông, Đông Bắc trên vùng 
nhiệt đới - xích đạo Thái Bình Dương mạnh hơn 
trong các tháng đầu mùa và yếu hơn trong các 
tháng cuối mùa đông. Dòng vận tải ẩm hướng 
Đông, Đông Bắc ở Biển Đông đến Việt Nam 
trong tháng đầu mùa đông là yếu hơn so với 
trung bình nhiều năm, dòng vận tải ẩm hướng 
Tây, Tây Nam ở Bắc Ấn Độ Dương đến Việt Nam 
trong các tháng cuối mùa đông yếu hơn trung 
bình nhiều năm.
 c) Bức xạ phát xạ sóng dài
 Hình 5 biểu diễn chuẩn sai bức xạ phát xạ 
sóng dài trung bình tháng trong giai đoạn đầu 
cho thấy, OLR thấp hơn trung bình nhiều năm ở 
phía Đông, trung tâm xích đạo Thái Bình Dương 
và cao hơn trung bình nhiều năm ở Việt Nam và 
phụ cận, nhất là ở Trung Bộ, Nam Bộ Việt Nam 
trong các tháng của giai đoạn này.
11/2014 12/2014 1/2015
2/2015 3/2015 4/2015
Hình 4. Chuẩn sai véc-tơ tổng vận tải ẩm (kgm-1s-1) tháng trong giai đoạn đầu, 
tháng 11/2014-4/2015 so với thời kỳ 1981-2010
6 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 4 - 2017
d) Diễn biến của điều kiện hoàn lưu liên quan 
đến tình trạng thiếu hụt mưa ở Việt Nam trong 
mùa đông 2014-2015
 Vào tháng đầu tiên của mùa đông (11/2014), 
dòng vận tải ẩm hướng Đông, Đông Bắc yếu 
hơn bình thường và cường độ bức xạ sóng dài 
mạnh hơn bình thường dẫn đến thiếu hụt mưa 
nghiêm trọng vào cuối mùa mưa ở BTB, NTB 
và TN. Tình trạng thiếu hụt mưa giảm đi trong 
tháng 12/2014 và tháng 1/2015, đến tháng 2, 
tháng 3 và nhất là tháng 4/2015, áp cao TBD 
mạnh lên, áp thấp XĐ yếu đi, lùi về phía Đông 
và phía Nam làm cho khí áp trên các khu vực 
Việt Nam tăng lên, đồng thời dòng vận tải ẩm 
hướng Đông, Đông Bắc yếu đi ở Bắc Bộ, Trung 
Bộ, cường độ bức xạ sóng dài tăng lên ở Trung 
Bộ, Nam Bộ dẫn đến thiếu hụt mưa khá nghiêm 
trọng trên khắp các vùng khí hậu của Việt Nam.
3.1.2. Giai đoạn giữa (mùa hè 2015)
a) Khí áp mực biển
 CLD suy yếu rõ rệt, tâm áp vào tháng thấp 
nhất chỉ 1011 hPa, TALE đầy lên, tâm áp tháng 
7/2015 lên đến 1008 hPa, CTBD phát triển, tâm 
áp tháng 8/2015 lên đến 1026 hPa, TAĐ khơi 
sâu, tâm áp tháng 6/2015 chỉ 1002 hPa, TXĐ 
thường giới hạn trong phạm vi: 10°S-10°N, trải 
rộng từ 60°E đến 100°W với khí áp dưới 1010 
hPa hoặc 1011 hPa (Hình 6). Khác biệt so với 
trung bình thời kỳ 1981-2010 là CTBD yếu hơn 
trong phần lớn các tháng mùa hè, TALE thấp hơn 
rõ rệt trong một số tháng, đáng kể nhất là dải 
TXĐ thường không liên kết với TAĐ và chuẩn 
sai khí áp trên khu vực Đông Nam Á và phụ cận 
thường có dấu dương (Hình 7).
b) Vận tải ẩm
Trên bản đồ chuẩn sai vận tải ẩm (Hình 8), 
dòng vận tải ẩm hướng Đông trên xích đạo Thái 
Bình Dương yếu hơn so với trung bình nhiều 
năm. Dòng vận tải ẩm Tây Nam từ vịnh Bengal 
đến Việt Nam trong các tháng đầu và giữa mùa 
hè tháng 5 - tháng 8 yếu hơn trung bình nhiều 
năm ngoại trừ tháng 7, trong khi vào các tháng 
cuối hè dòng vận tải hướng Đông và Đông Bắc 
ở Biển Đông đến Việt Nam thấp hơn trung bình 
nhiều năm.
