Khả năng phân hủy naphthalene của chủng vi khuẩn VTPG5 phân lập từ các mẫu đất nhiễm dầu thu thập tại Bà Rịa - Vũng Tàu

Naphthalene là một trong những chất gây ô nhiễm môi trường có khả năng gây đột biến và ung thư cho

con người. Để phân hủy và chuyển hóa naphthalene, các biện pháp sinh học có sử dụng vi sinh vật đã và đang

được quan tâm nghiên cứu. Từ các mẫu đất nhiễm dầu thu thập tại khu vực ven biển Bà Rịa – Vũng Tàu, 03

chủng vi khuẩn có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt trên nguồn cơ chất naphthalene, đã được phân lập và

tuyển chọn. Trong đó, chủng Rhodococcus sp. VTPG5 có khả năng phân hủy tốt các hợp chất hydrocarbon

thơm nên đã được lựa chọn để nghiên cứu. Chủng VTPG5 có thể sinh trưởng trên nguồn cơ chất naphthalene

với nồng độ lên tới 200 ppm và tốt nhất ở nồng độ 150 ppm. Nhiệt độ 37oC, pH 7 và nồng độ muối NaCl là

2,5% đã được xác định là các điều kiện thích hợp cho chủng VTPG5 sinh trưởng và phát triển sau 7 ngày nuôi

cấy. Bằng phương pháp sắc ký lỏng cao áp (HPLC) đã xác định được chủng VTPG5 có khả năng phân hủy

được 99,9 % naphthalene sau 7 ngày nuôi cấy với nồng độ ban đầu là 150 ppm. Kết quả này góp phần định

hướng cho việc sử dụng chủng vi khuẩn này để xử lý naphthalene và các hợp chất thơm đa vòng khác có trong

đất bị ô nhiễm dầu mỏ.

pdf 7 trang kimcuc 4220
Bạn đang xem tài liệu "Khả năng phân hủy naphthalene của chủng vi khuẩn VTPG5 phân lập từ các mẫu đất nhiễm dầu thu thập tại Bà Rịa - Vũng Tàu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khả năng phân hủy naphthalene của chủng vi khuẩn VTPG5 phân lập từ các mẫu đất nhiễm dầu thu thập tại Bà Rịa - Vũng Tàu

