Kĩ năng tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề của sinh viên ngành giáo dục mầm non trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế

Kĩ năng tổ chức (KNTC) trò chơi đóng vai theo chủ đề (ĐVTCĐ) là một bộ phận cấu thành hệ thống kĩ năng sư phạm của sinh viên mầm non (SVMN). Tuy nhiên cho đến nay, vấn đề này chưa được nhiều tác giả thực sự quan tâm nghiên cứu. Trong bài báo này, chúng tôi giới thiệu kết quả nghiên cứu thực trạng KNTC trò chơi ĐVTCĐ của SV ngành GDMN-trường ĐHSP - ĐH Huế, trong đó, nhấn mạnh đến mức độ thuần thục các KN, các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển KN và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện KN này ở sinh viên.

pdf 10 trang thom 09/01/2024 1880
Bạn đang xem tài liệu "Kĩ năng tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề của sinh viên ngành giáo dục mầm non trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kĩ năng tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề của sinh viên ngành giáo dục mầm non trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế

Kĩ năng tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề của sinh viên ngành giáo dục mầm non trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế 
ISSN 1859-1612, Số 01(21)/2012: tr. 85-94 
KĨ NĂNG TỔ CHỨC TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ 
CỦA SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ 
PHẠM TIẾN SỸ 
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế 
PHÙNG ĐÌNH MẪN 
 Trung Tâm Đào tạo từ xa – Đại học Huế 
Tóm tắt: Kĩ năng tổ chức (KNTC) trò chơi đóng vai theo chủ đề (ĐVTCĐ) 
là một bộ phận cấu thành hệ thống kĩ năng sư phạm của sinh viên mầm non 
(SVMN). Tuy nhiên cho đến nay, vấn đề này chưa được nhiều tác giả thực 
sự quan tâm nghiên cứu. Trong bài báo này, chúng tôi giới thiệu kết quả 
nghiên cứu thực trạng KNTC trò chơi ĐVTCĐ của SV ngành GDMN-
trường ĐHSP - ĐH Huế, trong đó, nhấn mạnh đến mức độ thuần thục các 
KN, các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển KN và đề xuất một 
số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện KN này ở sinh viên. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tâm lý học Mác xít khẳng định: mỗi giai đoạn phát triển của con người đều gắn với một 
hoạt động chủ đạo [2, tr.63]. Trong đó, hoạt động chơi, mà trung tâm là trò chơi đóng 
vai theo chủ đề là hoạt động chủ đạo của trẻ em lứa tuổi mẫu giáo (3-6 tuổi). Trong hoạt 
động chơi, những phẩm chất tâm lý (tư duy, tưởng tưởng, tình cảm, ý chí...) của trẻ 
được phát triển mạnh mẽ [1, tr. 236-240], trẻ tiếp thu những kinh nghiệm văn hoá nhân 
loại, tiếp thu và dần làm quen với việc tuân thủ các quy tắc, các chuẩn mực xã hội. Đó 
là giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Do đó, 
vấn đề nghiên cứu thực trạng và tìm ra các biện pháp thích hợp để rèn luyện tốt kĩ năng 
tổ chức (KNTC) hoạt động chơi (trong đó có trò chơi ĐVTCĐ) cho trẻ của sinh viên sư 
phạm Mầm non mang ý nghĩa cấp thiết và là đòi hỏi của thực tiễn nhằm nâng cao chất 
lượng đào tạo giáo viên nuôi dạy trẻ. 
2. PHƯƠNG PHÁP VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 
Để nghiên cứu kĩ năng tổ chức trò chơi ĐVTCĐ của sinh viên ngành GDMN - Trường 
ĐHSP - ĐH Huế, chúng tôi đã sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây: 
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp phỏng vấn, phương pháp quan sát, 
phương pháp lấy ý kiến chuyên gia... Trong đó, điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp 
chủ yếu. Phiếu điều tra (chủ yếu dành cho sinh viên) bao gồm 11 câu hỏi được chia 
thành 4 phần: phần 1: Tìm hiểu nhận thức, thái độ của sinh viên về KNTC trò chơi 
ĐVTCĐ cho trẻ của sinh viên, phần 2: Tìm hiểu mức độ biểu hiện của KNTC trò chơi 
ĐVTCĐ cho trẻ của sinh viên Mầm non, phần 3: Một số sai sót sinh viên thường mắc 
phải trong quá trình tổ chức cho trẻ chơi, phần 4: Các yếu tố ảnh hưởng đến KNTC trò 
chơi ĐVTCĐ cho trẻ của sinh viên. Riêng biểu hiện từng KNTC trò chơi ĐVTCĐ của 
PHẠM TIẾN SỸ - PHÙNG ĐÌNH MẪN 
86 
sinh viên (phần 2) được đánh giá trên 3 mặt: mức độ nắm vững tri thức (chia thành 3 
mức độ: nắm chưa vững (M1), nắm chưa vững lắm (M2) và nắm vững (M3), tương ứng 
với hệ số điểm từ 1 đến 3); mức độ vận dụng tri thức vào thực tiễn (chia thành 3 mức 
độ: vận dụng chưa thuần thục (M1), vận dụng chưa thuần thục lắm (M2) và vận dụng 
thuần thục (M3) tương ứng với số điểm từ 1 đến 3); kết quả thu được (chia thành 3 mức 
độ: kết quả chưa cao (M1), kết quả chưa cao lắm (M2), kết quả cao (M3) tương ứng với 
số điểm từ 1 đến 3). Điểm đánh giá là trung bình cộng của điểm hệ số 3 mặt nêu trên. 