11/2014 12/2014 1/2015
2/2015 3/2015 4/2015
Hình 5. Chuẩn sai bức xạ phát xạ sóng dài (w/m2) tháng trong giai đoạn đầu,
 tháng 11/2014-4/2015 so với thời kỳ 1981-2010
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 4 - 2017
7
5/2015 6/2015 7/2015
8/2015 9/2015 10/2015
Hình 6. Khí áp mực biển (hPa) trung bình tháng trong giai đoạn giữa, 
tháng 5/2015-10/2015
5/2015 6/2015 7/2015
8/2015 9/2015 10/2015
Hình 7. Chuẩn sai khí áp mực biển (hPa) trong giai đoạn giữa, 
tháng 5/2015-10/2015 so với thời kỳ 1981-2010
8 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 4 - 2017
5/2015 6/2015 7/2015
8/2015 9/2015 10/2015
Hình 8. Chuẩn sai véc-tơ tổng vận tải ẩm (kgm-1s-1) trong giai đoạn giữa, 
tháng 5/2015-10/2015 so với thời kỳ 1981-2010
c) Bức xạ phát xạ sóng dài
 Trên bản đồ chuẩn sai bức xạ phát xạ sóng 
dài (Hình 9), OLR trên vùng xích đạo phía Tây 
kinh tuyến 140°E thấp hơn so với trung bình 
nhiều năm và OLR cao hơn trung bình nhiều 
năm trên Biển Đông và các vùng khác nhau của 
Việt Nam ngoại trừ tháng 7.
5/2015 6/2015 7/2015
8/2015 9/2015 10/2015
Hình 9. Chuẩn sai bức xạ phát xạ sóng dài (w/m2) các tháng trong giai đoạn giữa, 
tháng 5/2015-10/2015 so với trung bình thời kỳ 1981-2010
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 4 - 2017
9
d) Diễn biến của điều kiện hoàn lưu liên quan 
đến tình trạng thiếu hụt mưa ở Việt Nam trong 
mùa hè 2015
Trong mùa hè 2015 (trừ tháng 7) không có 
sự liên kết giữa áp thấp Ấn Độ với áp thấp xích 
đạo, tạo điều kiện cho khí áp tăng lên trên các 
khu vực Việt Nam, cùng với sự gia tăng bức xạ 
phát xạ sóng dài trên các vĩ độ nhiệt đới ở phía 
Tây TBD dẫn đến thiếu hụt lượng mưa nghiêm 
trọng. Tình trạng thiếu hụt mưa giảm đi trong 
tháng 7 do có sự liên kết giữa áp thấp Ấn Độ và 
áp thấp xích đạo, trong tháng 9 do có sự tăng 
cường dòng vận tải ẩm hướng Tây, Tây Nam trên 
khu vực Bắc Bộ và Trung Bộ. 
3.1.3. Giai đoạn cuối (mùa đông 2015-2016)
a) Khí áp mực biển
Vào nửa đầu mùa đông (tháng 11, 12, 1) 
CLD phát triển mạnh mẽ, tâm áp tháng 1/2016 
lên đến 1040 hPa, TALE khơi sâu, tâm áp tháng 
1/2016 xuống đến 985 hPa, CTBD suy yếu, tâm 
áp tháng 1/2016 chỉ còn 1020 hPa, TAĐ gần như 
mất hẳn, TXĐ có tâm áp dưới 1010 hPa hoặc 
1011 hPa, giới hạn trong phạm vi: 20°S-5°N; 
120°E-120°W hoặc trải dài về phía Tây, hơi thấp 
về phía bán cầu Nam và hơi lệch về phía Tây 
(Hình 10). Trên bản đồ chuẩn sai khí áp nổi lên 
sự suy giảm của khí áp trên Đông Bắc TBD và 
sự gia tăng của khí áp trên Tây Bắc TBD nhưng 
không đáng kể ở Việt Nam (Hình 11). Vào nửa 
cuối mùa đông (tháng 2, 3, 4), dải thấp xích đạo 
yếu đi, rìa CTBD lấn sâu về phía Tây, Tây Nam làm 
tăng khí áp trên các khu vực Việt Nam.
b) Vận tải ẩm
 So với trung bình thời kỳ 1981-2010, dòng 
vận tải ẩm hướng Tây, Tây Nam ở phía Bắc vịnh 
Bengal đến Bắc Bộ Việt Nam mạnh hơn trong 
các tháng của giai đoạn ngoại trừ tháng 2/2016, 
dòng vận tải ẩm hướng Đông, Đông Bắc ở 
xích đạo nhiệt đới và Biển Đông yếu hơn bình 
thường trong hầu hết các tháng ngoại trừ tháng 
2 và tháng 5/2016 (Hình 12).