Khả năng phân hủy naphthalene của chủng vi khuẩn VTPG5 phân lập từ các mẫu đất nhiễm dầu thu thập tại Bà Rịa - Vũng Tàu
Tạp chí Công nghệ Sinh học 14(3): 573-579, 2016 
 573 
KHẢ NĂNG PHÂN HỦY NAPHTHALENE CỦA CHỦNG VI KHUẨN VTPG5 PHÂN LẬP 
TỪ CÁC MẪU ĐẤT NHIỄM DẦU THU THẬP TẠI BÀ RỊA - VŨNG TÀU 
Lê Thị Nhi Công1, Cung Thị Ngọc Mai1, Vũ Ngọc Huy1, Đỗ Văn Tuân2 
1Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
2Trường Cao đẳng Sơn La 
Ngày nhận bài: 05.11.2015 
Ngày nhận đăng: 02.7.2016 
TÓM TẮT 
Naphthalene là một trong những chất gây ô nhiễm môi trường có khả năng gây đột biến và ung thư cho 
con người. Để phân hủy và chuyển hóa naphthalene, các biện pháp sinh học có sử dụng vi sinh vật đã và đang 
được quan tâm nghiên cứu. Từ các mẫu đất nhiễm dầu thu thập tại khu vực ven biển Bà Rịa – Vũng Tàu, 03 
chủng vi khuẩn có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt trên nguồn cơ chất naphthalene, đã được phân lập và 
tuyển chọn. Trong đó, chủng Rhodococcus sp. VTPG5 có khả năng phân hủy tốt các hợp chất hydrocarbon 
thơm nên đã được lựa chọn để nghiên cứu. Chủng VTPG5 có thể sinh trưởng trên nguồn cơ chất naphthalene 
với nồng độ lên tới 200 ppm và tốt nhất ở nồng độ 150 ppm. Nhiệt độ 37oC, pH 7 và nồng độ muối NaCl là 
2,5% đã được xác định là các điều kiện thích hợp cho chủng VTPG5 sinh trưởng và phát triển sau 7 ngày nuôi 
cấy. Bằng phương pháp sắc ký lỏng cao áp (HPLC) đã xác định được chủng VTPG5 có khả năng phân hủy 
được 99,9 % naphthalene sau 7 ngày nuôi cấy với nồng độ ban đầu là 150 ppm. Kết quả này góp phần định 
hướng cho việc sử dụng chủng vi khuẩn này để xử lý naphthalene và các hợp chất thơm đa vòng khác có trong 
đất bị ô nhiễm dầu mỏ. 
Từ khóa: Naphthalene, ô nhiễm dầu, phân hủy sinh học, Rhodococcus sp., vi khuẩn 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Naphthalene là một trong mười sáu chất 
hydrocarbon đa vòng (PAH) đã được cơ quan bảo vệ 
môi trường Mỹ cảnh báo (US-EPA 1980, 1986). 
Naphthalene là hợp chất đa vòng có cấu tạo đơn giản 
nhất, gồm hai vòng và ít tan trong nước. Tuy nhiên, 
chất này và các dẫn xuất methyl hóa của nó được 
xem là những chất có ảnh hưởng nghiêm trọng nhất 
đối với sức khỏe con người (Grund et al., 1992). Đây 
được xem là một trong những chất gây độc, gây đột 
biến và ung thư cho con người. Để xử lý 
naphthalene, người ta thường kết hợp giữa các 
phương pháp sinh học và không sinh học như oxi 
hóa hóa học, bay hơi, quang oxy hóa, phân hủy sinh 
học nhờ vi sinh vật. Trong số các phương pháp này, 
phân hủy sinh học được xem là có ảnh hưởng nhất 
đến quá trình loại bỏ PAH. 
 Các nghiên cứu về sản xuất các sản phẩm từ 
các chủng vi sinh vật nhằm xử lý PAH có trong dầu 
mỏ hoặc về các chủng có khả năng tạo màng sinh 
học nhằm tăng cường hiệu quả phân hủy các thành 
phần hydrocarbon trong dầu mỏ cũng đã được 
nghiên cứu từ lâu (Lại Thúy Hiền et al., 2010; 
Cung Thị Ngọc Mai et al., 2013). Tuy nhiên, cho 
tới nay chưa có nhiều công bố về việc ứng dụng các 
chủng vi sinh vật này trong xử lý tại chỗ. Đất là 
một môi trường không đồng nhất và hơn thế nữa 
hàm lượng PAH cũng như naphthalene phân bố 
