Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay

Đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị không còn là vấn đề mới mẻ, đã được nhiều học giả

trong và ngoài nước nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi

mới chính trị có vị trí rất quan trọng trong các mối quan hệ lớn cần đặc biệt chú trọng, nắm vững và

giải quyết tốt trong quá trình đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta. Trong điều

kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam hiện nay, giải quyết tốt

mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là nhiệm vụ trọng tâm và là một nội dung cốt

lõi quan trọng trong các quan điểm, đường l ối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.

pdf 12 trang kimcuc 12680
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay

Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay
 26
Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế 
và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay 
Vũ Thị Thu Quyên1 
1 Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 
Email: quyenbctt@gmail.com 
Nhận ngày 22 tháng 8 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 8 tháng 10 năm 2019. 
Tóm tắt: Đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị không còn là vấn đề mới mẻ, đã được nhiều học giả 
trong và ngoài nước nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi 
mới chính trị có vị trí rất quan trọng trong các mối quan hệ lớn cần đặc biệt chú trọng, nắm vững và 
giải quyết tốt trong quá trình đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta. Trong điều 
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam hiện nay, giải quyết tốt 
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là nhiệm vụ trọng tâm và là một nội dung cốt 
lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Từ khóa: Nhận thức, mối quan hệ, đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị. 
Phân loại ngành: Chính trị học 
Abstract: Economic renovation and political renovation are no longer new issues, having been 
studied by many domestic and foreign scholars from different angles. The relationship between 
them plays a very important role among the major relationships that need to be paid special 
attention to, mastered and handled well in the process of renovation and building socialism in our 
country. In the current context of building the socialist rule-of-law state of Vietnam, handling well 
the relationship is a central task and an important core content in the views, guidelines and policies 
of the Communist Party of Vietnam. 
Keywords: Understanding, relationship, economic renovation, political renovation. 
Subject classification: Politics 
1. Đặt vấn đề 
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối 
quan hệ cơ bản của đời sống xã hội, biểu 
hiện rõ nhất ở quan hệ giữa quyền lực chính 
trị (chủ yếu là quyền lực nhà nước) đối với 
kinh tế, hướng tới sự phát triển kinh tế - xã 
hội, nhằm bảo vệ chế độ chính trị và lợi ích 
Vũ Thị Thu Quyên 
 27
giai cấp cầm quyền. C.Mác và Ph.Ăngghen 
coi quan hệ giữa kinh tế và chính trị là quan 
hệ giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ 
sở. Trong đó, hạ tầng cơ sở - kinh tế giữ vai 
trò quyết định. Đồng thời, thượng tầng kiến 
trúc - chính trị cũng có tính độc lập tương 
đối, tác động trở lại hạ tầng cơ sở. Phát 
triển quan điểm trên, V.Lênin đã khái quát 
bản chất mối quan hệ giữa kinh tế và chính 
trị như sau: “Chính trị là sự biểu hiện tập 
trung của kinh tế” [13, t.42, tr.349]; “Chính 
trị là kinh tế cô đọng lại” [13, t.45, tr.147]. 
“Chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu 
so với kinh tế” [13, t.42, tr.349]. 
Trong hơn 30 năm lãnh đạo sự nghiệp 
đổi mới, quan điểm của Đảng về mối quan 
hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị 
ngày càng sáng rõ hơn. Đảng ta đã vận 
dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của 
chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn phát 
triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, giữ 
vững định hướng XHCN, nâng cao đời 
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bài 
viết tập trung phân tích sự phát triển nhận 
thức của Đảng về mối quan hệ giữa đổi mới 
kinh tế và đổi mới chính trị; thực trạng và 
định hướng mối quan hệ giữa đổi mới kinh 
tế và đổi mới chính trị. 
