Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng

Vào những thập niên đầu của thế kỷ XX, riêng vùng châu thổ Bắc Bộ có tới

108 nghề. Nhiều làng còn gắn tên mình với tên nghề, hay gắn địa danh của một vùng với

nghề, những làng nghề này ít nhiều đó nổi danh từ lâu, có quá khứ từ trăm ngàn năm, tên

làng đó đi vào lịch sử, ca dao, tục ngữ. trở thành di sản văn hóa dân gian như các làng

nghề: làng chạm gỗ La Xuyên, làng sơn Hạ Thái, làng gốm Bát Tràng, làng mây tre đan Phú

Vinh, làng tranh Đồng Hồ, làng sơn quang Cát Đằng, làng lụa Hà Đông, làng thêu Quất

Động. Như vậy, làng chính là nơi bảo lưu giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và cơ sở

văn hóa của MTƯD chính là những nét văn hóa truyền thống đó. Có thể nói cơ sở văn hóa

của MTƯD là những nét văn hóa truyền thống của dân tộc, mà nơi bảo lưu, gìn giữ chúng là

những làng quê Việt Nam. Vì thế, lịch sử hình thành MTƯD ở nước ta không thể tách rời với

quá trình hình thành các làng nghề.

pdf 10 trang kimcuc 4760
Bạn đang xem tài liệu "Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng

Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng
15Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG - NỀN TẢNG ĐỂ 
XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN CÁC TÁC PHẨM MỸ THUẬT 
ỨNG DỤNG (MTƯD)
TRADITIONAL VILLAGE - FOUNDATION FOR BUILDING AND 
DEVELOPING APPLICABLE ART WORKS
Nguyễn Lan Hương*
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 310/2019
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 3/04/2020
Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/04/2020
Tóm tắt: Vào những thập niên đầu của thế kỷ XX, riêng vùng châu thổ Bắc Bộ có tới 
108 nghề. Nhiều làng còn gắn tên mình với tên nghề, hay gắn địa danh của một vùng với 
nghề, những làng nghề này ít nhiều đó nổi danh từ lâu, có quá khứ từ trăm ngàn năm, tên 
làng đó đi vào lịch sử, ca dao, tục ngữ... trở thành di sản văn hóa dân gian như các làng 
nghề: làng chạm gỗ La Xuyên, làng sơn Hạ Thái, làng gốm Bát Tràng, làng mây tre đan Phú 
Vinh, làng tranh Đồng Hồ, làng sơn quang Cát Đằng, làng lụa Hà Đông, làng thêu Quất 
Động... Như vậy, làng chính là nơi bảo lưu giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và cơ sở 
văn hóa của MTƯD chính là những nét văn hóa truyền thống đó. Có thể nói cơ sở văn hóa 
của MTƯD là những nét văn hóa truyền thống của dân tộc, mà nơi bảo lưu, gìn giữ chúng là 
những làng quê Việt Nam. Vì thế, lịch sử hình thành MTƯD ở nước ta không thể tách rời với 
quá trình hình thành các làng nghề.
Từ khóa: Làng nghề, truyền thống, nền tảng, mỹ thuật ứng dụng
Abstract: In the early decades of the twentieth century, the northern delta alone had 108 
jobs. Many villages also associate their names with the trade names, or place names of a region 
with jobs, these villages are more or less famous for a long time, with a history of hundreds 
of thousands of years, that village name goes down in history, folk songs, proverbs... become 
folklore heritage such as craft villages: La Xuyen wood carving village, Ha Thai painting village, 
Bat Trang pottery village, Phu Vinh rattan and bamboo village, Dong Ho painting village, Cat 
Dang optical painting village., Ha Dong silk village, Quat Dong embroidery village... Thus, 
the village is the place to preserve the traditional cultural values of the nation and the cultural 
foundations of applied art are those traditional cultural features. It can be said that the cultural 
foundations of applied art are traditional cultural traits of the nation, where the preserved and 
preserved places are Vietnamese villages. Therefore, the history of forming fi ne arts in our 
country cannot be separated from the process of forming craft villages.
Keywords: Craft villages, traditions, foundations, applied art
* Trường Đại học Mở Hà Nội
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 66 (4/2020) 115-24
16 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
1. Đặt vấn đề
Trong suốt chiều dài lịch sử phát 
triển của dân tộc, xã hội Việt Nam luôn 
gắn liền với đời sống nông thôn. Làng 
là một đơn vị cư trú và một hình thức tổ 
chức xã hội quan trọng của nông thôn Việt 
Nam cùng với hoạt động nông nghiệp và 
các nghề phụ. Làng là một hạt nhân của 
văn hoá, là nơi cụm cư những người ở khu 
vực nào đó di chuyển đến hoặc ở nhiều 
nơi cụm lại với nhau theo nghề nông, nghề 
thủ công. Qua quá trình ấy hình thành nếp 
sống, thói quen thành văn hoá Làng. 
Trong quá trình hàng ngàn năm lao 
động cần cù, bên cạnh nghề trồng lúa nước 
là cơ sở kinh tế chính, cha ông ta còn tạo 
ra nhiều nghề thủ công tinh xảo. Tên vùng 
châu thổ Bắc Bộ, bên cạnh số đông các 
làng thuần nông, còn có nhiều làng nghề 
thủ công, tại đó dân cư sống chủ yếu bằng 
một nghề hoặc nhiều nghề, có khi chỉ bằng 
một công đoạn của nghề và tạo ra nhưng 
sản phẩm độc đáo, mang tính đặc trưng 
của nghề, của làng nghề, của vùng nghề, 
trong đó có các làng thủ công mỹ nghệ.
2. Làng nghề truyền thống
2.1. Khái niệm làng nghề
Làng nghề Việt Nam, làng nghề thủ 
công, làng nghề truyền thống hoặc làng 
nghề cổ truyền thường được gọi ngắn gọn 