trong đất là khác nhau. Do vậy, việc xử lý 
naphthalene trong đất thường phức tạp hơn trong 
nước. Việc sử dụng các vi sinh vật để xử lý trực 
tiếp tại các địa điểm đang ngày càng được chú 
trọng. Năm 2009, Pathrak và đồng tác giả. đã phân 
lập được chủng Pseudomonas sp. HOB1 từ các mẫu 
nhiễm dầu ở Gujarat, Ấn Độ là chủng có khả năng 
phân hủy naphthalene khá cao. Đặc biệt, khi bổ 
sung chủng này cùng với khu hệ vi sinh vật nội tại 
để xử lý tại chỗ thì hàm lượng naphthalene phân 
hủy được lên tới 2000 ppm. Do đó, việc phân lập và 
xác định các vi sinh vật có tiềm năng phân hủy 
naphthalene từ các mẫu đất nhiễm dầu là rất cần 
thiết. Trong bài báo này chúng tôi đã tiến hành 
tuyển chọn chủng vi khuẩn có khả năng phân hủy 
naphthalene cao từ các mẫu đất nhiễm dầu ở bờ 
biển Vũng Tàu nhằm định hướng ứng dụng các 
chủng vi khuẩn này để xử lý naphthalene tại các vị 
trí đất bị nhiễm dầu hoặc nhiễm PAH. 
Lê Thị Nhi Công et al. 
	574 
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Nguyên liệu 
 Mẫu đất nhiễm dầu được thu thập tại khu vực 
ven biển Bà Rịa-Vũng Tàu và được lưu giữ ở Phòng 
Công nghệ sinh học môi trường, Viện Công nghệ 
sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ 
Việt Nam trong vòng 24 giờ để phân tích. 
Hóa chất, môi trường nuôi cấy 
Hóa chất 
 Các hóa chất được sử dụng trong nghiên cứu đều 
là hóa chất nhập ngoại có độ tinh khiết cao. 
Môi trường nuôi cấy 
 Môi trường Gost dịch để phân lập và đánh giá 
khả năng sinh trưởng, phát triển và phân hủy phenol 
của vi khuẩn (g/l): Na2HPO4: 0,7; KH2PO4: 0,3; 
KNO3: 3; MgSO4: 0,4; NaCl: 5; pH 6,9 – 7,2 và môi 
trường Gost thạch để tuyển chọn các chủng vi khuẩn 
có khả năng sinh trưởng và phát triển trên nguồn cơ 
chất naphthalene: Thành phần giống môi trường 
Gost dịch nhưng có bổ sung thêm 18-20 g agar 
(Schauer, 2001). 
 Môi trường hiếu khí tổng số (HKTS – g/l): để 
lưu trữ các chủng vi khuẩn: NH4NO3: 2; KH2PO4: 4; 
NaCl: 5; KCl: 0,25; MgCl2: 1,25; glucose: 1; 
peptone: 5; cao men: 0,2; cao thịt: 3; pH 7 – 7,2 
(Schauer, 2001). 
Phương pháp làm giàu, phân lập và tuyển chọn 
các chủng vi khuẩn có khả năng sinh trưởng và 
phát triển trên nguồn cơ chất naphthalene 
 Thực hiện các bước thí nghiệm theo mô tả của 
Cung Thị Ngọc Mai và đồng tác giả (2010). 
Ảnh hưởng của các điều kiện môi trườngđến khả 
năng sinh trưởng và phát triển của chủng vi khuẩn 
tại nồng độ naphthalene phù hợp 
 Một số điều kiện môi trường như nhiệt độ, pH 
và nồng độ muối NaCl đã được sử dụng để nghiên 
cứu sự ảnh hưởng của các yếu tố đó lên sự sinh 
trưởng và phát triển của chủng vi khuẩn trên nguồn 
cơ chất naphthalene. Cụ thể, các giá trị nhiệt độ như 
25oC, 30oC, 37oC, 40oC, 45oC, 50oC; dải pH gồm 4, 
5, 6, 7, 8, 9, 10; và nồng độ muối NaCl gồm 0,5; 1; 
1,5; 2; 2,5; 3 đã được sử dụng. Sau 1, 2, 3, 5 và 7 
ngày tiến hành kiểm tra khả năng sinh trưởng và phát 
triển của các chủng trên cơ chất naphthalene. 
 Các thí nghiệm được lặp lại 3 lần. 
Phân tích sắc ký lỏng cao áp (HPLC) 
 Để đánh giá khả năng phân hủy naphthalene của 
chủng lựa chọn, sau 1, 3, 5 và 7 ngày nuôi cấy trên 
môi trường khoáng Gost có bổ sung 150 ppm 
naphthalene, mẫu đã được tách chiết bằng dung môi 