2. Sự phát triển nhận thức của Đảng ta 
về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và 
đổi mới chính trị 
2.1. Về đổi mới kinh tế 
Nhận thức của Đảng về đổi mới kinh tế 
chính là quá trình đổi mới tư duy về lãnh 
đạo kinh tế. Để hình thành đường lối đổi 
mới toàn diện, Đảng ta đã trải qua ba bước 
đột phá trong tư duy: Một là, tại Hội nghị 
Trung ương 6 khoá IV (tháng 8/1979), với 
quan điểm “làm cho sản xuất bung ra”, 
Đảng ta điều chỉnh những chủ trương, 
chính sách kinh tế, phá bỏ những cản trở để 
cho lực lượng sản xuất phát triển. Hai là, 
Nghị quyết Trung ương 8 khóa V (6/1985) 
quyết định xóa bỏ cơ chế tập trung quan 
liêu bao cấp, thực hiện chế độ một giá, xóa 
bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, 
chuyển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh 
sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN, 
chuyển ngân hàng sang nguyên tắc kinh 
doanh. Ba là, những kết luận quan trọng 
của Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8/1986), 
có tính chất bước ngoặt trong nhận thức về 
đổi mới kinh tế: (1) bố trí lại cơ cấu kinh tế, 
cơ cấu đầu tư, lấy nông nghiệp làm mặt trận 
hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, 
công nghiệp nặng được phát triển có chọn 
lọc; (2) thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều 
thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH 
ở nước ta; (3) trong cơ chế quản lý kinh tế 
thừa nhận lấy kế hoạch làm trung tâm 
nhưng phải sử dụng đúng quan hệ tiền tệ, 
hàng hóa. Đây là sự phát triển vượt bậc về 
tư duy lý luận đổi mới kinh tế gắn với đổi 
mới chính trị của Đảng ta. 
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn lãnh đạo 
đất nước hơn 30 năm đổi mới, lý luận về 
con đường đi lên CNXH ở nước ta, trong 
đó có đổi mới kinh tế, ngày càng sáng tỏ 
hơn. Đại hội Đảng VI (năm 1986), đề ra 
đường lối đổi mới toàn diện đất nước; bước 
chuyển quan trọng trong nhận thức về 
CNXH và con đường đi lên CNXH đã được 
khẳng định và có ảnh hưởng quyết định đến 
việc hình thành hệ thống thể chế kinh tế thị 
trường (KTTT) định hướng XHCN sau này; 
đến năm 1989, Đảng ta có bước chuyển căn 
bản về nhận thức, lý luận khi thừa nhận cơ 
chế quản lý mới là “cơ chế thị trường có sự 
quản lý của Nhà nước định hướng XHCN”. 
Đại hội Đảng VII (năm 1991) đề ra nhiệm 
vụ phải tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 - 2019 
 28
hoá nhiều thành phần và đổi mới kinh tế, 
nhấn mạnh sản xuất hàng hoá không đối lập 
với CNXH, “chúng ta chủ trương thực hiện 
nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành 
phần theo định hướng XHCN” [4, tr.116]. 
Khi đất nước đạt được những thành tựu 
quan trọng bước đầu, thoát khỏi khủng 
hoảng kinh tế - xã hội, Đại hội Đảng VIII 
(năm 1996), đã xác định mục tiêu đẩy mạnh 
công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa 
(HĐH) đất nước, xây dựng nước ta thành 
một nước công nghiệp vào năm 2020. Đại 
hội Đảng IX (năm 2001), chính thức đưa ra 
khái niệm “KTTT định hướng XHCN”, 
khẳng định xây dựng và phát triển nền 
KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh 
tế tổng quát, là đường lối chiến lược nhất 
quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi 
lên CNXH. Trước bối cảnh đẩy mạnh hội 
nhập quốc tế sâu, rộng, Đại hội Đảng X 
(năm 2006) đã đánh dấu những bước tiến 
mới, mạnh mẽ hơn, rõ ràng hơn trong tư 
duy lý luận về KTTT định hướng XHCN. 
Đảng ta chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể 
chế KTTT định hướng XHCN, đẩy mạnh 
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri 
thức; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tại 
Hội nghị Trung ương 6 khóa X (3/2008), 
Đảng ta đưa ra khái niệm chính thức: “Nền 
KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế 
trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên 
tắc vận hành KTTT được tự giác tạo lập và 
sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, 
từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, 
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội 
công bằng, dân chủ, văn minh” [3]. 
Đại hội XI Đảng (2011), xác định rõ, cần 
phải đứng trên quan điểm lịch sử - cụ thể và 
quan điểm thực tiễn, xuất phát từ điều kiện 
đổi mới của Việt Nam và xu thế phát triển 
kinh tế tri thức trong thời đại cách mạng 
khoa học - công nghệ, xã hội thông tin để 
thấy tính hợp lý trong điều chỉnh nhận 
thức từ tư duy về chế độ công hữu về các tư 
liệu sản xuất chủ yếu sang tư duy về quan 
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Đại hội Đảng 
XII (2016), chủ trương tiếp tục đổi mới mô 
hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy 
mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế 
tri thức; hoàn thiện thể chế, phát triển KTTT 
định hướng XHCN; khẳng định mô hình 
KTTT định hướng XHCN Việt Nam là nền 
kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các 
quy luật của KTTT, đồng thời bảo đảm 
định hướng XHCN phù hợp với từng giai 
đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền 
KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự 
quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, 
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. 
Tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XII 
(2017), Đảng ta khẳng định phát triển kinh 
tế tư nhân trở thành động lực quan trọng 
của nền KTTT định hướng XHCN, góp 
phần phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền 
vững, không ngừng nâng cao đời sống của 
nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã 
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, sớm đưa 
nước ta trở thành nước công nghiệp theo 
hướng hiện đại. 
Như vậy, cùng với quá trình đổi mới, hệ 
thống quan điểm, lý luận về đổi mới kinh 
tế, về KTTT định hướng XHCN đã được 
hình thành và ngày càng sáng tỏ hơn. Đây 
cũng chính là nền tảng lý luận cơ bản để 
Việt Nam tạo dựng cho mình hệ thống thể 
chế kinh tế mới, vừa đáp ứng được các yêu 
cầu của nền KTTT, vừa bảo đảm được mục 
tiêu xây dựng xã hội theo định hướng 
XHCN. Đảng ta đã đề ra phương hướng 
giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa 
KTTT và CNXH. KTTT được sử dụng như 
một công cụ, phương tiện để xây dựng 
CNXH. KTTT định hướng XHCN là mô 
hình kinh tế phù hợp với đặc điểm của đất 
nước. Đây là vấn đề mang tính chiến 
lược để xây dựng thành công CNXH ở 
Việt Nam. 
Vũ Thị Thu Quyên 
 29
2.2. Về đổi mới chính trị 
Trước đây chúng ta dùng khái niệm chuyên 
chính vô sản để chỉ hệ thống và cơ cấu các 
cơ quan quyền lực lãnh đạo và quản lý xã 
hội. Đại hội Đảng VI xác định Nhà nước ta 
là Nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện 
chế độ dân chủ XHCN, khẳng định “Dân 
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra thể 
hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý 
nhà nước của mình” [1, tr.112]; “Ổn định 
và phát triển gắn liền với nhau trong quá 
trình vận động tiến lên, ổn định để phát 
triển và có phát triển mới ổn định” [1, 
tr.43]. Đây chính là quan điểm xuất phát 
cho việc đổi mới chính trị. Từ đó, Đảng ta 
chủ trương: (1) thực hiện “một cuộc cải 
cách lớn về tổ chức bộ máy nhà nước” theo 
hướng tăng cường quyền làm chủ của nhân 
dân, giảm bớt phiền hà cho nhân dân và 
phân định rõ chức năng quản lý kinh tế của 
các ngành và địa phương; (2) tăng cường 
quản lý bằng pháp luật đi đôi với tăng 
cường vai trò của Nhà nước trong việc xây 
dựng pháp luật và tuyên truyền, giáo dục 
cho nhân dân; (3) đổi mới và tăng cường sự 
lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu của sự 
nghiệp xây dựng CNXH. 
Từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI, 
Đảng ta bắt đầu dùng khái niệm hệ thống 
chính trị (HTCT). HTCT bao gồm các bộ 
phận cấu thành là Đảng, Nhà nước, Mặt 
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân và 
mối quan hệ, tác động qua lại giữa các tổ 
chức đó. HTCT thể hiện rõ nét nhất cơ chế 
thực hiện quyền lực chính trị ở nước ta là 
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân 
dân làm chủ”. Đảng ta đã xác định nhiệm 
vụ về đổi mới tổ chức và phương thức hoạt 
động của HTCT. Như vậy, Đảng ta đã nhận 
thức rõ hơn tính hệ thống, tính chỉnh thể và 
mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ 
thống, tách biệt tương đối giữa hệ thống tổ 
chức bộ máy với các yếu tố khác của nền 
chính trị, xác định rõ Mặt trận Tổ quốc Việt 
Nam và 5 đoàn thể nhân dân là thành viên 
của HTCT. 