là làng nghề, là những làng mà tại đây hầu 
hết dân cư tập trung vào làm một nghề duy 
nhất nào đó, nghề của họ làm thường có 
tính chuyên sâu cao và mang lại nguồn thu 
nhập cho dân làng. 
Làng nghề truyền thống sản xuất 
ra những mặt hàng thủ công, những mặt 
hàng có tính mỹ nghệ, từ đó trở thành sản 
phẩm hàng hóa có quan hệ thông thương 
với thị trường trong nước và tiến tới mở 
rộng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. 
Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm 
chính thống về “làng nghề”. theo giáo sư 
Trần Quốc Vượng thì “Làng nghề là một 
làng tuy vẫn còn trồng trọt theo lối tiểu 
nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số 
nghề phụ khác như đan lát, gốm sứ, làm 
mây tre, làm sơn, làm tranh... Trong đó nổi 
trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một 
tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay 
bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ 
chức), có ông trùm, ông cả... cùng một số 
thợ và phú nhỏ, đã chuyên tâm, có quy 
trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử 
ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, 
sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản 
xuất ra những mặt hàng thủ công, những 
mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở 
thành sản phẩm hàng và có quan hệ tiếp 
thị với một thị trường là vùng rộng xung 
quanh và với thị trường đô thị, tiến tới mở 
rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra cả 
nước ngoài”.
2.2. Đặc điểm của làng nghề 
Đặc điểm nổi bật nhất của các làng 
nghề là tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ 
với nông nghiệp. Các làng nghề xuất hiện 
trong từng làng - xã ở nông thôn sau đó 
các ngành nghề thủ công nghiệp được tách 
dần nhưng không rời khỏi nông thôn, sản 
xuất nông nghiệp và sản xuất - kinh doanh 
thủ công nghiệp trong các làng nghề đan 
xen lẫn nhau. Người thợ thủ công trước 
hết và đồng thời là người nông dân.
Hai là, công nghệ kỹ thuật sản xuất 
sản phẩm trong các làng nghề, đặc biệt là 
các làng nghề truyền thống thường rất thô 
sơ, lạc hậu, sử dụng kỹ thuật thủ công là 
chủ yếu. Công cụ lao động trong các làng 
17Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
nghề đa số là công cụ thủ công, công nghệ 
sản xuất mang tính đơn chiếc. Nhiều loại 
sản phẩm có công nghệ - kỹ thuật hoàn 
toàn phải dựa vào đôi bàn tay khéo léo của 
người thợ mặc dù hiện nay đã có sự cơ khí 
hoá và điện khí hoá từng bước trong sản 
xuất, song cũng chỉ có một số không nhiều 
nghề có khả năng cơ giới hoá được một số 
công đoạn trong sản xuất sản phẩm. 
Ba là, đại bộ phận nguyên vật liệu 
của các làng nghề thường là tại chỗ. hầu 
hết các làng nghề truyền thống được hình 
thành xuất phát từ sự sẵn có của nguồn 
nguyên liệu sẵn có tại chỗ, trên địa bàn 
địa phương, cũng có thể có một số nguyên 
liệu phải nhập từ vùng khác hoặc từ nước 
ngoài như một số loại chỉ thêu, thuốc 
nhuộm... song không nhiều.
Bốn là, phần đông lao động trong 
các làng nghề là lao động thủ công, nhờ 
vào kỹ thuật khéo léo, tinh xảo của đôi bàn 
tay, vào đầu óc thẩm mỹ và sáng tạo của 
người thợ, của các nghệ nhân. Trước kia, 
do trình độ khoa học và công nghệ chưa 
phát triển thì hầu hết các công đoạn trong 
quy trình sản xuất đều là thủ công, giản 
đơn. Ngày nay, cùng với sự phát triển của 
khoa học - công nghệ, việc ứng dụng khoa 
học - công nghệ mới vào nhiều công đoạn 
trong sản xuất của làng nghề đã giảm bớt 
được lượng lao động thủ công, giản đơn. 
Tuy nhiên, một số loại sản phẩm còn có 
một số công đoạn trong quy trình sản xuất 
vẫn phải duy trì kỹ thuật lao động thủ công 
tinh xảo. Việc dạy nghề trước đây chủ yếu 
theo phương thức truyền nghề trong các 
gia đình từ đời này sang đời khác và chỉ 
khuôn lại trong từng làng. Sau hòa bình 
lập lại, nhiều cơ sở quốc doanh và hợp tác 
xã làm nghề thủ công truyền thống ra đời, 
làm cho phương thức truyền nghề và dậy 
nghề đã có nhiều thay đổi, mang tính đa 
dạng và phong phú hơn. 
Năm là, sản phẩm làng nghề, đặc 