Dựa vào số điểm đạt được, mức độ thuần thục KN của sinh viên được phân chia thành 3 
mức như sau: Từ 1 đến 1,92 : Mức chưa có KN hoặc có KN nhưng chưa thuần thục, từ 
1,93 đến 2,5: Mức KN chưa thuần thục lắm; từ 2,53 đến 3: Mức KN tương đối thuần 
thục và thuần thục. Những kết quả thu được từ phiếu điều tra được kiểm chứng dựa trên 
kết quả giải các bài tập tình huống, soạn giáo án, quan sát các tiết hoạt động góc do sinh 
viên tổ chức trong các đợt thực tập... 
Nghiên cứu này được tiến hành trên 180 SV thuộc khối năm 2, năm 3 và năm 4 ngành 
GDMN - Trường ĐHSP - ĐH Huế. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Nhận thức của SV về vai trò của giáo viên trong việc tổ chức trò chơi ĐVTCĐ 
Để hình thành kĩ năng tổ chức trò chơi ĐVTCĐ, sinh viên phải xác định chỗ đứng của 
mình trong trò chơi của trẻ. Hay nói khác đi, sinh viên phải hiểu được trong khi tổ chức 
cho trẻ chơi, giáo viên có vai trò như thế nào. Kết quả nghiên cứu vấn đề này cho thấy, 
phần lớn sinh viên đã nhận thức được đúng đắn vai trò là người định hướng, tổ chức, 
hướng dẫn hoạt động chơi cho trẻ (81,7% ý kiến). Bên cạnh đó, một bộ phận nhỏ còn 
nhận thức chưa thực sự đúng đắn về vai trò, vị trí của giáo viên trong khi tổ chức trò 
chơi cho trẻ. Theo những sinh viên này, giáo viên phải tham gia chơi cùng trẻ (12,2% ý 
kiến) hoặc để trẻ chơi, giáo viên chỉ quan sát (2,8%ý kiến), thậm chí một số còn cho 
rằng giáo viên hoàn toàn có thể áp đặt để trẻ chơi theo ý mình (3,3% ý kiến). 
3.2. Mức độ biểu hiện kĩ năng tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề của SV 
3.2.1. Nhóm kĩ năng nhận thức (KNNT) 
Nhóm kĩ năng này bao gồm các hành động lĩnh hội tri thức về hoạt động chơi của trẻ, 
về khả năng chơi của trẻ trong lớp mà giáo viên phụ trách, những tri thức về tổ chức trò 
chơi trẻ em Những tri thức này được lĩnh hội từ các nguồn tài liệu (bài giảng, sách 
giáo khoa, giáo trình, sách báo, tạp chí, báo cáo khoa học) và từ việc nghiên cứu trực 
tiếp trẻ trong lớp. Nghiên cứu nhóm kĩ năng này của sinh viên cho kết quả như sau: 
Bảng 1. Kết quả nghiên cứu nhóm KNNT của SV 
KN 
Nắm vững lý thuyết Vận dụng vào thực tiễn Kết quả nhận thức Chung
X 
Mức độ (%) 
X Std 
Mức độ (%) 
X Std 
Mức độ (%) 
X Std M1 M2 M3 M1 M2 M3 M1 M2 M3 
KN1 5,6 56,1 38,3 2,33 0,58 10 67,2 22,8 2,13 0,56 12,8 71,1 16,1 2,03 0,54 2,16 
KN2 5,6 43,3 51,1 2,46 0,60 10 62,8 27,2 2,17 0,59 11,7 69,4 18,9 2,07 0,55 2,23 
KN3 6,1 48,9 45,0 2,39 0,60 7,8 66,6 25,6 2,18 0,55 12,8 72,2 15,0 2,02 0,53 2,20 
KN4 4,4 48,3 47,3 2,43 0,58 9,4 52,8 37,8 2,28 0,63 11,7 71,1 17,2 2,06 0,54 2,26 
Chung 2,40 0,39 2,19 0,40 2,05 0,36 2,21 
KỸ NĂNG TỔ CHỨC TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ... 
87 
Chú thích: 
Std: Độ lệch chuẩn X : Điểm trung bình 
KN1: Kĩ năng lựa chọn tài liệu KN3: Kĩ năng chuẩn bị các điều kiện để quan sát trẻ chơi 
KN2: Kĩ năng đọc và hiểu được về tài liệu KN4: Kĩ năng tìm hiểu nhu cầu chơi của trẻ 
Kết quả điều tra phản ánh ở bảng 1 cho thấy, KNNT của sinh viên ở mức độ chưa cao 
( X = 2,14 điểm). Trong nhóm kĩ năng này, có 33 sinh viên (chiếm 18,3%) đạt mức độ 
chưa có kĩ năng hoặc kĩ năng chưa thuần thục, 121 sinh viên (chiếm 67,2%) chưa thuần 
thục lắm và chỉ có 26 sinh viên (chiếm 14,4%) có kĩ năng tương đối thuần thục. 
Theo ý kiến của sinh viên, mặc dù đã có những hiểu biết tương đối đầy đủ về việc lựa 
chọn và đọc tài liệu, về quan sát và tìm hiểu nhu cầu chơi của trẻ nhưng do điều kiện 
vận dụng chưa nhiều nên các bạn thường lúng túng mỗi khi tiến hành hoạt động thực tế, 
kết quả công việc cũng vì vậy mà không được như ý muốn. 