Đại hội Đảng VII, Đảng ta ghi rõ mục 
tiêu tổng quát của HTCT: “Toàn bộ tổ chức 
và hoạt động của HTCT nước ta trong giai 
đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước 
hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm 
quyền lực thuộc về nhân dân” [2, tr.19], và 
xác định: “Thực hiện dân chủ XHCN là 
thực chất của việc đổi mới và kiện toàn 
HTCT. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động 
lực của công cuộc đổi mới” [4, tr.90]. Như 
vậy, đổi mới HTCT không phải là thay đổi 
chế độ chính trị, mà làm cho chế độ chính 
trị đã được kiến lập ở nước ta ngày càng 
bền vững hơn, thể hiện đúng đắn và đầy đủ 
hơn bản chất XHCN, phát huy tính ưu việt 
và vai trò tích cực của chính trị đối với sự 
phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta xác định 
trọng tâm của đổi mới HTCT là đổi mới tổ 
chức và phương thức hoạt động của các bộ 
phận cấu thành hệ thống. Vấn đề mấu chốt 
nhất và cũng khó nhất là đổi mới phương 
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, 
khắc phục cả hai khuynh hướng thường xảy 
ra trong thực tế: hoặc là Đảng bao biện làm 
thay Nhà nước, hoặc là buông lỏng sự lãnh 
đạo của Đảng. Trong Cương lĩnh năm 1991, 
lần đầu tiên Đảng ta nêu ra quan niệm hoàn 
chỉnh về phương thức lãnh đạo của Đảng. 
Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, 
các định hướng về chính sách và chủ trương 
công tác, bằng công tác tuyên truyền, thuyết 
phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng 
hành động gương mẫu của đảng viên [7, 
tr.147]. Về nguyên tắc tổ chức Nhà nước, 
lần đầu tiên Đảng ta xác định: “Nhà nước 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 - 2019 
 30
Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, 
hành pháp và tư pháp, với sự phân công 
rành mạch ba quyền đó” [2, tr.20]. Xét về 
hiệu quả lãnh đạo chính trị, có thể nói rằng, 
tư duy lý luận của Đảng ta trong những 
năm đổi mới cho phép tạo ra những bước 
tiến mới về đổi mới phương thức lãnh đạo 
của Đảng, có bước đột phá quan trọng vào 
khâu khó nhất, nhạy cảm nhất mà nhiều 
năm trước đây chưa tháo gỡ được. Đây là 
một cống hiến quan trọng của Đảng ta vào 
sự phát triển lý luận về đảng cầm quyền. 
Đại hội Đảng IX khẳng định nguyên 
tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước 
pháp quyền XHCN: Quyền lực nhà nước 
là thống nhất, có sự phân công và phối 
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong 
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành 
pháp và tư pháp. Dân chủ XHCN vừa là 
mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc 
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể 
hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà 
nước và nhân dân. Bản Hiến pháp sửa 
đổi (năm 2001) cũng nhấn mạnh: Nhà 
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là Nhà 
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, 
do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền 
lực nhà nước thuộc về nhân dân, mà nền 
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân 
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. 
Trong đặc trưng xã hội XHCN, Đại 
hội Đảng X xác định “do nhân dân làm 
chủ” thay cho “do nhân dân lao động làm 
chủ”, thể hiện tư duy mới. Đại hội nhấn 
mạnh: Chúng ta chủ trương xây dựng 
một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, 
đảng viên và công chức phải thật sự là 
công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát 
của nhân dân [6, tr.45]. 
Đại hội Đảng XII chủ trương xây dựng, 
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN 
phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành 
pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ 
với đổi mới HTCT theo hướng tinh gọn, 
hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, 
văn hoá, xã hội. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn 
tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính 
trị gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, 
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công 
chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh 
đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi 
với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của 
người đứng đầu. Hoàn thiện và thực hiện 
nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn 
ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ 
cương. Nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp 
nhất một số cơ quan đảng và nhà nước 
tương đồng về chức năng, nhiệm vụ. 
Trong bối cảnh đạt được nhiều thành tựu 
về phát triển kinh tế, Đảng ta chủ trương 
tiếp tục đổi mới chính trị, nhất là kiện toàn 
HTCT. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, 
Đảng ta khẳng định: Tiếp tục đổi mới, sắp xếp  ...  là trung tâm; xây dựng 
Đảng là then chốt; xây dựng văn hoá, con 
người làm nền tảng tinh thần; tăng cường 
quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường 
xuyên [9, tr.4]. Và “quan hệ giữa đổi mới 
kinh tế và đổi mới chính trị là một trong 
tám mối quan hệ lớn cần giải quyết trong 
giai đoạn hiện nay”. Đó là: quan hệ giữa đổi 
mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới 
kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo 
các quy luật thị trường và bảo đảm định 
hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực 
lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện 
từng bước quan hệ sản xuất; giữa nhà nước 
và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và 
phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và 
công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa 
xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; 
giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; 
giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, 
nhân dân làm chủ,... Tuy nhiên, Đảng cũng 
nhận định: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ 
với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả 
hoạt động của HTCT chưa ngang tầm 
nhiệm vụ” [9, tr.68]. 
Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, 
Đảng ta nêu rõ mục tiêu: tăng cường sự lãnh 
đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà 
nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ 
quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và 
quyền làm chủ của nhân dân; bám sát 
Cương lĩnh, Hiến pháp, Điều lệ và các văn 
Vũ Thị Thu Quyên 
 33
kiện của Đảng trong việc đổi mới, sắp xếp 
tổ chức bộ máy của HTCT; đặt trong tổng 
thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng; 
thực hiện đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp 
ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước 
pháp quyền XHCN, phát triển KTTT định 
hướng XHCN và hội nhập quốc tế [10]. 
Như vậy, đến những năm đầu thế kỷ 
XXI, khi đất nước ta đã đạt được những 
thành tựu to lớn, nền kinh tế phát triển 
mạnh mẽ, đời sống của các tầng lớp nhân 
dân được cải thiện và ngày càng nâng 
cao, ổn định chính trị được giữ vững, 
nghĩa là sức ép về phát triển kinh tế 
không còn gay gắt như trước, Đảng ta 
chủ trương đổi mới toàn diện, đồng bộ cả 
kinh tế, chính trị và văn hóa, bảo đảm sự 
phát triển hài hòa, bền vững. 
3. Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới 
kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam 
Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới, từ chủ 
trương ưu tiên phát triển kinh tế, lấy “phát 
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây 
dựng Đảng là then chốt”, đến đổi mới toàn 
diện, đồng bộ cả kinh tế và chính trị, Đảng 
ta đã lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội đất 
nước đạt nhiều thành tựu quan trọng, đưa 
đất nước thoát khỏi khủng hoảng, đẩy mạnh 
CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế sâu 
rộng, trở thành nước có mức thu nhập trung 
bình thấp trên thế giới. Từ năm 1986 đến 
nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam 
tăng bình quân gần 7%/năm, vào loại cao 
của khu vực và thế giới [14]. Kinh tế vĩ mô 
ổn định, lạm phát được kiểm soát, nợ công 
có xu hướng giảm dần, dự trữ ngoại tệ tăng. 
GDP/đầu người tăng từ gần 100 USD/người 
năm 1986 lên 471 USD/người/năm vào 
năm 2003, đến gần 2.500USD/người năm 
2018. Quy mô nền kinh tế đạt hơn 5.000 tỷ 
đồng, tương ứng hơn 220 tỷ USD [12]. Nền 
KTTT ngày càng phát triển, các nguồn lực 
được giải phóng, các thành phần kinh tế có 
điều kiện bung ra, đầu tư trực tiếp nước 
ngoài ngày càng tăng; nhu cầu tiêu thụ, trao 
đổi hàng hóa, dịch vụ trong nước và quốc tế 
được mở rộng, thúc đẩy xuất nhập khẩu 
hàng hóa. Nếu năm 1986 tổng kim ngạch 
xuất nhập khẩu chỉ đạt 2.944 triệu USD, thì 
năm 2017, tăng lên tới 425 tỷ USD (xuất 
siêu hơn 2,9 tỷ USD [12]; năm 2018 đạt 
480 tỷ USD, xuất siêu đạt 6,8 tỷ USD, cao 
hơn 3 lần so với mức xuất siêu năm 2017 
[16]. Các chương trình, dự án đầu tư nhằm 
xóa đói giảm nghèo đạt hiệu quả cao, tạo 
điều kiện cho các hộ nghèo, tham gia sản 
xuất kinh doanh vươn lên thoát nghèo và 
trở thành hộ khá giả, nên hộ nghèo cả nước 
đã giảm dần qua các giai đoạn phát triển, 
nếu năm 1993 tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước 
là 58%, thì đến năm 2017 chỉ còn 6,72%; 
năm 2018 là 5,35% [15]. 
Mặc dù đạt được những thành tựu to lớn, 
nhưng đổi mới chính trị chưa theo kịp đổi 
mới kinh tế, thậm chí có lúc cản trở kinh tế. 