11/2015 12/2015 1/2016
2/2016 3/2016 4/2016
Hình 10. Khí áp mực biển (hPa) trung bình tháng trong giai đoạn cuối,
tháng 11/2015-4/2016
10 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 4 - 2017
11/2015 12/2015 1/2016
2/2016 3/2016 4/2016
Hình 11. Chuẩn sai khí áp mực biển (hPa) trong giai đoạn cuối, 
tháng 11/2015-4/2016 so với trung bình thời kỳ 1981-2010
11/2015 12/2015 1/2016
2/2016 3/2016 4/2016
Hình 12. Chuẩn sai véc-tơ tổng vận tải ẩm (kgm-1s-1) trong giai đoạn cuối, 
tháng 11/2015-4/2016 so với thời kỳ 1981-2010
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 4 - 2017
11
c) Bức xạ phát xạ sóng dài
 So với trung bình thời kỳ 1981-2010, OLR 
thấp hơn rõ rệt trên nửa phía Đông nhiệt đới 
xích đạo Thái Bình Dương và cao hơn đáng kể 
trên nửa phía Tây nhiệt đới xích đạo Thái Bình 
Dương trong đó có Việt Nam, Biển Đông và vịnh 
Bengal (Hình 13).
d) Diễn biến của điều kiện hoàn lưu liên quan 
đến tình trạng thiếu hụt mưa ở Việt Nam trong 
mùa đông năm 2015-2016
Vào đầu mùa đông (tháng 11/2015, 12/2015, 
1/2016) tình trạng thiếu hụt mưa tạm thời lắng 
đi. Từ tháng 2/2016 nhất là vào tháng 3/2016 rìa 
áp cao TBD lấn sâu về phía Tây Nam làm cho khí 
áp tăng lên trên các khu vực Việt Nam đồng thời 
bức xạ sóng dài phát triển mạnh trên các vĩ độ 
nhiệt đới làm gia tăng bức xạ sóng dài trên các 
khu vực Việt Nam, dẫn đến thiếu hụt lượng mưa 
nghiêm trọng trên hầu hết các vùng khí hậu, đặc 
biệt là Tây Nguyên và Nam Bộ. 
3.2 Tình trạng thiếu hụt mưa trong các giai 
đoạn của El Nino 2014-2016
Thiếu hụt mưa trong từng giai đoạn được 
đánh giá bằng 3 chỉ tiêu liên quan với thiếu hụt 
mưa trong các tháng: (1) Tỷ lệ tháng thiếu hụt 
mưa (tỷ số giữa số tháng có chuẩn sai lượng 
11/2015 12/2015 1/2016
2/2016 3/2016 4/2016
Hình 13. Chuẩn sai bức xạ phát xạ sóng dài (w/m2) trong giai đoạn cuối, 
tháng 11/2015-4/2016 so với trung bình thời kỳ 1981-2010
mưa âm và số tháng quan trắc trên các trạm 
nghiên cứu); (2) Lượng mưa tháng thiếu hụt 
nhiều nhất phổ biến và (3) Lượng mưa tháng 
thiếu hụt nhiều nhất tuyệt đối
 Sau đây là phân bố của từng đặc trưng trong 
3 giai đoạn trên các vùng khí hậu và trên cả 
nước.
3.2.1. Giai đoạn đầu
 Trong giai đoạn đầu, tỷ lệ tháng thiếu hụt 
mưa trên cả nước là 54,9%, cao nhất ở TN 
(71,4%), tiếp đến NB (66,7%), ĐB (57,1%), 
TB (54,2%), NTB (51,9%) và thấp nhất ở BTB 
(41,7%), tiếp đến ĐBBB (47,9%).
 Lượng mưa tháng thiếu hụt nhiều nhất phổ 
biến là 20-50 mm ở TB, ĐB, ĐBBB, 50-100 mm ở 
TN, NB và 50-200 mm ở BTB, NTB.