Kết quả kiểm định phương sai một yếu tố bằng phần mềm SPSS 16.0 cho thấy sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê về KNNT của sinh viên theo năm học. Theo đó, sinh viên năm 
thứ 4 vượt trội hơn hẳn sinh viên năm thứ 2 và thứ 3 ở cả 3 mặt: mức độ nắm vững tri 
thức (F(2,177)=23,71, p<0,001), sự thuần thục trong thực hành (F(2,177)=7,68, p<0,01) và 
kết quả thu được (F(2,177)=11,62, p<0,001). Điều này cho thấy quá trình học tập và rèn 
luyện ở Bộ môn Giáo dục Mầm non có thể đã làm tăng KNNT của sinh viên. Theo kết 
quả tìm hiểu thời khóa biểu, bảng điểm của sinh viên, ngoài các học phần Tâm lý học 
trẻ em, Giáo dục học trẻ em thì đến năm thứ 3, thứ 4, sinh viên được học thêm các học 
phần: Phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục, Phương pháp tổ chức trò chơi,... Những 
môn học này kết hợp với những chuyến đi thực tế, kiến tập, thực tập sư phạm giúp sinh 
viên mở rộng tri thức, hoàn thiện kĩ năng tìm kiếm, đọc hiểu tài liệu, kĩ năng quan sát, 
tìm hiểu nhu cầu chơi của trẻ... Đây là nét tích cực, cho thấy sự nỗ lực của sinh viên 
cũng như hiệu quả đào tạo của trường ĐHSP – ĐH Huế. 
3.2.2. Nhóm kĩ năng thiết kế (KNTK) 
Nhóm kĩ năng này bao gồm các hành động lập kế hoạch quá trình thực hiện nhiệm vụ tổ 
chức cho trẻ chơi, tính toán các phương án hành động, dự kiến các tình huống và cách 
giải quyết. Nghiên cứu biểu hiện các kĩ năng trong nhóm kĩ năng này ở sinh viên cho 
kết quả như sau: 
Bảng 2. Kết quả nghiên cứu nhóm KNTK 
KN 
Nắm vững lý thuyết Thực hành thiết kế Kết quả thiết kế Chung 
X 
Mức độ (%) X
Std 
Mức độ (%) 
X Std 
Mức độ (%) 
X Std M1 M2 M3 M1 M2 M3 M1 M2 M3 
KN5 3,3 46,7 50 2,47 0,56 8,3 68,4 23,3 2,15 0,54 11,7 69,4 18,9 2,07 0,55 2,23 
KN6 3,9 35,6 60,5 2,57 0,57 6,1 58,3 35,6 2,29 0,58 7,2 62,2 30,6 2,23 0,57 2,36 
KN7 5,6 43,9 50,6 2,45 0,60 8,9 68,3 22,8 2,14 0,55 14,4 68,9 16,7 2,02 0,56 2,20 
KN8 4,4 36,7 58,9 2,54 0,58 5,6 67,8 26,7 2,21 0,53 13,3 63,4 23,3 2,10 0,60 2,28 
KN9 5,0 32,2 62,8 2,58 0,59 5,0 65,6 29,4 2,24 0,54 7,8 70,6 21,6 2,14 0,53 2,32 
KN10 4,4 40,6 55,0 2,51 0,58 5,6 55,0 39,4 2,34 0,58 7,8 61,7 30,6 2,23 0,58 2,36 
Chung 2,52 0,36 2,23 0,33 2,13 0,34 2,29 
Chú thích: 
KN5: KN xác định mục đích phát triển hoạt động chơi cho trẻ 
PHẠM TIẾN SỸ - PHÙNG ĐÌNH MẪN 
88 
KN6: KN chuẩn bị môi trường, điều kiện chơi cho trẻ 
KN7: KN khắc sâu biểu, gây ấn tượng cho trẻ về 
KN8: KN xác định yêu cầu cần đạt của buổi chơi 
KN9: KN xác định nội dung, nắm vững phương pháp tổ chức buổi chơi 
KN10: KN soạn giáo án 
Kết quả điều tra phản ánh trong bảng 2 cho thấy kĩ năng thiết kế của sinh viên vẫn chưa 
thực sự thuần thục. Cũng như các kĩ năng trong nhóm KNNT, sinh viên tỏ ra tự tin hơn 
với mức độ nắm vững tri thức nhưng lại đánh giá thấp khả năng thực hành và kết quả 
đạt được của bản thân. Có 71,7% sinh viên có kĩ năng chưa thuần thục lắm, 17,8% sinh 
viên có kĩ năng tương đối thuần thục và 10,6% sinh viên chưa có kĩ năng hoặc kĩ năng 
chưa thuần thục. 
Kết quả tìm hiểu một số giáo án của sinh viên đã chứng minh cho kết quả trên. Các giáo 
án này đều chưa đưa ra được mục đích rõ ràng, cụ thể; chưa xây dựng được kế hoạch 
khắc sâu biểu tượng, gây ấn tượng cho trẻ về cuộc sống xung quanh, phương pháp tổ 
chức và tác động vào trò chơi của trẻ còn thiếu sáng tạo, kế hoạch thỏa thuận chơi quá 
cồng kềnh trong khi thời gian tổ chức chơi không nhiều; chưa dự kiến được một số tình 
huống nảy sinh trong khi tổ chức cho trẻ chơi... Một số giáo án được soạn rất sơ sài. 