Trong khi nền KTTT ngày càng hoàn thiện 
về thể chế, đa dạng hoá các loại hình sản 
xuất kinh doanh, các loại thị trường, thì thể 
chế chính trị vẫn chưa quyết liệt thay đổi, 
chưa tạo ra bước đột phá trong chỉ đạo và 
hành động cụ thể. Sau hơn 30 năm đổi mới, 
HTCT, nhất là bộ máy nhà nước vẫn cồng 
kềnh, chồng chéo, hoạt động kém hiệu quả; 
cải cách hành chính tiến hành từ lâu nhưng 
vẫn còn nhiều khâu cản trở doanh nghiệp, 
làm thui chột nhiệt huyết và động lực phát 
triển sản xuất, kinh doanh của các thành 
phần kinh tế. 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 - 2019 
 34
Vẫn còn nhiều khoảng trống pháp lý, 
thiếu nhiều cơ chế, chính sách, chưa đáp 
ứng kịp nhu cầu phát triển của nền kinh tế 
thị trường; hoặc nhiều chính sách hiện 
không còn phù hợp. Tốc độ tăng trưởng 
kinh tế cao nhưng chất lượng tăng trưởng 
thấp, chưa bền vững. Mặc dù công cuộc xóa 
đói giảm nghèo đạt thành tích cao, số hộ 
nghèo giảm, nhưng khoảng cách giàu - 
nghèo không giảm mà ngày càng tăng, gây 
bức xúc xã hội. 
Mặc dù Đảng và Nhà nước đã kịp thời 
nhận ra sự bất cập chưa đổi mới chính trị, 
đã đẩy mạnh đổi mới phương thức lãnh đạo 
và phương thức quản lý, nhưng trên thực tế 
thực hiện còn chậm, chưa nhất quán, chưa 
hiệu quả; chưa có bước đột phá. Yếu nhất 
vẫn là khâu thực hiện chính sách của các cơ 
quan nhà nước. Một bộ phận cán bộ đảng 
viên, công chức chưa gương mẫu, thoái hoá 
biến chất, hạch sách, nhũng nhiễu người 
dân và doanh nghiệp, gây nên những hậu 
quả xấu, làm mất niềm tin của nhân dân vào 
Đảng, Nhà nước; đồng thời dẫn đến tình 
trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu ngày 
càng nghiêm trọng. 
Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi 
mới kinh tế và đổi mới chính trị, Đảng ta đã 
xác định: đổi mới chính trị xuất phát từ đòi 
hỏi của đổi mới kinh tế. Trong thời kỳ mới, 
khi xu thế toàn cầu hóa, kinh tế tri thức, 
khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão, 
đòi hỏi chính trị phải đổi mới nhanh, đồng 
bộ, thúc đẩy kinh tế phát triển ổn định. Do 
đó, nhiệm vụ trọng tâm của cả HTCT nước 
ta là phải xây dựng được môi trường chính 
trị - pháp lý thuận lợi, tạo điều kiện cho nền 
KTTT phát triển ổn định, theo định hướng 
XHCN. Cụ thể: 
Thứ nhất, về đổi mới kinh tế. Tiếp tục 
phát triển nền KTTT định hướng XHCN. 
Hoàn thiện, phát triển các thể chế KTTT, từ 
thị trường lao động, thị trường chứng 
khoán, thị trường bất động sản, thị trường 
khoa học - công nghệ... Phải đổi mới tư duy 
kinh tế theo hướng xác định kinh tế nhà 
nước vẫn giữ vững vai trò chủ đạo trong 
nền kinh tế quốc dân, nhưng tính chủ đạo 
đó phải dựa trên cơ sở có đủ năng lực cạnh 
tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế 
khác, cạnh tranh một cách văn hóa, lành 
mạnh theo pháp luật. Tổ chức, sắp xếp lại 
thành phần kinh tế hợp tác, trọng tâm là ở 
khu vực nông thôn. Giải quyết vấn đề nông 
nghiệp, nông dân và nông thôn theo hướng 
kinh tế dịch vụ, hợp tác sản xuất lớn, hợp 
tác dựa trên quan hệ lợi ích, phương thức 
quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị 
trường. Tạo cơ chế thuận lợi phát triển các 
loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ 
chức sản xuất, kinh doanh với sở hữu hỗn 
hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần. Đổi 
mới tư duy về kinh tế tư nhân theo chủ 
trương của Đảng, tạo điều kiện về pháp lý, 
cơ chế cho người dân làm kinh tế, để kinh 
tế tư nhân phát triển đa dạng, phong phú. 
Đẩy mạnh liên kết kinh tế nhà nước với 
kinh tế tư nhân để tăng nguồn lực đầu tư tập 
trung trọng điểm, tổng hợp sức mạnh kinh 
tế để giải quyết các vấn đề của KTTT, và 
tạo động lực, niềm tin để thu hút các nhà 
đầu tư trong nước và nước ngoài. 