như hexane. Dịch chiết xuất đã được phân tích 
HPLC trên máy HPLC grade (Cica Reagent Kanto 
Chemicals, Tokyo, Japan) với tốc độ dòng chảy là 1 
mL/min từ cột đảo pha (GVP-ODS guard column, 10 
× 4.6 mm I.D.; VP-ODS packed column, 150 × 4.6 
mm I.D., both Shim-Pack, Shimadzu) được gắn trên 
hệ thống máy HPLC Shimadzu bao gồm hệ thống 
kiểm soát SCL-10A VP, DGU-14A loại khí, hai bơm 
LC-10AD VP và một đầu bơm tự động SIL-10AF. 
Nhiệt độ sấy của cột CTO-10A VP được cài đặt là 
40 °C và các phổ của các chất trung gian được phát 
hiện tại bước sóng 280 nm trên đầu dò SPD-10A VP 
UV-VIS. Thời gian lưu (tR) của naphthalene là 12 
phút. 
 Mẫu đối chứng là mẫu không bổ sung chủng 
VTPG5 vào môi trường khoáng Gost có chứa 150 
ppm naphthalene. 
 Các thí nghiệm được lặp lại 3 lần. 
Xác định hàm lượng naphthalene còn lại trong các 
thí nghiệm 
 Naphthalene được sử dụng là chất chuẩn với các 
nồng độ khác nhau và được phân tích bằng phương 
pháp HPLC. Dựa trên tương quan của chiều cao các 
phổ của các nồng độ khác nhau này, chúng tôi đã 
xây dựng được đường chuẩn về hàm lượng 
naphthalene trong các thí nghiệm. Sử dụng các điều 
kiện tối ưu cho sự sinh trưởng và phát triển của 
VTPG5 trên naphthalene với nồng độ ban đầu là 150 
ppm để đánh giá khả năng phân hủy cơ chất này sau 
7 ngày nuôi cấy. Các thí nghiệm được lặp lại 3 lần. 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Phân lập và tuyển chọn các chủng vi khuẩn có 
khả năng sinh trưởng và phát triển trên nguồn cơ 
chất naphthalene 
 ßTừ các mẫu đất nhiễm dầu lấy tại khu vực ven 
biển Bà Rịa – Vũng Tàu, đã phân lập được 05 chủng 
vi khuẩn có khả năng sinh trưởng trên naphthalene. 
Kết quả được thể hiện trong hình 1. 
 Kết quả trên Hình 1 cho thấy, các chủng VTPG5, 
VTB2, VTB3 là những chủng có khả năng sinh 
trưởng tốt trên naphthalene. Trong đó, chủng VTPG5 
là chủng có khả năng phân hủy tốt phenol và đã được 
Tạp chí Công nghệ Sinh học 14(3): 573-579, 2016 
 575 
định danh là Rhodococcus sp. VTPG5 (Lê Thị Nhi 
Công et al., 2015). Đồng thời, trình tự đoạn gen của 
chủng cũng đã được đăng ký trên ngân hàng NCBI 
với mã số là LC057207. Do vậy, chủng VTPG5 đã 
được lựa chọn cho những nghiên cứu tiếp theo. 
Khả năng sinh trưởng và phát triển của chủng 
VTPG5 tại các nồng độ naphthalene khác nhau 
 Chủng VTPG5 đã được nuôi cấy trên môi 
trường khoáng Gost có bổ sung các nồng độ 
naphthalene khác nhau nhằm đánh giá khả năng sinh 
trưởng và phát triển của chủng trên nguồn cơ chất 
này. Trong nghiên cứu này, các nồng độ 50, 100, 
150 và 200 ppm naphthalene đã được sử dụng. Kết 
quả được thể hiện trên hình 2. 
 Kết quả trên Hình 2 cho thấy, chủng VTPG5 có 
khả năng sinh trưởng tốt ở các nồng độ 50, 100 và 
150 ppm sau 7 ngày nuôi cấy. Vì vậy, nồng độ 150 
ppm đã được sử dụng cho các nghiên cứu tiếp theo. 
Hình 1. Khả năng sinh trưởng trên naphthalene của các chủng vi khuẩn. 
Hình 2. Khả năng sinh trưởng trên naphthalene của chủng VTPG5. 
Lê Thị Nhi Công et al. 
	576 
Ảnh hưởng của các điều kiện môi trườngđến khả 
năng sinh trưởng và phát triển của chủng VTPG5 
trên naphthalene 
 Một số điều kiện môi trường như nhiệt độ, pH 