Trong số các kĩ năng thành phần thuộc nhóm KNTK, kĩ năng khắc sâu biểu tượng, gây 
ấn tượng cho trẻ về cuộc sống xung quanh có điểm trung bình thấp nhất (2,20 điểm); có 
16,6% sinh viên chưa có kĩ năng hoặc kĩ năng chưa thuần thục, 61,6% sinh viên chưa 
thuần thục lắm và chỉ có 22,8% sinh viên đạt mức độ tương đối thuần thục. Từ kết quả 
quan sát và phỏng vấn, có thể phán đoán nguyên nhân chính của thực trạng này là do 
sinh viên chưa hiểu sâu sắc bản chất của trò chơi ĐVTCĐ (trò chơi này chỉ xuất hiện ở 
trẻ khi chúng có kinh nghiệm về mảng hiện thực được phản ánh trong trò chơi), từ đó 
các em chưa quan tâm lắm đến việc lập kế hoạch khắc sâu biểu tượng, gây ấn tượng cho 
trẻ. Những gì trẻ phản ánh trong trò chơi do sinh viên tổ chức đều là những kinh nghiệm 
do trẻ tích lũy được trong những hoàn cảnh khác nhau của đời sống. Nhiệm vụ của giáo 
viên là khơi gợi, làm khắc sâu biểu tượng về cuộc sống cho trẻ dựa trên những kinh 
nghiệm trẻ đã có, cao hơn nữa là phải hình thành trong đầu trẻ những biểu tượng về 
cuộc sống xung quanh có liên quan đến các loại trò chơi ĐVTCĐ. Tuy nhiên, trong thực 
tế tổ chức, trẻ phải tự khơi gợi những kinh nghiệm đó và tái hiện trong trò chơi của 
mình. Điều này làm cho trò chơi của trẻ thiếu tính sáng tạo, tính thực tế và tính giáo dục, 
mâu thuẫn giữa các trẻ trong nhóm chơi cũng dễ nảy sinh do giáo viên chưa giúp trẻ 
nhận thức được nhiệm vụ và những hành động tương ứng với vai chơi. 
Xét theo năm học, kết quả kiểm định phương sai một yếu tố cho thấy sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê giữa các năm học về mức độ thuần thục các kĩ năng trong nhóm KNTK. 
Sinh viên năm thứ 4 tỏ ra thuần thục hơn so với năm thứ 2 và năm thứ 3 (F(2,177)=24.2, 
p<0,001). Kết quả không cho thấy sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa sinh viên năm 
thứ 2 và năm thứ 3 ở cả 3 phương diện. Sở dĩ có sự khác biệt trên phần lớn là do sinh 
viên năm thứ 4 có thời gian học lý thuyết và thâm nhập thực tế nhiều hơn. Các em đã 
hoàn thành các học phần Tâm lý học, Giáo dục học Mầm non, 5 học phần về rèn luyện 
nghiệp vụ sư phạm thường xuyên (hầu hết các học phần này sinh viên đều phải soạn 
KỸ NĂNG TỔ CHỨC TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ... 
89 
giáo án, xây dựng kế hoạch tuần, kế hoạch tháng...). Hơn nữa, sinh viên năm thứ 4 vẫn 
nằm trong thời gian trường tổ chức đào tạo theo niên chế, họ được tạo điều kiện đi thực 
tế, kiến tập và thực tập ở các trường mầm non trên địa bàn thành phố từ khi còn học 
năm thứ 2 thứ 3. Trái lại, sinh viên năm thứ 2, 3 hiện tại được đào tạo theo học chế tín 
chỉ, học phần kiến tập sư phạm dành cho sinh viên năm thứ 3 được gộp cùng với thực 
tập sư phạm vào học kì 2 năm thứ 4. Chính vì vậy, đến thời điểm này sinh viên vẫn 
chưa có nhiều dịp tiếp cận với thực tiễn tổ chức trò chơi ĐVTCĐ ở trường Mầm non. 
Điều này càng cho thấy rõ hơn ý nghĩa của quá trình trải nghiệm thực tế đối với việc 
hình thành kĩ năng chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và KNTC trò chơi ĐVTCĐ nói 
riêng cho sinh viên mầm non, từ đó có thêm cơ sở trong việc xây dựng chương trình đào 
tạo những cô giáo nuôi dạy trẻ trong tương lai. 