Tạo điều kiện tối đa cho các thành phần 
kinh tế đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất 
kinh doanh dựa vào tri thức, công nghệ cao, 
như công nghiệp chế tạo, công nghiệp vật 
liệu mới; đẩy mạnh hoạt động khởi nghiệp 
sáng tạo, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và 
nhỏ đầu tư đổi mới công nghệ, tạo ra động 
lực phát triển mới thúc đẩy tăng trưởng 
kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng sản 
phẩm, năng lực cạnh tranh trên thị trường 
Vũ Thị Thu Quyên 
 35
trong nước, khu vực và quốc tế. Đồng thời, 
nhanh chóng áp dụng thành tựu khoa học - 
công nghệ vào sản xuất nông nghiệp và chế 
biến nông lâm thủy sản. 
Thứ hai, đổi mới chính trị đồng bộ, phù 
hợp với đổi mới kinh tế. Tiếp tục nghiên 
cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để làm 
sáng tỏ vấn đề Đảng cầm quyền, Nhà nước 
pháp quyền định hướng XHCN. Đẩy mạnh 
xây dựng và hoàn thiện các yếu tố của Nhà 
nước pháp quyền và giữ vững định hướng 
XHCN. Đồng thời phải xây dựng đầy đủ, 
đồng bộ các cơ chế, chính sách để kiểm 
soát quyền lực, dựa vào dân và tạo điều 
kiện cho dân tích cực tham gia đời sống 
chính trị - xã hội, phát huy dân chủ một 
cách thực chất, tránh dân chủ hình thức. 
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng 
lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân 
làm chủ. 
Khắc phục những hạn chế của HTCT 
bằng cách tiếp tục đổi mới bộ máy chính trị 
theo hướng tinh gọn, thanh lọc, tinh giản 
biên chế, kiên quyết đấu tranh chống tham 
nhũng. Đảng phải tập trung vào giải quyết 
mối quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát 
triển, phải đổi mới và phát triển nhanh, đổi 
mới cơ bản, toàn diện, triệt để, chứ không 
chỉ là cải tiến, điều chỉnh một khâu nào đó; 
đồng thời đổi mới nhưng phải giữ được ổn 
định chính trị - xã hội. Có giữ được ổn định 
chính trị thì mới có điều kiện đổi mới kinh 
tế. Đổi mới phải tiến hành “từ trên xuống” 
và “từ dưới lên”, có những bước đi chủ 
động, vững chắc. Nhà nước phải thay đổi 
chức năng, đổi mới bộ máy và thể chế nhân 
sự. Trước đây Nhà nước nắm giữ thực tế 
toàn bộ tài sản quốc dân và quản lý mọi 
hoạt động kinh tế vĩ mô và vi mô, từ đó nảy 
sinh nhiều hạn chế như: bộ máy cồng kềnh, 
quan liêu, hiệu quả thấp. Trong thời kỳ đổi 
mới, thể chế KTTT khách quan đòi hỏi Nhà 
nước chuyển từ điều tiết trực tiếp mọi hoạt 
động kinh tế sang điều tiết gián tiếp đối với 
kinh tế vĩ mô, đồng thời phải sắp xếp lại bộ 
máy và nhân sự cho phù hợp. Xây dựng 
một chế độ chính trị dân chủ, Nhà nước 
pháp quyền XHCN, nâng cao quyền dân 
chủ của nhân dân. Giữ vững ổn định chính 
trị, hoà bình, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ 
và hợp tác ngày càng rộng rãi của thế giới 
Các cơ quan nhà nước, và chính quyền 
địa phương cần rà soát lại các thể chế, cơ 
chế, chính sách đã ban hành, mạnh dạn loại 
bỏ những cơ chế, văn bản không còn phù 
hợp; xây dựng các chính sách mới, tạo điều 
kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế phát 
triển, nhất là thành phần kinh tế tư nhân. 
4. Kết luận 
Kinh tế đổi mới mạnh mẽ đòi hỏi chính trị 
phải đổi mới cho tương thích. Nếu chỉ đổi 
mới kinh tế mà không đổi mới chính trị thì 
kinh tế sẽ bị cản trở, bị trói buộc trong thể 
chế cũ. Đổi mới kinh tế đòi hỏi phải mở 
rộng quyền lực của các tầng lớp nhân dân, 
của kinh tế tư nhân, phát huy tính tích cực 
của các doanh nghiệp. Nếu chính trị không 
đổi mới, bộ máy nhà nước sẽ nặng nề, 
chồng chéo, sinh ra nạn quan liêu, khiến các 
đơn vị cơ sở thụ động, các doanh nghiệp 
thui chột tính năng động, sáng tạo. Một bên 
nới rộng quyền lực kinh tế, một bên thâu 
tóm quyền lực chính trị đương nhiên sẽ cản 
đường phát triển kinh tế. 