và nồng độ muối NaCl đã được sử dụng để đánh giá 
ảnh hưởng của chúng lên khả năng sinh trưởng và 
phát triển của chủng VTPG5 trên nguồn cơ chất 
naphthalene. Kết quả được thể hiện trên hình 3. 
 Kết quả trên Hình 3 cho thấy, khi nuôi cấy với 
nồng độ naphthalene là 150 ppm thì chủng VTPG5 
có khả năng sinh trưởng và phát triển tối ưu ở 37 oC, 
pH 7 và nồng độ muối NaCl là 2,5 %. Trong một 
nghiên cứu khác của chúng tôi về khả năng tạo màng 
sinh học của chủng VTPG5 cũng cho thấy chủng có 
khả năng tạo màng tối ưu ở nhiệt độ 37 oC, pH 7; tuy 
nhiên nồng độ muối NaCl tối ưu chỉ là 1,5 % (Lê Thị 
Nhi Công et al., 2015). Như vậy, đây có thể được 
xem là các điều kiện thích hợp cho chủng VTPG5 
sinh trưởng và phát triển trên cơ chất naphthalene. 
Khả năng phân hủy naphthalene của chủng 
VTPG5 
 Sử dụng các điều kiện tối ưu như nhiệt độ 37 oC, 
pH 7 và nồng độ muối NaCl là 2,5 % cho sự sinh 
trưởng và phát triển của VTPG5 trên naphthalene 
với nồng độ ban đầu là 150 ppm để đánh giá khả 
năng phân hủy cơ chất này sau 7 ngày nuôi cấy. Kết 
quả phân tích HPLC được trình bày ở hình 4. 
Hình 3. Ảnh hưởng của một số điều kiện môi trường lên sự sinh trưởng trên naphthalene của chủng VTPG5. 
Tạp chí Công nghệ Sinh học 14(3): 573-579, 2016 
 577 
(a) 
2.5 5.0 7.5 10.0 12.5 15.0 17.5 min
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
3.0
3.5
4.0
4.5
5.0μV(x10,000)
(b) 
Hình 4. Sắc ký đồ khả năng phân hủy naphthalene của chủng VTPG5 sau 7 ngày nuôi cấy. Trong đó, (a): Đối chứng; (b) thí 
nghiệm. 
 Dựa vào đường chuẩn để tính toán thì kết quả 
cho thấy trên 99,9% naphthalene đã được phân hủy 
sau 7 ngày nuôi cấy với nồng độ ban đầu là 150 
ppm. 
 Cho tới nay trên thế giới đã có nhiều công bố 
khả năng phân hủy và chuyển hóa naphthalene của 
chi Rhodococcus. Grund et al. (1992) đã công bố về 
chủng Rhodococcus sp. B4 được phân lập từ mẫu 
đất nhiễm hydrocarbon thơm đa vòng có khả năng 
sinh trưởng trên nguồn carbon và năng lượng duy 
nhất là naphthalene. Salicylate và gentisate đã được 
xác định là các sản phẩm trung gian của quá trình 
chuyển hóa naphthalene bởi chủng B4 này. Năm 
2001, nhóm tác giả Gennaro cũng đã phân lập được 
chủng Rhodococcus opacus R7 từ các mẫu đất bị 
nhiễm hydrocarbon thơm đa vòng (Gennaro et al., 
2001). Tuy nhiên, các tác giả này chủ yếu tập trung 
vào việc phát hiện các enzyme tham gia vào các quá 
trình chuyển hóa naphthalene. 
 Ở nước ta, năm 2007, Lê Tiến Mạnh và Nghiêm 
Ngọc Minh đã phân lập được chủng vi khuẩn 
BQN31 từ mẫu nước nhiễm dầu của bể thu gom xí 
nghiệp than Quảng Ninh có khả năng phân hủy 69 % 
naphthalene với nồng độ ban đầu là 100 ppm. Từ 
mẫu đất nhiễm chất diệt cỏ dioxin trong căn cứ quân 
sự cũ của Mỹ ở sân bay Đà Nẵng, Nguyễn Ngọc Bảo 
Lê Thị Nhi Công et al. 
	578 
và đồng tác giả (2007) đã phân lập được hai chủng 
vi khuẩn BDNR1 và BDNR4. Hai chủng này đều có 
khả năng phân hủy 50 % naphthalene với nồng độ 
ban đầu là 100 ppm. Nhóm tác giả Nguyễn Bá Hữu 
(2008) đã công bố ba chủng vi khuẩn Paenibacillus 
sp. Ao3, Terrabacter sp. DMA và Rhodococcus sp. 
HDN3 được phân lập từ đất nhiễm chất diệt cỏ chứa 