3.2.3. Nhóm kĩ năng giao tiếp (KNGT) 
Giao tiếp là phương tiện để giáo viên tiến hành công tác giáo dục học sinh. Giao tiếp 
với trẻ mầm non không chỉ giúp cô giáo hiểu để nuôi dạy trẻ tốt hơn mà còn giúp trẻ 
nhận thức thế giới, kích thích sự sáng tạo và hứng thú tham gia hoạt động học và chơi 
của trẻ. Do vậy, KNGT đóng một vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống KNTC trò 
chơi ĐVTCĐ. Khảo sát mức độ kĩ năng này ở sinh viên, chúng tôi thu được kết quả như 
sau: 
Bảng 3. Kết quả nghiên cứu nhóm KNGT 
Kĩ 
năng 
Nắm vững lí thuyết Thực hành giao tiếp Hiệu quả giao tiếp (%) Chung 
X 
Mức độ (%) X
Std Mức độ (%) X
Std Mức độ (%) X
Std 
M1 M2 M3 M1 M2 M3 M1 M2 M3 
KN11 3,3 51,7 45,0 2,42 0,56 7,8 58,9 33,3 2,26 0,59 8,9 66,7 24,4 2,16 0,56 2,28 
KN 12 7,2 55,0 37,8 2,31 0,59 11,7 61,1 27,2 2,16 0,61 15,0 66,1 18,9 2,04 0,58 2,17 
KN 13 3,3 37,8 58,9 2,56 0,56 4,4 57,8 37,8 2,33 0,56 8,3 62,8 28,9 2,21 0,58 2,37 
KN 14 3,9 33,9 62,2 2,58 0,57 5,0 55,0 40,0 2,35 0,57 6,1 60,6 33,3 2,27 0,57 2,40 
KN 15 3,3 33,9 62,8 2,59 0,56 6,7 53,3 40,0 2,33 0,60 10,6 57,2 32,2 2,22 0,62 2,38 
KN 16 3,3 34,5 62,2 2,59 0,56 3,9 42,8 53,3 2,49 0,57 7,8 56,1 36,1 2,28 0,60 2,45 
KN 17 6,1 41,7 52,2 2,46 0,61 6,7 60,6 32,8 2,26 0,57 10,0 59,4 30,6 2,21 0,60 2,31 
KN 18 3,3 35,0 61,7 2,58 0,56 3,3 54,4 42,3 2,39 0,55 3,9 57,2 38,9 2,35 0,55 2,44 
Chung 2,51 0,35 2,32 0,33 2,22 0,31 2,35 
Chú thích: 
KN11: KN phân tích hành vi,cử chỉ, nét mặt của trẻ 
KN12: KN phán đoán ý định, nhu cầu giao tiếp của trẻ 
KN13: KN xác định vị trí của bản thân khi giao tiếp trong quá trình tổ chức cho trẻ chơi 
KN14: KN lựa chọn không gian, thời gian giao tiếp với trẻ 
KN15: KN làm chủ cảm xúc khi giao tiếp với trẻ 
KN16: KN lắng nghe trẻ 
KN17: KN sử dụng các loại phương tiện giao tiếp 
KN18: KN hòa nhập vào nhóm chơi của trẻ 
Quan sát bảng 3 cho thấy rằng KNGT có điểm trung bình chung cao hơn so với nhóm 
KNNT và KNTK ( X GT= 2,35 so với X NT = 2,21 và X TK= 2,29 điểm). Đây có lẽ cũng 
là điều dễ hiểu bởi KNGT với trẻ là kĩ năng chung trong năng lực sư phạm của sinh 
viên mầm non. Do đó, nó được rèn luyện thường xuyên trong quá trình học tập cũng 
PHẠM TIẾN SỸ - PHÙNG ĐÌNH MẪN 
90 
như trong giao tiếp xã hội của họ. Tuy vậy, trong nhóm này cũng có tới 9,4% sinh viên 
ở mức độ chưa thuần thục, 69,5% sinh viên ở mức độ chưa thuần thục lắm và chỉ có 
21,1% sinh viên đạt mức độ tương đối thuần thục. 
Tuy nhiên, bảng 3 cho thấy điểm của các kĩ năng thành phần trong nhóm KNGT có sự 
khác biệt khá lớn. Trong đó, kĩ năng có điểm trung bình thấp nhất là kĩ năng phán đoán 
ý định, nhu cầu giao tiếp của trẻ và cao nhất là kĩ năng lắng nghe trẻ. Sự khác biệt này 
một mặt là do độ khó của các kĩ năng, mặt khác là do mức độ thực hành các kĩ năng của 
sinh viên trong học tập và đời sống. 
Kết quả kiểm định phương sai một yếu tố cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
giữa sinh viên các năm học về mức độ thuần thục các kĩ năng trong nhóm KNGT 
(F(2,177)=19,15, p<0,001). Sinh viên năm thứ 4 tỏ ra thuần thục hơn so với sinh viên năm 
thứ 2, thứ 3. Kết quả kiểm định không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 
sinh viên năm thứ 2 và sinh viên năm thứ 3. 