 Lượng mưa tháng thiếu hụt nhiều nhất tuyệt 
đối ở TB là 62,2 mmm (Yên Châu, tháng 4/2015), 
ở ĐB là 63,7 mmm (Tiên Yên, tháng 4/2015), ở 
12 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 4 - 2017
ĐBBB là 65,1 mm (Hà Nội, tháng 4/2015), ở BTB 
là 385,3 mm (Huế, tháng 11/2014), ở NTB là 
370,3 mm (Ba Tơ, tháng 11/2014), ở TN là 116,0 
mm (Đắk Nông, tháng 4/2015) và ở NB là 157,5 
mm (Phú Quốc, tháng 4/2015).
3.2.2. Giai đoạn giữa
 Trong giai đoạn giữa, tỷ lệ tháng thiếu hụt 
mưa trên cả nước là 67,6% (65,4%), cao nhất 
ở BTB (77,1%), tiếp đến NTB (72,2%), TN, NB 
(71,4%), ĐBBB (68,8%), thấp nhất ở TB (37,5%), 
tiếp đến ĐB (59,5%). Lượng mưa tháng thiếu 
hụt nhiều nhất phổ biến là 100-150 mm ở TB, 
ĐB, 100-200 mm ở TN, NB và 100-500 mm ở 
BTB, NTB.
 Lượng mưa tháng thiếu hụt nhiều nhất tuyệt 
đối ở TB là 173,9 mm (Điện Biên, tháng 5/2015), 
ở ĐB là 212,2 mm (Thái Nguyên, tháng 7/2016), 
ở ĐBBB là 189,8 mm (Hà Nội, tháng7/2015), ở 
BTB là 679,6 mm (Hà Tĩnh, tháng 10/2015), ở 
NTB là 641,5 mm (Ba Tơ, tháng 10/2015), ở TN là 
249,7 mm (tháng 8/2015) và ở NB là 458,9 mm 
(Phú Quốc, tháng 8/2015).
3.2.3. Giai đoạn cuối
Trong giai đoạn cuối, tỷ lệ tháng thiếu hụt 
mưa trên cả nước là 57,4%, cao nhất ở NB 
(83,7%), tiếp đến TN (77,6%), NTB (73,2%), BTB 
(58,9%), thấp nhất ở ĐBBB (37,5%), ĐB (40,8%) 
và TB (41,1%). Lượng mưa tháng thiếu hụt nhiều 
nhất phổ biến là 10-30 mm ở TB, 30-100 mm ở 
ĐB, ĐBBB, BTB, TN, NB và 100-200 mm ở NTB. 
Lượng mưa tháng thiếu hụt nhiều nhất tuyệt 
đối ở TB là 73,3 mm (Sìn Hồ, tháng 5/2016), ở 
ĐB là 186 mm (Tiên Yên, tháng 5/2016), ở ĐBBB 
là 128,7 mm (Thái Bình, tháng 5/2016), ở BTB là 
133,3 mm (Huế, tháng 11/2015), ở NTB là 279,4 
mm (Trường Sa, tháng 12/2015), ở TN là 98,2 
mm (Ayunpa, tháng 11/2015) và ở NB là 242,2 
mm (Phú Quốc, tháng 5/2016). 
Tính chung cả 3 giai đoạn, tỷ lệ tháng thiếu 
hụt mưa trên phạm vi cả nước là 59,2%, trên 7 
vùng khí hậu: TB, ĐB, ĐBBB, BTB, NTB, TN và NB 
lần lượt là 44,1%, 51,9%, 50,7%, 59,2%, 63,2%, 
75,9% và 73,7%, cao nhất ở TN, NB, thấp nhất ở 
TB, ĐB, ĐBBB. Giảm dần từ Nam ra Bắc, khác với 
phân bố khá đồng đều trên 7 vùng khí hậu trong 
đợt El Nino 1997-1998: 65,4% (TB), 71,4% (ĐB), 
62,5% (ĐBBB), 76,9% (BTB), 70,9% (NTB), 73,6% 
(TN), 64,8% (NB).
 Xét chung cả 3 giai đoạn, lượng mưa tháng 
thiếu hụt nhiều nhất trên cả nước là 579,6 mm, 
trên TB là 173,9 mm, trên ĐB là 212,2 mm, trên 
ĐBBB là 189,8 mm, BTB là 679,6 mm, NTB là 
641,5 mm, TN là 249,7 mm và NB là 458,9 mm. 