dioxin tại Đà Nẵng có khả năng phân hủy tốt một số 
hợp chất vòng thơm như fluorine, carbazol và 
biphenyl. Cung Thị Ngọc Mai và đồng tác giả 
(2010) đã phân lập được chủng vi khuẩn BLT11 từ 
nước thải khu công nghiệp Từ Liêm, Hà Nội. Chủng 
này có khả năng phân hủy được nhiều chất PAH, 
chẳng hạn như naphthalene (64 %), anthracene (44 
%), pyrene (70 %) và phenol (99 %) với nồng độ 
ban đầu là 100 ppm. Năm 2010, nhóm tác giả Lại 
Thúy Hiền công bố các kết quả về việc sản xuất chất 
hoạt hóa bề mặt sinh học từ bốn chủng vi khuẩn biển 
Rhodococcus 4C3, TD2 và Acinetobacter 6C1, 
QN15 nhằm ứng dụng trong công nghiệp dầu khí và 
xử lý ô nhiễm môi trường do dầu mỏ gây ra. Năm 
2013, nhóm tác giả Cung Thị Ngọc Mai đã công bố 
kết quả về khả năng phân hủy naphthalene bởi 
chủng vi khuẩn tạo màng sinh học Rhodococcus sp. 
BQN11 được phân lập từ các mẫu nước nhiễm dầu 
thu thập tại vùng biển Quảng Ninh. Trong điều kiện 
nuôi cấy tối ưu để tạo màng sinh học, chủng này có 
khả năng phân hủy lên tới 61,1 % naphthalene sau 5 
ngày nuôi cấy với nồng độ ban đầu là 200 ppm. 
 Như vậy, có thể thấy rằng hiệu quả phân hủy 
naphthalene của chủng VTPG5 là khá cao. Kết quả 
này góp phần định hướng cho chúng tôi trong việc 
sử dụng chủng này để xử lý các hợp chất thơm đa 
vòng khác và ứng dụng trong xử lý đất bị ô nhiễm 
dầu. 
KẾT LUẬN 
 Từ các mẫu đất nhiễm dầu thu thập tại khu vực 
ven biển Bà Rịa – Vũng Tàu, đã phân lập và tuyển 
chọn được chủng Rhodococcus sp. VTPG5 có khả 
năng sinh trưởng và phát triển tốt trên nguồn cơ chất 
naphthalene. Tại một số điều kiện thích hợp như 
nhiệt độ 37 oC, pH 7 và nồng độ muối NaCl là 2,5 
%, chủng VTPG5 đã phân hủy được 99,9 % 
naphthalene sau 7 ngày nuôi cấy với nồng độ ban 
đầu là 150 ppm. 
Lời cảm ơn: Công trình được thực hiện với sự hỗ 
trợ kinh phí từ đề tài thăm dò 2015 do Viện Công 
nghệ sinh học tài trợ và sử dụng trang thiết bị 
Phòng Thí nghiệm trọng điểm Công nghệ gen, Viện 
Công nghệ sinh học. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Cung Thị Ngọc Mai, Lê Thị Nhi Công, Nghiêm Ngọc 
Minh (2013) Degradation of naphthalene by biofilm 
forming Rhodococcus sp. BQN11 isolated from 
petroleum-polluted water samples in Quang Ninh coastal 
zone, Vietnam. Proceedings of VAST-IRD symposium on 
marine science, Hai Phong, Vietnam: 125–133. 
Cung Thị Ngọc Mai, Trần Hải Đăng, Nguyễn Văn Bắc, 
Nghiêm Ngọc Minh (2010) Khả năng phân hủy 
hydrocarbon thơm đa nhân và phenol của chủng vi khuẩn 
BTL11 phân lập từ nước thải khu công nghiệp. Tạp chí 
Công nghệ Sinh học 8(3B): 1739–1744. 
Gennaro PD, Rescalli E, Galli E, Sello G, Bestetti G 
(2001) Characterization of Rhodococcus opacus R7, a 
strain able to degrade naphthalene and o-xylene isolated 
from a polycyclic aromatic hydrocarbon-contaminated 
soil. Res Microbiol 152: 641–651. 
Grund E, Denecke B, Eichenlaub R (1992) Naphthalene 
degradation via salicylate and gentisate by Rhodococcus 
sp. strain B4. Appl Environ Microbiol 58(6): 1874–1877. 
Lại Thúy Hiền, Nguyễn Thị Thu Huyền, Nguyễn Thị Yên, 
Phạm Thị Hằng, Phạm Thị Bích Hợp, Trần Đình Mấn 
(2010) Nghiên cứu sản xuất chất hoạt hóa bề mặt sinh học 