3.2.4. Nhóm kĩ năng tổ chức thực hiện (KNTCTH) 
Nhóm kĩ năng này bao gồm các hành động trực tiếp tiến hành thực hiện việc tổ chức 
cho trẻ chơi. Kết quả nghiên cứu nhóm kĩ năng này thể hiện ở bảng sau: 
Bảng 4. Kết quả nghiên cứu nhóm KNTCTH 
Kĩ 
năng 
Nắm vững lí thuyết Thực hành giao tiếp Hiệu quả giao tiếp (%) Chung 
X 
Mức độ (%) X
Std Mức độ (%) X
Std Mức độ (%) X Std M1 M2 M3 M1 M2 M3 M1 M2 M3 
KN19 1,1 39,4 59,4 2,58 0,52 5,6 70,0 24,4 2,19 0,52 9,4 72,3 18,3 2,09 0,52 2,29 
KN20 3,3 40,6 56,1 2,53 0,56 6,1 65,0 28,9 2,23 0,55 7,8 68,3 23,9 2,16 0,54 2,31 
KN21 5,6 43,9 50,6 2,45 0,60 8,9 68,3 22,8 2,14 0,55 14,4 68,9 16,7 2,02 0,56 2,20 
KN22 7,2 52,8 40,0 2,33 0,62 8,9 72,2 18,9 2,10 0,52 16,7 68,9 14,4 1,98 0,56 2,14 
KN23 5,6 50,6 43,9 2,38 0,59 6,7 79,4 13,9 2,07 0,45 16,1 72,8 11,1 1,95 0,52 2,13 
Chung 2.45 0.41 2.15 0.33 2.04 0.34 2.21 
Chú thích: 
KN19: KN chuẩn bị nội dung, xác định và sử dụng phương pháp tổ chức buổi chơi 
KN20: KN chuẩn bị môi trường chơi cho trẻ 
KN21: KN điều khiển trẻ thỏa thuận chơi 
KN22: KN bao quát trẻ chơi 
KN23: KN điều khiển trẻ chơi trò chơi mới hoặc trò chơi trẻ chơi chưa tốt 
Quan sát bảng 4 cho thấy nhóm KNTCTH của sinh viên ở mức chưa cao ( X Chung = 
2,22). Kết quả nghiên cứu cho thấy có 12,8% sinh viên chỉ ở mức chưa có kĩ năng hoặc 
kĩ năng chưa thuần thục; 76,7% sinh viên đã hình thành kĩ năng nhưng chưa thuần thục 
lắm, 10,6% còn lại là những sinh viên tương đối thuần thục các kĩ năng trong nhóm 
KNTCTH. Quan sát quá trình tổ chức của sinh viên, chúng tôi nhận thấy một số hạn chế 
của các em trong quá trình tổ chức cho trẻ chơi như: chưa biết cách thỏa thuận chơi, 
chưa biết cách hướng dẫn trẻ phân vai chơi một cách hợp lý; khả năng bao quát trẻ còn 
hạn chế, chủ yếu để trẻ tự phân vai chơi, chưa có sự hoán đổi vai chơi, chưa tạo được sự 
tương tác giữa các nhóm chơi, phương pháp tác động vào trò chơi của trẻ chưa phong 
phú, chủ yếu vẫn sử dụng câu hỏi, nhiều câu hỏi thừa, không giúp trẻ mở rộng nội dung 
KỸ NĂNG TỔ CHỨC TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ... 
91 
chơi cũng như tạo cho trẻ ý tưởng sáng tạo. Câu hỏi được sử dụng phổ biến là những 
câu chung chung như: “Các con có biết hôm nay lớp chúng ta có bao nhiêu góc chơi?” 
“Đó là những góc nào?”; áp đặt, không thông báo thời gian trẻ được chơi; trẻ chủ yếu 
vẫn chơi theo thói quen, sự can thiệp của sinh viên ít tác dụng... 
KNTCTH xét theo năm học, kiểm định phương sai một yếu tố cho thấy sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê giữa các năm, đặc biệt là giữa năm thứ 2 và năm thứ 4 (F(2,177)=23,6, 
p<0,001). Xét ở cả 3 mặt, dường như năm thứ 3 và thứ 4 đều có kết quả tốt hơn năm thứ 
2. Kết quả cũng cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa sinh viên năm thứ 3 và 
năm thứ 4 về khả năng thực hành (F(2,177)=19,2, p<0,001). Nguyên nhân chính ở đây có 
lẽ là do sinh viên năm thứ 4 có nhiều điều kiện để thực hành những kĩ năng này hơn 
sinh viên năm thứ 3 và thứ 2 nhờ các đợt kiến tập và thực tập sư phạm. Điều này một 
mặt cho thấy sự tiến bộ rõ rệt của sinh viên qua các năm, mặt khác, nó cũng cho thấy 
vai trò đặc biệt quan trọng của việc thực hành thường xuyên đối với quá trình hình 
thành và phát triển KNTC trò chơi ĐVTCĐ cho trẻ của sinh viên mầm non. 
3.2.5. Nhóm kĩ năng đánh giá (KNĐG) 
Trong đánh giá hoạt động tổ chức TCĐVTCĐ cho trẻ, sinh viên phải thực hiện việc 
đánh giá hoạt động chơi của trẻ, đồng thời tự đánh giá, rút kinh nghiệm cho bản thân 
nhằm nâng cao kĩ năng tổ chức của mình. Do vậy, đây là một kĩ năng rất quan trọng. 
Nghiên cứu KNĐG của sinh viên, chúng tôi thu được kết quả sau: 
Bảng 5. Kết quả nghiên cứu nhóm KNĐG của SV 
Kĩ 
năng 
Nắm vững lí thuyết Thực hành giao tiếp Hiệu quả giao tiếp (%) Chung 
X 
Mức độ (%) X
Std Mức độ (%) X
Std Mức độ (%) X Std M1 M2 M3 M1 M2 M3 M1 M2 M3 
KN24 8,9 58,9 32,2 2,23 0,59 13,3 67,2 19,4 2,06 0,57 20,0 65,6 14,4 1,94 0,59 2,08 
KN25 4,4 48,9 46,7 2,42 0,58 3,9 70,0 26,1 2,22 0,50 11,1 65,6 23,3 2,12 0,58 2,25 
KN26 6,7 53,3 40,0 2, 33 0,60 10,6 76,7 12,8 2,02 0,48 20,6 70,0 9,4 1,89 0,54 2,08 
KN27 6,7 60,6 32,8 2,26 0,57 11,7 68,3 20,0 2,08 0,56 22,2 64,4 13,3 1,91 0,59 2,08 
Chung 2.31 0.40 2.10 0.36 1.97 0.40 2.12 
Chú thích: 
KN24: KN đánh giá khả năng tư duy, tưởng tưởng, tình cảm, tính tích cực... của trẻ 
KN25: KN đánh giá kết quả buổi chơi 
KN26: KN tự đánh giá hoạt động tổ chức của giáo viên 
KN27: KN điều chỉnh, khắc phục những hạn chế của bản thân 
KNĐG của sinh viên nhìn chung còn ở mức độ thấp ( X = 2,12). Mặc dù các em tỏ ra 
nắm vững tri thức về cách thức đánh giá hoạt động chơi của trẻ và tự đánh giá, tự điều 
chỉnh hành vi tổ chức của bản thân, khả năng thực hành và kết quả của những việc thực 
hành những kĩ năng này vẫn chưa thực sự cao. Đây cũng là nhóm kĩ năng có tỉ lệ sinh 
viên ở mức chưa có kĩ năng hoặc kĩ năng chưa thuần thục cao nhất (27,8%). Quan sát 
các tiết tổ chức trò chơi ĐVTCĐ của sinh viên cho thấy rõ điều này. Nhiều sinh viên bỏ 
qua khâu nhận xét, đánh giá các nhóm chơi, một số khác có nhận xét nhưng sơ sài và 
thiếu chính xác, hầu hết là những đánh giá chung chung, được tóm gọn trong một vài 
câu. Nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trên vẫn là việc rèn luyện kĩ năng đánh giá 
cho sinh viên không được thực hiện một cách bài bản. 