Sự phát triển của KTTT đòi hỏi phải đẩy 
mạnh dân chủ hóa chính trị. Tiền đề cho sự 
phát triển của KTTT chính là dân chủ hóa 
kinh tế. Dân chủ hóa kinh tế, một mặt, đòi 
hỏi phải được bảo đảm bằng dân chủ hóa 
chính trị; mặt khác, nó tạo điều kiện cho 
dân chủ hóa chính trị. Khi người dân đã tiếp 
nhận tự do cạnh tranh, bình đẳng trong đời 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 - 2019 
 36
sống kinh tế thì họ sẽ được nâng cao năng 
lực hiểu biết về chính trị và thực hiện quyền 
dân chủ về chính trị. Đổi mới chính trị sẽ 
làm cho thượng tầng kiến trúc phù hợp với 
yêu cầu khách quan của cơ sở hạ tầng, thúc 
đẩy lực lượng sản xuất phát triển, phát huy 
tính ưu việt của chế độ XHCN. Chính trị là 
lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp, liên quan đến 
quyền lực và cầm quyền nên đổi mới chính 
trị khó khăn hơn rất nhiều so với đổi mới 
kinh tế, do đó việc xác định đúng đắn 
phương hướng, mục tiêu, nội dung và các 
bước đi của chính trị có ý nghĩa to lớn. 
Tiếp tục đổi mới chính trị trên cơ sở đổi 
mới kinh tế, phục vụ phát triển kinh tế. Khi 
đổi mới kinh tế được triển khai toàn diện và 
sâu sắc sẽ đặt ra yêu cầu bức thiết là phải 
đổi mới chính trị tương ứng để phục vụ trực 
tiếp cho đổi mới kinh tế. Thực tiễn cho 
thấy, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị 
phải cùng nhịp với nhau, dựa vào nhau, 
phối hợp với nhau, như “hai cánh của con 
chim”. Đây là sự lựa chọn tốt nhất để giải 
quyết đúng đắn quan hệ đổi mới giữa hai 
lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội này. 
Xây dựng nền dân chủ phải dưới tiền đề 
chính trị ổn định, không chạy theo dân chủ 
hình thức, không dập khuôn theo mô hình 
phương Tây. Không có môi trường chính 
trị - xã hội ổn định, mọi đổi mới sẽ thất bại, 
thành quả đã giành được cũng sẽ mất hết. 
Phải ngăn chặn các nhân tố có thể gây mất 
ổn định chính trị - xã hội, khủng hoảng kinh 
tế. Tiền đề là phải kiên trì thực hiện nguyên 
tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. 
Nhân tố quan trọng nhất vẫn là phát triển 
bền vững, tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời 
sống của nhân dân. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự 
thật, Hà Nội. 
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh 
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên 
CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2008) Nghị quyết 
số 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương 
(tại Hội nghị Trung ương 6 khóa X) về tiếp tục 
hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN. 
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự 
thật, Hà Nội. 
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2007) Văn kiện Đảng 
toàn tập, t.51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện 
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 
6, khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[11] Kinh tế 2017 - 2018 Việt Nam và Thế giới, 
Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. 
[12] Trần Thị Tuyết Lan (2019), “Thành tựu hơn 30 
năm đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về xây 
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội 
chủ nghĩa”, Tạp chí Công thương, số 1. 
[13] V.Lênin (1977) Toàn tập, t.42, Nxb Tiến bộ, 
Matxcơva. 
[14] https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid= 
382 &idmid=2&ItemID=19041 
[15] 
Thu-tuong/Thu-tuong-bao-cao-tinh-hinh-
KTXH-nam-2017-ke-hoach-phat-trien-KTXH-
2018/319930.vgp 
[16]  kim-ngach-xuat-
nhap-khau-cua-viet-nam-dat-480-ty-usd-nam-
2018-20190112110449228.htm. 
Vũ Thị Thu Quyên 
 37

File đính kèm:

  • pdfmoi_quan_he_giua_doi_moi_kinh_te_va_doi_moi_chinh_tri_o_viet.pdf