Đáng chú ý là, trị số lượng mưa thiếu hụt trong 
một tháng như trên có thể được coi là ngang 
tầm với các chuẩn sai lượng mưa âm lớn nhất 
từ trước đến nay. 
 3.3. Mức độ thiếu hụt mưa trong cả đợt El 
Nino 2014-2016 
 Mức độ thiếu hụt mưa trong cả đợt El Nino 
được đánh giá thông qua các chỉ tiêu liên quan 
với tổng chuẩn sai lượng mưa cả đợt: (1) Tỷ lệ 
trạm có tổng chuẩn sai lượng mưa cả đợt âm (tỷ 
số giữa số trạm có tổng chuẩn sai lượng mưa âm 
và số trạm nghiên cứu); (2) Tổng chuẩn sai lượng 
mưa cả đợt âm nhiều nhất.
Việc phân tích mức độ thiếu hụt lượng 
mưa trên các vùng khí hậu của cả đợt El Nino 
11/2014-5/2016 cho phép rút ra một số nhận 
xét như sau:
Trên vùng khí hậu Tây Bắc, trong 8 trạm nghiên 
cứu, chỉ 2 trạm: Sìn Hồ, Sông Mã (đạt tỷ lệ 25%) 
có tổng chuẩn sai lượng mưa âm, nhiều nhất là 
350,8 mm ở trạm Sông Mã.
 Trên vùng khí hậu Đông Bắc, trong 7 trạm 
nghiên cứu, chỉ 2 trạm: Sa Pa, Hà Giang (28,6%) 
có tổng chuẩn sai lượng mưa âm, nhiều nhất là 
327,0 mm ở trạm Sa Pa.
Trên vùng khí hậu đồng bằng Bắc Bộ, trong 
8 trạm nghiên cứu, có 5 trạm: Sơn Tây, Hà Nội, 
Nam Định, Ninh Bình, Nho Quan (62,5%) tổng 
chuẩn sai lượng mưa âm, nhiều nhất là 289,5 mm 
ở trạm Nho Quan.
 Trên vùng khí hậu Bắc Trung Bộ, cả 8 trạm 
nghiên cứu (100%) đều có tổng chuẩn sai lượng 
mưa âm, nhiều nhất là 805,3 mm ở trạm Kỳ Anh.
Trên vùng khí hậu Nam Trung Bộ, trong 9 
trạm nghiên cứu, ngoài trạm Phú Quý ra, cả 7 
trạm (87,5%) đều có tổng chuẩn sai lượng mưa 
âm, nhiều nhất là 793,9 mm ở trạm Tuy Hòa.
Trên vùng khí hậu Tây Nguyên, cả 7 trạm 
nghiên cứu (100%) đều có tổng chuẩn sai lượng 
mưa âm, nhiều nhất là 845,9 mm tại trạm Đắk 
Nông.
Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 4 - 2017
13
Trên vùng khí hậu Nam Bộ, cả 7 trạm nghiên 
cứu (100%) đều có tổng chuẩn sai lượng mưa âm, 
nhiều nhất là 1.887,6 mm tại trạm Phú Quốc.
Trên phạm vi cả nước, trong 54 trạm nghiên 
cứu, 38 trạm (đạt tỷ lệ 70,4%) có tổng chuẩn 
sai lượng mưa âm. Đặc biệt, lượng mưa thiếu 
hụt trong cả đợt El Nino lên đến 1.887,6 mm 
tại trạm Phú Quốc là kỷ lục thiếu hụt mưa trong 
một đợt El Nino.
4. Kết luận
Đợt El Nino 2014-2016 kéo dài nhất và có 
cường độ vào loại mạnh nhất trong lịch sử quan 
trắc ENSO, mang một số đặc điểm nổi bật về 
hoàn lưu khí quyển và gây ra tình trạng thiếu 
hụt mưa nghiêm trọng trên các vùng khí hậu của 
Việt Nam.
 Đặc điểm nổi bật về hoàn lưu khí quyển 
trong đợt El Nino này là: (1) Sự hạ thấp của khí 
áp trên các vĩ độ trung bình, cận nhiệt đới Thái 
Bình Dương do CTBD suy yếu và sự tăng lên của 
khí áp trên vùng nhiệt đới - xích đạo TBD do TXĐ 
không liên kết với TAĐ; (2) Sự suy yếu của gió 
Đông và vận tải ẩm hướng Đông, bức xạ phát 
xạ sóng dài trên vùng trung tâm và phía Đông 
xích đạo Thái Bình Dương; (3) Sự tăng lên của 
bức xạ phát xạ sóng dài trên khu vực Việt Nam 
và phụ cận.