PHẠM TIẾN SỸ - PHÙNG ĐÌNH MẪN 
92 
Xét theo năm học: kiểm định phương sai một yếu tố cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê giữa sinh viên năm thứ 2 và năm thứ 3, thứ 4 về KNĐG (F(2,177)=15,6, 
p<0,001) . Sinh viên năm thứ 4 ( X = 2,23), thứ 3 ( X = 2,21), có KNĐG tốt hơn SV năm 
thứ 2 ( X = 1,94). 
3.2.6. Một số sai sót sinh viên thường mắc phải trong quá trình tổ chức 
Để làm phong phú thêm bức tranh về thực trạng KNTC trò chơi ĐVTCĐ của sinh viên 
ngành Giáo dục mầm non - Trường ĐHSP - ĐH Huế, chúng tôi đã đi sâu phân tích một 
số sai sót mà sinh viên thường mắc phải trong quá trình tổ chức. Kết quả cho thấy các 
em mắc khá nhiều sai sót trong quá trình tổ chức trò chơi ĐVTCĐ. Mức độ sai sót cũng 
khá thường xuyên. Giọng nói, nét mặt không biểu cảm là biểu hiện thường thấy nhất 
( X = 3,27). Có đến 40% sinh viên thường xuyên mắc lỗi này. Các bạn thường biểu lộ 
khuôn mặt căng thẳng, giọng nói run, thiếu biểu cảm trong quá trình giao tiếp với trẻ. 
Đây là điều dễ hiểu khi hầu hết các tiết dạy của sinh viên đều là những tiết dạy để giáo 
viên đánh giá. Xử lý các tình huống không phù hợp cũng là hạn chế của sinh viên ( X = 
3.24). Nhiều em chưa phát hiện được tình huống và việc xử lý các tình huống cũng chưa 
thật sự khéo léo. Đó cũng là nguyên nhân làm cho trò chơi của trẻ không sôi động, nội 
dung chơi không được phát triển, mở rộng, trẻ thiếu hứng thú với hoạt động chơi. Vì 
vậy, buổi chơi thường tẻ nhạt đối với cả người chơi (trẻ) lẫn người tổ chức (sinh viên) 
(35% sinh viên thường xuyên mắc lỗi này). Ngoài ra, các em còn mắc một số lỗi khác 
nhau như: không biết nắm bắt, khuyến khích trẻ ( X = 3,15); thỏa thuận chơi quá lâu 
( X = 2,98); không xác định được nội dung chính cần quan tâm ( X = 2,98); đặt câu hỏi, 
yêu cầu không đúng lúc ( X = 2,93)... 
Xét theo năm học, càng học lên, sinh viên càng có điều kiện thực hành, nâng cao KNTC 
nên mức độ mắc lỗi cũng giảm dần. Cụ thể, lỗi để cho “buổi chơi tẻ nhạt” giảm mạnh từ 
năm thứ 2 ( X = 3,32) đến năm 3 ( X = 3,01) và năm 4 ( X = 2,52); sinh viên năm thứ 4 
cũng thỏa thuận chơi thuần thục và đảm bảo thời gian hơn các sinh viên còn lại 
(F(2,177)=5,58, p<0,01); họ biết cách đặt câu hỏi hơn (F(2,177)=3.99, p<0,05) và chuẩn bị 
nội dung chơi (F(2,177)=3,591, p<0,05) tốt hơn so với năm thứ 2 và năm thứ 3. 
Nghiên cứu cho thấy, có cả những nhân tố chủ quan lẫn yếu tố khách quan ảnh hưởng 
theo chiều hướng không thuận lợi đối với quá trình hình thành và phát triển kĩ năng của 
sinh viên. Trong đó, các yếu tố khách quan như thời gian, điều kiện thực hành kĩ năng, 
phương pháp tổ chức rèn luyện... có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn các yếu tố chủ quan. 
Nguyên nhân của thực trạng 
- Hệ thống KNTC trò chơi ĐVTCĐ là một hệ thống kĩ năng phức hợp, trong đó có 
nhiều kĩ năng khó. Do đó việc hình thành kĩ năng này cần một thời gian tương đối 
lâu dài, công phu và khoa học mới mong đạt được kết quả cao. 