biệt là làng nghề mang tính đơn chiếc, 
có tính mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc 
văn hoá dân tộc. Các sản phẩm làng nghề 
truyền thống vừa có giá trị sử dụng, vừa 
có giá trị thẩm mỹ cao, vì nhiều loại sản 
phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa 
là vật trang trí trong nhà, đền chùa, công 
sở nhà nước... Các sản phẩm đều là sự kết 
giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo 
với sự sáng tạo nghệ thuật. Cùng là đồ 
gốm sứ, nhưng người ta vẫn có thể phân 
biệt được đâu là gốm sứ Bát Tràng (Hà 
Nội), Thổ Hà (Bắc Ninh), Đông Triều 
(Quảng Ninh). Từ những con rồng chạm 
trổ ở các đình chùa, hoa văn trên các trống 
đồng và các họa tiết trên đồ gốm sứ đến 
những nét chấm phá trên các bức thêu... 
tất cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê 
hương, chứa đựng ảnh hưởng về văn hoá 
tinh thần, quan niệm về nhân văn và tín 
ngưỡng, tôn giáo của dân tộc.
Sáu là, thị trường tiêu thụ sản phẩm 
của các làng nghề hầu hết mang tính địa 
phương, tại chỗ và nhỏ hẹp. Bởi sự ra đời 
của các làng nghề, đặc biệt là các làng 
nghề truyền thống, là xuất phát từ việc 
đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng tại chỗ 
của các địa phương. Ở mỗi một làng nghề 
hoặc một cụm làng nghề đều có các chợ 
dùng làm nơi trao đổi, buôn bán, tiêu thụ 
sản phẩm của các làng nghề. Cho đến nay, 
thị trường làng nghề về cơ bản vẫn là các 
thị trường địa phương, là tỉnh hay liên tỉnh 
và một phần cho xuất khẩu. 
Bảy là, hình thức tổ chức sản xuất 
trong các làng nghề chủ yếu là ở quy mô 
hộ gia đình, một số đã có sự phát triển 
18 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp 
tư nhân.
2.3. Phân loại làng nghề 
Làng nghề là một trong những nét 
đặc sắc của quá trình phát triển tiền tư 
bản phương Đông ở Việt Nam, các nghề 
nổi tiếng và lâu đời nhất như nghề đúc 
đồng, dệt vải, làm giấy, làm gốm, chạm 
gỗ... đều xuất phát và tồn tại ở các làng. Ở 
Việt Nam, nghề và làng nghề thủ công đã 
trở thành một bộ phận không thể tách rời 
trong di sản văn hóa dân tộc.
Để duy trì các hoạt động nghề 
nghiệp, mỗi làng nghề do đặc trưng nghề 
nghiệp đều có cách thức tổ chức và phân 
công lao động khác nhau. Tri thức nghề 
không chỉ thể hiện trong khuôn khổ một 
nghề truyền thống mà còn thể hiện qua sự 
phối hợp đồng bộ và hài hòa giữa nhiều 
nghề khi cùng làm nên một sản phẩm là 
những công trình kiến trúc, như: cung 
điện, đình chùa, lăng tẩm... Có thể phân 
loại thành các nhóm ngành nghề chủ yếu: 
- Nghề chế tác kim loại (chạm bạc 
Đồng Xâm, chế tác kim hoàn Định Công, 
vàng bạc Châu Khê...)
- Nghề mộc, chạm khắc gỗ (Chàng 
Sơn, điêu khắc gỗ Dư Dụ, La Xuyên, chạm 
gỗ Phù Khê, chạm khắc gỗ Đông Giao...)
- Nghề khảm trai (Chuyên Mỹ, 
Chuôn Ngọ...)
- Nghề gốm (Phù Lãng, Thổ Hà, 
Cậy, Bát Tràng, Chăm Bầu Trúc...)
- Nghề Đúc Đồng (Phú Lộc, Đồng 
Qũy, Trà Đông, Đại Bái...)
- Nghề rèn sắt (Đức Thắng, Vân 
Chàng, Bảo Ngũ, Bản Phya Chang...)
- Nghề đan lát; nghề thêu, dệt; nghề 
làm giấy; đồ mã và nghề làm tranh dân gian...
Một số làng nghề và sản phẩm nghề truyền thống của Việt Nam
Hình 1. Sản phẩm chạm bạc, đồng thủ công của làng Đồng Xâm
Hình 2. Những sản phẩm bạc được làm tỷ mỷ làng đậu bạc Định Công
19Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Hình 3. Sản phẩm làng nghề truyền thống Chàng Sơn
3. Xây dựng phát triển các tác 
phẩm mỹ thuật ứng dụng 
3.1. Thực trạng đào tạo MTƯD 
hiện nay
Việt Nam đang trong quá trình hội 
nhập quốc tế toàn cầu, sự phát triển của 
cuộc cách mạng công nghệ thông tin cùng 
những phát minh khoa học trên thế giới đã 
tác động sâu rộng và làm thay đổi mạnh 
mẽ nhiều phương diện và mở ra hàng loạt 
vấn đề cần được giải quyết. Đó cũng là 
những cơ hội cho các ngành học nắm bắt 
thời cơ và bắt nhịp xu hướng phát triển 
trên thế giới và khu vực. Đào tạo Mỹ thuật 
nói chung và mỹ thuật ứng dụng nói riêng 
là yêu cầu đặt ra từ thực tiễn cũng như từ 
phương diện lý luận chuyên ngành mỹ 
thuật ứng dụng hiện nay.
“Mỹ thuật ứng dụng” hay “Mỹ 
thuật công nghiệp” bắt nguồn từ thuật ngữ 
“Design” được sử dụng ở Việt Nam từ 