từ vi khuẩn biển Rhodococcus 4C3, TD2 và Acinetobacter 
6C1, QN15. Tạp chí Công nghệ Sinh học 8(3B): 1751–
1759. 
Lê Thị Nhi Công, Vũ Thị Thanh, Trịnh Thành Trung, 
Cung Thị Ngọc Mai, Đỗ Thị Tố Uyên (2015) Khả năng 
phân hủy phenol của màng sinh học tạo ra bởi chủng vi 
khuẩn phân lập từ đất nhiễm dầu lấy tại Vũng Tàu. Báo 
cáo tóm tắt “Hội nghị Khoa học kỷ niệm 40 năm thành lập 
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam”: 61–64. 
Pathack H, Kantharia D, Malpani A, Madamwar D (2009) 
Naphthalene degradation by Pseudomonas sp. HOB1: In 
vitro studies and assessment of naphthalene degradation 
efficiency in simulated microcosms. J Hazard Mater 166: 
1466–1473. 
Schauer, F. (2001). Abbau ung Verwertung von 
Mineralölbestandteilen durch Mikroorganismen. Bodden 
11, 3-31. 
US Environmental Protection Agency (1980) 
Naphthalene: ambient water quality criteria. USEPA 
Office of Solid Waste, Washington DC. 
US Environmental Protection Agency (1986) 
Naphthalene, health and environmental effects. Profile no. 
131. USEPA Office of Solid Waste, Washington DC. 
Tạp chí Công nghệ Sinh học 14(3): 573-579, 2016 
 579 
NAPHTHALENE DEGRADATION BY BACTERIAL STRAIN VTPG5 ISOLATED FROM 
OIL-CONTAMINATED SEDIMENT SAMPLES COLLECTED IN BARIA - VUNGTAU 
Le Thi Nhi Cong1, *, Cung Thi Ngoc Mai1, Vu Ngoc Huy1, Do Van Tuan2 
1Institute of Biotechnology, Vietnam Academy of Science and Technology 
2Son La College 
SUMMARY 
 Naphthalene is one of the polycylclic aromatic hydrocarbons (PAHs) which cause environmental pollution 
leading to mutation and cancer to human. To transform and degrade naphthalene, a number of bioremediation 
approaches have been investigated. The fact that bacteria can utilize naphthalene as the sole source of carbon 
and energy was considered as high potential method to remove naphthalene. In this research, our purpose was 
to find highly degrading-naphthalene bacterial strains to apply in naphthalene removal from oil-polluted sites. 
Three bacterial strains which could well grow on naphthalene were isolated from oil contaminated sediment 
samples taken from coastal zones in Baria – Vungtau province. Among them, the Rhodococcus sp. VTPG5 
was demonstrated to the best aromatic hydrocarbon degrader then it was selected for further investigation. The 
VTPG5 strain could grow with the concentration of 200 ppm and the best concentration for degrading capacity 
was 150 ppm. The optimal physio-chemical conditions for growth of VTPG5 were estimated at 37oC, pH 7 and 
concentration of NaCl 2.5% after 7 day-incubation. Using these conditions to incubation the VTPG5, by HPLC 
analysis it was confirmed that 99.9 % of naphthalene was degraded by VTPG5 strain with the initial 
concentration of 150 ppm after 7 days. The result may lead to the use of this strain in bioremediation 
technology to treat naphthalene and other PAH components containing in oil-polluted sediment samples. 
Keywords: Bacteria, biodegradation, naphthalene, oil-pollution, Rhodococcus sp. 
* Author for correspondence: E-mail: lenhicong@ibt.ac.vn 

File đính kèm:

  • pdfkha_nang_phan_huy_naphthalene_cua_chung_vi_khuan_vtpg5_phan.pdf