- Chương trình dạy học dành cho sinh viên ngành Giáo dục mầm non - Trường 
ĐHSP - ĐH Huế chưa thực sự chú trọng đến việc hình thành và phát triển KNTC 
trò chơi ĐVTCĐ cho người học. Sự phối hợp giữa các học phần Tâm lý học mầm 
KỸ NĂNG TỔ CHỨC TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ... 
93 
non, Giáo dục học mầm non và các học phần phương pháp (những học phần ảnh 
hưởng trực tiếp đến kết quả tổ chức TCĐVTCĐ cho trẻ) không chặt chẽ, không 
giúp sinh viên đạt được kết quả tối đa trong việc rèn luyện kĩ năng này. 
- Thực tế, việc tổ chức cho trẻ chơi TCĐVTCĐ của giáo viên các trường mầm non 
trên địa bàn thành phố Huế vẫn còn nhiều hạn chế, kết quả chưa cao nên sinh viên 
ít học hỏi được những kinh nghiệm tốt khi thực hành, thực tập. 
- Sinh viên chưa thực sự cố gắng hết mình để đạt được kết quả cao trong việc lĩnh 
hội tri thức và hình thành kĩ năng. 
- Việc dạy và học về trò chơi còn mang tính chất lý thuyết, người học ít có cơ hội 
thực hành, thực tập, nhất là những sinh viên nằm trong chương trình đào tạo theo 
học chế tín chỉ (năm thứ 2 và thứ 3). 
Một số biện pháp nâng cao KNTC trò chơi ĐVTCĐ cho sinh viên 
- Cung cấp nguồn tài liệu, hướng dẫn sinh viên đọc, nghiên cứu tài liệu có liên quan 
đến TCĐVTCĐ, đồng thời đưa ra các yêu cầu cụ thể để đánh giá hoạt động tự học 
của sinh viên. 
- Cho sinh viên tập quan sát, nghiên cứu trò chơi của trẻ, nghiên cứu việc tổ chức 
cho trẻ chơi của giáo viên trên băng hình. 
- Xây dựng các tình huống nảy sinh và cho sinh viên tập phân tích, xử lý các tình 
huống sư phạm; rèn luyện cho sinh viên khả năng phát hiện và xử lý tình huống. 
- Cho sinh viên tiến hành lập kế hoạch buổi chơi (soạn giáo án) dựa trên những điều 
kiện có sẵn. Đây là biện pháp cần thiết nhằm rèn luyện KNTK cho sinh viên. 
- Cho sinh viên thực hành theo giáo án trong điều kiện giả định. 
- Tạo điều kiện cho sinh viên quan sát thực tế, thực hành, thực tập tại các trường 
mầm non. 
4. KẾT LUẬN 
Nhìn chung, sinh viên ngành Giáo dục mầm non - Trường ĐHSP - ĐH Huế có nhận 
thức tương đối tốt về vai trò, ý nghĩa của TCĐVTCĐ cũng như có thái độ tích cực với 
việc rèn luyện KNTC trò chơi này. Đánh giá trên cả 3 bình diện (mức độ nắm vững tri 
thức về cách thức tổ chức TCĐVTCĐ, khả năng vận dụng vốn tri thức đó vào thực tiễn 
tổ chức và kết quả thu được) cho thấy kĩ năng sinh viên đạt được ở mức chưa cao. 
Trong quá trình tổ chức trò chơi, các bạn còn bộc lộ khá nhiều sai sót. Tuy nhiên, điều 
đáng mừng là kĩ năng của sinh viên có sự tiến bộ khá đồng đều qua các năm học. Đến 
năm thứ 4, kĩ năng của sinh viên tỏ ra thuần thục hơn nhiều, mức độ sai sót cũng giảm 
đi rõ rệt. Điều này một mặt phản ánh sự nỗ lực của người học, mặt khác, nó cho thấy 
hiệu quả của các đợt kiến tập, thực tập sư phạm đối với việc rèn luyện KNTC trò chơi 
ĐVTCĐ của sinh viên. 
PHẠM TIẾN SỸ - PHÙNG ĐÌNH MẪN 
94 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) (2002). Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non (từ lọt 
lòng đến 6 tuổi). NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
[2] Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Nguyễn Văn Lũy, Đinh Văn Vang (2005), Giáo trình 
tâm lý học đại cương, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
Title: ORGANIZATIONAL SKILL OF THE ROLE-PLAYING THEMATIC GAMES OF 
PRE-SCHOOL STUDENTS – HUE UNIVERSITY’S COLLEGE OF EDUCATION 
Abstract: The organizational skill of the role-playing games on the theme is considered as a 
part of system component of the pedagogical skills of pre-school students. However, so far, this 
issue has not been really cared to research by many authors. In this paper, we talk about the 
results of research on organizational skill of the role-playing games on the theme at present of 
pre-school students in Hue University’s College of Education. It emphasized the level of 
maturity skills, the factors affecting the formation and development of skills and proposed some 
measures to improve the effect of training skills of students. 
PHẠM TIẾN SỸ 
Học viên Cao học, Tâm lý học, Khóa 18, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế 
ĐT: 0919.734.666 
PGS. TS. PHÙNG ĐÌNH MẪN 
Trung tâm Đào tạo từ xa – Đại học Huế 

File đính kèm:

  • pdfki_nang_to_chuc_tro_choi_dong_vai_theo_chu_de_cua_sinh_vien.pdf