những thập kỷ 70 của thế kỷ XX, khi mỹ 
thuật nước nhà tiếp cận với nền Design 
của Cộng hòa dân chủ Đức và Liên Xô 
cũ [6]. Mỹ thuật ứng dụng là một lĩnh vực 
thuộc phạm vi Nghệ thuật - Kinh tế - Kỹ 
thuật [6]. “Thiết kế Design không phải là 
thiết kế kỹ thuật đơn thuần, nhằm mục 
đích hoàn thiện hoặc vận hành thuần túy 
hệ thống kỹ thuật và cũng không phải là 
công tác thiết kế mỹ thuật biểu thị niềm 
hưng phấn của họa sĩ, nó là việc làm mà 
thông qua đó sản xuất được nối liền với 
thị trường” [6]. Hiện nay, theo nhu cầu 
của xã hội nhiều trường tập trung đào 
tạo các chuyên ngành thuộc lĩnh vực 
Mỹ thuật ứng dụng như Thiết kế Kiến 
trúc (architech design), Thiết kế Nội thất 
(interior design), Thiết kế Đồ họa (graphic 
design) thông tin truyền thông, Thiết kế 
Thời trang (fashion design) và Thiết kế 
tạo dáng sản phẩm (product design).
Trước những năm 1985, đào tạo 
Mỹ thuật ứng dụng chủ yếu là bản thiết 
kế vẽ tay các sản phẩm (mang tính chất 
thủ công) và gần như không quan tâm đến 
thị trường tiêu thụ, thị hiếu người dùng, 
địa chỉ nhận sản xuất... Sau năm 1986, 
khi Việt Nam chuyển đổi mô hình kinh tế 
đã tạo cơ hội cho Mỹ thuật ứng dụng có 
cơ hội phát triển. Nhưng phải từ thập kỷ 
90 trở đi, các cơ sở đào tạo Mỹ thuật ứng 
dụng bắt đầu bắt nhịp với cuộc cách mạng 
công nghiệp lần thứ 3 (3.0), sử dụng công 
nghệ thông tin, máy vi tính kết nối mạng 
internet. Hiện nay có gần 40 cơ sở đào tạo 
công lập và dân lập trong cả nước về Mỹ 
thuật ứng dụng [2].
20 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Phần lớn các cơ sở đào tạo Mỹ 
thuật ứng dụng đều có những điểm tương 
đồng trong việc thiết kế chương trình đào 
tạo đặc biệc về tin học gồm tin học cơ 
bản và tin học chuyên ngành (các phần 
mềm Photoshop, CorelPainter, Autocad, 
IIIustrator, 2D, 3Dmax) với thời lượng 
môn học từ 45 tiết đến 90 tiết cho chương 
trình đào tạo 5 năm “Cuộc cách mạng 
công nghiệp thứ tư (4.0) mở ra nhiều cơ 
hội nâng cao trình độ công nghệ, nâng 
cao năng lực sản xuất và cạnh tranh trong 
chuỗi sản phẩm; tạo ra sự thay đổi lớn 
về hình thái kinh doanh dịch vụ; tạo ra 
nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp khởi 
nghiệp sáng tạo... tạo cơ hội đầu tư hấp 
dẫn và đẩy tiềm năng trong lĩnh vực công 
nghệ số và Internet đồng thời cũng là cơ 
hội lớn cho sản xuất công nghiệp với trình 
độ khoa học và công nghệ tiên tiến” [8].
Trong khi đó, công nghệ thông tin 
thay đổi đã phát sinh nhu cầu về nguồn 
nhân lực mỹ thuật đa phương tiện để phục 
vụ cho các công ty quảng cáo, Đài phát 
thanh, truyền hình, các tòa soạn, nhà xuất 
bản, công ty sản xuất phim, video, trò 
chơi, phần mềm, website... Mỗi một cuộc 
cách mạng công nghệ đều đem đến thay 
đổi về kỹ thuật, sản phẩm công nghệ phục 
vụ thị trường khác nhau. Điều này đòi hỏi 
các nhà thiết kế phải hiểu và có khả năng 
ứng dụng trong việc thiết kế sản phẩm. 
Trên thực tế, nhiều họa sĩ sử dụng các 
phần mềm kỹ thuật số như là một công cụ 
cần thiết để làm việc, khi sản phẩm thiết 
kế trên thị trường thay đổi như thiết kế 
game, app - ứng dụng (trên máy tính và 
điện thoại), sản phẩm mỹ thuật 3D... đã 
có sự phân cấp năng lực và thị trường từ 
nhân lực thiết kế. Do vậy, việc tự nâng cao 
chuyên môn, cập nhật các sản phẩm công 
nghệ và kỹ thuật mới để có thể thực hiện 
được các hợp đồng thiết kế theo nhu cầu 
xã hội hay không còn phụ thuộc vào nhu 
cầu tự thân của các họa sĩ.
3.2. Xây dựng phát triển các tác 
phẩm MTƯD
MTƯD là một trong những ngành 
nghề quan trọng góp phần vào sự nghiệp 
phát triển của đất nước, góp phần trang bị 
một cách cơ bản, toàn diện một số kỹ năng 
cho con người. Vai trò MTƯD là: 
- Thiết kế kiểu dáng sản phẩm. 
- Thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế 
hàng hóa. 
- Tạo dựng nền văn hóa thẩm mỹ và 
nhận thức xã hội.
- Tạo dựng bản sắc thương hiệu 
dân tộc.
Từ 1985 về trước đào tạo MTƯD 
chủ yếu là sáng tác thiết kế vẽ tay, sáng tác 
ra các sản phẩm nhưng không quan tâm 
nhiều đến địa chỉ nhận sản xuất và ứng 
dụng. Sau năm 1986, nền kinh tế mở cửa, 