Sự thiếu hụt mưa xảy ra trên các vùng khí 
hậu trong cả 3 giai đoạn của El Nino 2014-2016, 
đặc biệt nghiêm trọng ở giai đoạn giữa. Mức 
độ thiếu hụt mưa nhẹ dần từ Nam ra Bắc, nặng 
nhất ở TN, NB, tiếp đến NTB, BTB và nhẹ nhất ở 
TB, ĐB, ĐBBB
Lượng mưa thiếu hụt trong cả đợt lên tới 
1.887,6 mm ở Phú Quốc là kỷ lục về thiếu hụt 
mưa trong điều kiện El Nino. Lượng mưa thiếu 
hụt trong một tháng lên tới 679,6 mm ở Hà Tĩnh 
và 641,5 mm ở Ba Tơ tương đương với các kỷ lục 
chuẩn sai âm của lượng mưa trong các chuỗi số 
liệu mưa lịch sử ở các điểm đo này.
Tài liệu tham khảo
1. Ban Chỉ đạo trung ương về phòng chống thiên tai (2016), Báo cáo tình hình hạn hán, xâm nhập 
mặn và các giải pháp ứng phó.
2. Nguyễn Trọng Hiệu và nnk (2014), Nghiên cứu những đặc trưng cơ bản và tác động của ENSO đến 
hạn hán, mưa lớn ở Việt Nam và khả năng dự báo, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học 
cấp Nhà nước.
3. Nguyễn Đức Ngữ (2017), “El Nino 2015/2016 và tác động với Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Biến đổi 
khí hậu, số 1, tháng 3/2017.
4. Vũ Văn Thăng (2016), Đặc điểm vận tải ẩm ở Việt Nam trong các đợt ENSO, Luận án tiến sĩ Khoa 
học Trái đất.
5. Sminov, V., and G. Moor (2000), Short-term and seasonal variability of the atmospheric water 
vapour transport through the Mackenzie River Basin. J. of Hydromet., 2, 441-452.
6. Kousky, V. E., R. W. Higgins (2007), An Alert Classification System for Monitoring and Assessing the 
ENSO Cycle. Wea. Forecasting, 22, 353–371.
7. WMO, UNESCO, UNEP, ISCV (1999), The 1997-1998 ElNino event-a scientific and technical 
Retrospective.
THE CHARACTERISTICS OF ATMOSPHERICAL CIRCULATION AND STATUS 
OF RAINFALL DEFICIT IN VIET NAM DURING 2014-2016 EL NINO EVENT
Nguyen Van Thang(1), Nguyen Trong Hieu(2), Mai Van Khiem(1), Vu Van Thang(1)
(1)Viet Nam Institute of Meteorology, Hydrology and Climate change 
(2)Center for Hydro-Meteorological, Environmental Science and Technology 
Abstract: Analysis of the relationship between atmospheric circulation characteristics and rainfall 
14 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu
Số 4 - 2017
deficit in Viet Nam during the 2014-2016 El Nino was based on the NCEP/NCAR re-analysis dataset and 54 
observed rainfall stations in Viet Nam. The results show that during the event, the main characteristics of 
atmospheric circulation over East Asia-West Pacific were found: Weakening of the Western Pacific 
subtropical high; southward and eastward shift of the Equatorial Low-pressure trough; Decreasing of 
pressure over the North East Pacific and eastern wind, Eastward moisture transformation, outgoing 
longwave radiation over the eastern part of the tropical equatorial Pacific; Increasing of pressure over the 
West Pacific and outgoing longwave radiation over Viet Nam and adjacent regions.
 The frequency of monthly rainfall deficit was around 50% in North West, North East, North 
Delta, 60% in North Central, South Central and 75.9% in Central Highlands, 73.0% on South Delta. The 
ratio of meteorological stations with rainfall deficit in the event was 25% in North West, 28.6 on North East, 
37.5 in North Delta, 88.9% in South Central and 100% in North Central, Central Highlands, South Delta. In 
general, rainfall deficit gradually decreased from South to North climate zones. In particular, the most 
deficient rainfall in this event reached 1887.6 mm at Phu Quoc meteorological station.
Keywords: El nino, atmospherical ciculation, rainfall deficit.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_dac_diem_ve_hoan_luu_khi_quyen_va_tinh_trang_thieu_hu.pdf