đây cũng là lúc chuyển đổi mô hình kinh 
tế, và tạo cơ hội cho MTƯD có cơ hội phát 
triển. Từ thập kỷ 90 trở đi, các cơ sở đào 
tạo MTƯD bắt đầu bắt nhịp với cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ 3 (3.0), sử dụng 
công nghệ thông tin, máy vi tính kết nối 
mạng internet. 
Bối cảnh đất nước đang đổi mới hội 
nhập quốc tế đòi hỏi chúng ta phải chứng 
tỏ tài năng, tâm huyết của người nghệ 
sỹ, nghệ nhân, của nhà khoa học - cả dân 
tộc đang đòi hỏi những sản phẩm thiết 
kế MTƯD thể hiện đầy đủ cả trình độ tư 
tưởng, ý thức thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật... 
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học 
kỹ thuật hiện đại cũng góp phần thúc đẩy 
tương hỗ cho sự sáng tạo MTƯD.
21Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Việc định hướng đào tạo nguồn 
nhân lực MTƯD phải xuất phát từ những 
phân tích khoa học về xu thế phát triển 
kinh tế - xã hội và khoa học - công nghệ 
nói chung cũng như về sự phát triển của 
MTƯD nói riêng.
Hoạt động của MTƯD nói chung là 
một quá trình thể hiện sự kết hợp thống nhất 
và hài hòa các kiến thức kinh tế - xã hội - 
khoa học - kỹ thuật - văn hóa - nghệ thuật và 
tổ chức - quản lý. Người làm MTƯD phải 
hình dung được những ảnh hưởng về kinh 
tế - chính trị - xã hội, văn hóa và công nghệ 
chi phối vào sản phẩm của mình. Ngoài các 
cộng tác viên quen thuộc như các kỹ sư, các 
chuyên gia công nghệ, các nhà kinh tế, quản 
lý, các nghệ sĩ tạo hình, ngày nay MTƯD 
còn có quan hệ chặt chẽ với các chuyên gia 
xã hội học, tâm lý xã hội, văn hóa, tin học, 
bảo vệ môi trường v.v.
Sản phẩm MTƯD được tạo nên và 
tồn tại trong thời gian dài. Thiết kế là yếu 
tố quyết định kiểu dáng của sản phẩm. 
Không những thế nó còn có tầm quan 
trọng trong chính sách thương mại, đóng 
vai trò quyết định sự lớn mạnh của công 
ty. Vì vậy sự khác biệt duy nhất của sản 
phẩm trong cạnh tranh được nhờ vào hoạt 
động của MTƯD. Người làm MTƯD phải 
biết phân tích, dự đoán xu thế phát triển để 
tổng hợp và đưa ra các giải pháp đáp ứng 
yêu cầu phát triển. Điều đó đòi hỏi trình 
độ kiến thức của những người làm MTƯD 
phải đi trước một bước, phải đón trước sự 
phát triển của xã hội một cách chủ động.
 Như vậy, mục tiêu đào tạo nguồn 
nhân lực MTƯD là đào tạo con người có 
kiến thức và kỹ năng cao, có đạo đức, có 
kỷ luật, có trách nhiệm, có tư duy năng 
động, khả năng làm việc độc lập, có tinh 
thần hợp tác và khả năng tổ chức lao động, 
có thói quen tự học, tự nâng cao trình độ 
để có thể đáp ứng yêu cầu luôn luôn mới 
và có khả năng vươn lên những trình độ 
học vấn cao hơn khi cần thiết.
Để đạt được mục tiêu trên, các cơ sở 
đào tạo MTƯD phải được tổ chức theo mô 
hình mới, đa dạng hóa các loại hình đào 
tạo và chương trình học tập, bảo đảm cơ 
hội học tập mở rộng cho mọi người, ở bất 
cứ đâu, bất cứ lúc nào và với bất cứ hình 
thức nào trên cơ sở sử dụng rộng rãi và có 
hiệu quả công nghệ thông tin. Làm được 
điều đó thì nhận thức và thị hiếu thẩm mỹ 
của người học được trang bị một cách cơ 
bản, và ngày càng hướng tới mục tiêu đào 
tạo toàn diện.
Khác với mô hình nhà trường truyền 
thống, ngày nay nhà trường phải là nơi 
học tập của nhiều lứa tuổi khác nhau với 
nhiều ngành nghề, trình độ và thời gian 
khác nhau. Khi công nghệ thông tin tạo 
điều kiện hình thành một cách rộng rãi các 
hệ thống cung cấp thông tin - tri thức thì 
tính độc quyền của nhà trường sẽ không 
còn và thay vào đó là một môi trường cạnh 
tranh lành mạnh giữa các cơ sở đào tạo, 
các hình thức đào tạo, các phương pháp 
đào tạo v.v. nhằm một mục đích chung cao 
cả là nâng cao tri thức chung và tri thức 
chuyên ngành cho người học.
Học tập đi đôi với thực hành là cách 
thực tế nhất từ trước đến nay nền giáo dục 
nước ta hướng đến. Trong đào tạo MTƯD, 
việc học và hành này càng trở nên quan 
trọng. Các cơ sở đào tạo luôn hướng đến 
việc mở các xưởng thực hành để sinh viên 
có thể thực tập ngay sau những giờ học lý 
thuyết. 
Trong quá trình tiếp thu lý thuyết 
tại xưởng, sinh viên có điều kiện để thấy 
người thầy thị phạm, thao tác trên máy 
móc, thiết bị. Đây là những bài học từ 
22 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
thực tế sinh động, giúp cho người học dễ 
nắm bắt kiến thức hơn là những bài giảng 
lý thuyết khô khan trên các giảng đường. 
Dạy và học hiện nay mang tính truyền bá 
kiến thức đại trà, do đó mô hình học tại 
xưởng hướng đến đào tạo từng con người 
về kỹ năng hành nghề. Trong quá trình 
học tại xưởng, các kỹ năng của sinh viên 
sẽ được bộc lộ và được tôi luyện. Được 
chứng kiến cách làm việc của các chuyên 
gia giúp cho sinh viên có những hứng thú 
trong công việc. Bởi lẽ, một hành vi sáng 
tạo nhiều khi gây nên niềm cảm hứng cho 
một hành vi sáng tạo khác.
Học tập gắn với thực tiễn, kết hợp 
tại các làng nghề truyền thống sản xuất 
sẽ mang lại lợi ích thiết thực. Những kiến 
thức mà sinh viên thu được xuất phát từ 
thực tế cuộc sống. Đó là những bài học 
sống động, bổ ích mà họ mang theo trong 
hành trang của mình sau khi tốt nghiệp.
3.3. Một số giải pháp phát triển 
MTƯD được xây dựng từ nền tảng làng 
nghề gốm, nghề mây tre đan
Có thể nói, hiện nay để sản phẩm 
các làng nghề truyền thống bắt kịp với xu 
thế phát triển của xã hội, thì MTƯD được 
nhận định là cứu cánh của các làng nghề 
trong cải tiến mẫu mã, chất lượng sản 
phẩm; tuy nhiên, việc đưa ưu điểm của mỹ 
thuật ứng dụng vào sản phẩm làng nghề 
rất gian nan [9].
Khu vực làng nghề hiện có rất nhiều 
sản phẩm độc đáo, cung cấp một lượng lớn 
hàng hóa cho xuất khẩu sản phẩm thủ công 
mỹ nghệ. Tuy vậy, sản phẩm của làng nghề 
hiện mới chỉ chiếm được thị trường giá rẻ, 
nên thu nhập của người dân làng nghề rất 
thấp. Bên cạnh đó, còn một số khó khăn cho 
phát triển nghề như không dự trữ nguyên 
liệu, phụ thuộc vào thương lái, chi phí đầu 
vào tăng cao. Công tác đào tạo cũng không 
thể thực hiện với quy mô lớn, bài bản; 
không có điều kiện mời các chuyên gia hay 
những người có thể hướng dẫn tổ chức sản 
xuất, kỹ năng làm thương mại. Cũng chính 
bởi thu nhập thấp, việc tìm kiếm thị trường 
của các làng nghề rất hạn chế.
Điều cần quan tâm nhất hiện nay vẫn 
là nâng giá trị của sản phẩm làng nghề. 
Muốn vậy, phải tập trung vào cải thiện 
thiết kế sản phẩm, trong đó yếu tố công 
nghệ và thẩm mỹ giữ vai trò chủ chốt. Về 
yếu tố thẩm mỹ, mỹ thuật ứng dụng sẽ tác 
động tới hình thức của sản phẩm khi giúp 
khai thác được vẻ đẹp nguyên liệu, thậm 
chí là tạo ra sự độc đáo từ nguyên liệu rất 
đơn giản và tính toán sao cho hình dáng 
sản phẩm đẹp, tiện dụng, kết cấu kỹ thuật 
cũng bền chắc hơn.
Đặc biệt, các họa sĩ MTƯD sẽ giúp 
sản phẩm làng nghề bắt kịp xu hướng màu 
sắc của thế giới theo từng năm, thậm chí 
từng mùa và có thể tạo ra những hoa văn 
mới để đưa vào sản phẩm, thể hiện rất rõ 
trong sản phẩm gốm, thêu...[9].
Có thể nói, mỹ thuật ứng dụng có khả 
năng tạo ra bước cải tiến lớn cho sản phẩm 
làng nghề. Tuy vậy, việc đưa mỹ thuật ứng 
dụng vào sản phẩm rất khó khăn. Khả năng 
thuê họa sỹ, nhà chuyên môn để đưa thẩm 
mỹ vào nghề thủ công không phải quá khó 
khăn, thiếu tài chính chỉ là một phần, chủ 
yếu do nhận thức. Rất nhiều chủ doanh 
nghiệp, nhất là doanh nghiệp thương mại 
hiện vẫn kinh doanh theo lối “dìm giá” để 
được hưởng lợi nhuận cao nhất có thể, như 
vậy sẽ không bao giờ có được sản phẩm 
đẹp. Tại các làng nghề hiện nay, rất hiếm 
doanh nghiệp táo bạo kinh doanh mặt hàng 
đặc biệt, độc đáo. Chính vì vậy, làng nghề 
không có cơ hội tạo ra những sản phẩm đẹp 
cho thị trường [9].
23Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Thông qua Triển lãm Mỹ thuật ứng 
dụng toàn quốc hay nhiều cuộc thi về 
thiết kế mẫu mã thủ công mỹ nghệ, có 
thể thấy khả năng của nghệ nhân ở làng 
nghề rất lớn. Mỗi năm, các nghệ nhân có 
thể tạo hàng nghìn mẫu mới, đẹp nhưng 
rất khó bán do không có khả năng tiếp 
cận những người có nhu cầu [9].
Sản phẩm MTƯD được xây dựng từ nền tảng làng nghề gốm, nghề mây tre đan
Hình 4. Sản phẩm MTƯD của tác giả bải viết 
được thực hiện tại làng gốm Phù Lãng 
Sản phẩm được trưng bày tại Triển lãm 
MTƯD toàn quốc năm 2019
Hình 5. Sản phẩm MTƯD của ThS Bùi Văn 
Long, Khoa Tạo dáng công nghiệp, được 
thực hiện tại làng gốm Phù Lãng năm 2019. 
Sản phẩm được trưng bày tại Triển lãm 
MTƯD toàn quốc năm 2019
Hình 6. Bài thiết kế MTƯD của sinh viên Khoa Tạo dáng công nghiệp, được thực hiện từ ý 
tưởng mây tre làng nghề Phú Vinh 
Sản phẩm được giải Khuyến khích giải thưởng SV nội thất năm 2019
Hình 7. Bộ sản phẩm MTƯD của sinh viên Khoa Tạo dáng công nghiệp, được thực hiện tại 
làng gốm Phù Lãng 
Sản phẩm được trưng bày tại Triển lãm Nghiêng 3, Khoa TDCN năm 2019.
24 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
4. Kết luận
Cùng với tiến bộ khoa học - công 
nghệ sản phẩm vật chất ngày càng nhiều, 
thì văn minh tinh thần, giá trị truyền thống, 
đạo đức có thể sẽ ngày càng giảm dần, 
điều này rất ảnh hưởng đến các nhà thiết 
kế trẻ khi chạy theo công nghệ phát triển ý 
tưởng sáng tạo nhanh nhưng sản phẩm của 
họ không còn đảm bảo được các yếu tố: 
hữu dụng, thẩm mỹ cao, tính dân tộc. Như 
vậy, những sản phẩm đó không thỏa mãn 
các điều kiện hữu dụng toàn diện về giá trị 
cao về mặt sử dụng, tính nghệ thuật hấp 
dẫn - đây là xu thế thời đại, vì chỉ những 
sản phẩm nào bộc lộ được rõ nét bản sắc 
dân tộc, ghi được dấu ấn tài năng và phong 
cách độc đáo của người thiết kế và có tính 
hội nhập cao mới được thị trường hiện đại 
toàn cầu chấp nhận. “Nếu không bắt kịp 
nhịp phát triển của thế giới và khu vực, 
Việt Nam sẽ phải đối mặt những thách 
thức như: tụt hậu về công nghệ, suy giảm 
sản xuất, kinh doanh; dư thừa lao động có 
kỹ năng và trình độ thấp, gây phá vỡ thị 
trường lao động truyền thống, ảnh hưởng 
tới kinh tế đất nước; mất an toàn, an ninh 
thông tin, xâm phạm bản quyền, thiếu hụt 
nguồn nhân lực trình độ cao. Đẩy công 
nghệ lạc hậu từ các nước phát triển sang 
các nước chậm phát triển” [8].
Những sản phẩm chất lượng cao, 
mang tính đặc trưng riêng, phục vụ hội họa 
cũng là một cách thức dù không hẳn giúp 
làng nghề phát triển đại trà trở lại. Ưu điểm 
của cách thức này là không cần phải phát 
triển ồ ạt, sản xuất ít, ít gây ô nhiễm môi 
trường nhưng mang lại giá trị kinh tế cao.
Tuy nhiên, dù phát triển theo kiểu 
đại trà hay theo hướng sản xuất ít mà hiệu 
quả kinh tế cao thì không thể phát triển tự 
phát, mà cần có sự kết hợp một cách lâu 
dài, bài bản hơn và có sự tham gia tích cực 
hơn của cơ quan quản lý nhà nước, đoàn 
hội để người làm nghề, dù đầu tư theo xu 
hướng nào cũng yên tâm hơn [10]./.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân 
tộc trong đào tạo văn hoá nghệ thuật (2002), 
Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
[2]. Hoàng Minh Phúc, Hợp tác đào tạo và sử 
dụng nhân lực giữa cơ sở giáo dục và doanh 
nghiệp trong lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng - 
Một nhu cầu tất yếu trong giai đoạn hiện nay, 
Hội thảo Khoa học, Bộ Văn hoá, Thể thao và 
Du lịch và Trường Cao đẳng Mỹ thuật trang 
trí Đồng Nai, 2017, tr.76-82
[3]. Lâm Tô Lộc (2001), Truyền thống nghệ 
thuật và sự phát triển của nó về văn hoá, Nxb 
Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
[4]. Lịch sử Việt Nam, tập I (1971), Nxb Khoa 
học xã hội, Hà Nội.
[5]. Nguyễn Lan Hương, Vai trò của Mỹ thuật 
ứng dụng trong đời sống và trong đào tạo, 
Tạp chí khoa học và Đào tạo ĐH Công nghệ 
Sài Gòn, Số 01, 2018, tr.25-29.
[6]. Nguyễn Ngọc Dũng (1984), “Ba mươi năm 
đào tạo họa sĩ Mỹ thuật Công nghiệp”, Tạp chí 
Mỹ thuật Công nghiệp, số 2/15, tr. 9-13.
[7]. Nguyễn Ngọc Dũng, Bàn về thuật ngữ 
Design, Tlđd, tr.12.
[8]. Từ Mạnh Lương, Tác động của cuộc cách 
mạng công nghiệp 4.0 đối với lĩnh vực Văn 
hóa Nghệ thuật, Hội thảo khoa học, Bộ Văn 
hóa, Thể thao và Du lịch, 2018.
[9]. Việt Nga (20190, “Mỹ thuật ứng dụng: 
Cải thiện mẫu mã sản phẩm làng nghề”, báo 
Công thương.
[10]. “Đánh thức” làng nghề truyền thống nhờ 
mỹ thuật (2019), báo Công an nhân dân, Hà Nội.
Địa chỉ tác giả: Khoa Tạo dáng công nghiệp, 
Trường Đại học Mở Hà Nội
Email: huongnguyentdcn@hou.edu.vn

File đính kèm:

  • pdflang_nghe_truyen_thong_nen_tang_de_xay_dung_phat_trien_cac_t.pdf