Hoạt động nghiên cứu khoa học của viện Khoa học Lao động và xã hội - Số 15
Tăng trưởng kinh tế là kết quả hoạt
động sản xuất của xã hội, là một chỉ
tiêu phản ánh sự phát triển kinh tế của
một đất nước và được tính bằng mức
tăng GDP theo thời gian. Kinh tế tăng
trưởng cao sẽ đem lại thu nhập cao cho
người lao động với điều kiện tăng
trưởng phải được giải quyết hài hoà
trên nguyên tắc công bằng. Bởi lẽ
“tăng trưởng không thể tự nó khắc phục
tình trạng bất bình đẳng: nó thậm chí
còn làm bất bình đẳng gia tăng vì kẻ
mạnh thường được hưởng lợi từ tăng
trưởng nhiều hơn người nghèo; hơn
nữa, nếu lấy kết quả tăng trưởng để giải
quyết vấn đề bất bình đẳng do chính
tăng trưởng gây ra có thể sẽ làm giảm
mức tăng trưởng vì cách làm này sẽ làm
giảm các yếu tố kích thích tăng trưởng
và tăng thêm chi phí; nhưng ngược lại,
nếu không giải quyết vấn đề bất bình
đẳng thì ổn định xã hội sẽ bị đe doạ, và
như vậy sẽ không thể có tăng trưởng
bền vững”1
Kinh nghiệm của các nước cho thấy
tăng trưởng kinh tế mà không chú trọng
đến phát triển xã hội trong đó con
người là trọng tâm thì việc phân hóa
giàu nghèo, bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập sẽ càng lớn. Người giàu
sẽ giàu hơn trong khi người nghèo lại
càng nghèo và khả năng số người rơi
vào nghèo đói sẽ còn gia tăng. Bên
cạnh đó tiến bộ xã hội cũng không
được cải thiện do tệ nạn xã hội phát
triển trong khi các vấn đề giáo dục, y tế
không được đảm bảo. Ngược lại, nếu
quan tâm đến phát triển xã hội mà kinh
tế không tăng trưởng hoặc tăng ở mức
quá thấp thì không giải quyết được mục
tiêu phát triển.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoạt động nghiên cứu khoa học của viện Khoa học Lao động và xã hội - Số 15
Ho¹t ®éng nghiªn cøu khoa häc cña viÖn Khoa häc Lao ®éng vµ x· héi Số 15 Tháng 3 năm 2008 NỘI DUNG I. Trao đổi về phương pháp và công cụ nghiên cứu 1. Một số vấn đề lý luận và thực ti ễn để hoàn thiện chính sách lao động, việc làm, dạy nghề đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế đảm bảo công bằng xã hội Ths. Nguyễn Thị Lan tr.3 2. Vai trò của hệ thống chính sách tiền lương trong quan hệ lao động khu vực sản xuất kinh doanh - TS. Nguyễn Quang Huề tr.10 3. Định hướng xây dựng và thực hiện chính sách đối với người có công nhằm bảo đảm hài hòa quan hệ giữa công bằng xã hội với tăng trưởng kinh tế - Ths. Bùi Xuân Dự tr.18 II. Kết quả nghiên cứu 1. Thương lượng lao động tập thể trong quan hệ lao động - Trần Văn Hoan tr.23 2. Tai nạn lao động và một số yếu tố liên quan tại các cơ sở cô, đúc nhôm huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh - Ths. Dương Danh Mạnh tr.33 III. Kinh nghiệm quốc tế 1. Kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và an sinh xã hội của Hoa Kỳ, Thụy Điển và Đức - TS. Nguyễn Hữu Dũng tr.44 2. Hỗ trợ giải quyết cân bằng mối quan hệ giữa việc làm - công việc gia đình và sự nghiệp của phụ nữ ở Nhật Bản (Hoàng Anh Thư - Trích dịch) tr.55 IV.Giới thiệu sách mới tr.59 SCIENTIFIC RESEARCHES OF Institute of labour science and social affairs Vol. 15 March 2008 CONTENT I. Discussion on research approaches and instruments 1. Some theoretical and practical issues to improve policies on labour, employment and vocational training for the target of economic growth ensuring social equity. MA. Nguyễn Thị Lan Page 3 2. Role of pay policy system in industrial relation in production and business sector Dr. Nguyễn Quang Huề Page 10 3. Guidelines for formulating and implementing policies on policies on national devotees to harmonize the relationship between social equity and economic growth MA. Bùi Xuân Dự Page18 II. Research results 1. Collective bargaining in industrial relations - Trần Văn Hoan Page 23 2. Occupational accidents and some related issues in aluminum casting and condensing establishments in Yen Phong districts, Bac Ninh province MA. Dương Danh Mạnh Page 33 III. International experience 1. Experience in solving the relationship between economic development and social security of the U.S, Sweden and Germany - Dr. Nguyễn Hữu Dũng Page 44 2. Supporting women to balance the relationship between employment, housework and career in Japan. (Hoàng Anh Thư - translating excerpts) Page 55 IV. Introduciton of new books Page 59 Trao ®æi vÒ ph¬ng ph¸p vµ c«ng cô nghiªn cøu Hoạt động nghiên cứu khoa học -Số 15/Tháng 3-2008 3 mét sè vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn ®Ó hoµn thiÖn chÝnh s¸ch lao ®éng, viÖc lµm, d¹y nghÒ ®¸p øng môc tiªu t¨ng trëng kinh tÕ ®¶m b¶o c«ng b»ng x· héi ThS. NguyÔn ThÞ Lan TT Th«ng tin, Ph©n tÝch vµ Dù b¸o chiÕn lîc 1. Tại sao phải đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong mối quan hệ hài hòa với đảm bảo công bằng xã hội Tăng trưởng kinh tế là kết quả hoạt động sản xuất của xã hội, là một chỉ tiêu phản ánh sự phát triển kinh tế của một đất nước và được tính bằng mức tăng GDP theo thời gian. Kinh tế tăng trưởng cao sẽ đem lại thu nhập cao cho người lao động với điều kiện tăng trưởng phải được giải quyết hài hoà trên nguyên tắc công bằng. Bởi lẽ “tăng trưởng không thể tự nó khắc phục tình trạng bất bình đẳng: nó thậm chí còn làm bất bình đẳng gia tăng vì kẻ mạnh thường được hưởng lợi từ tăng trưởng nhiều hơn người nghèo; hơn nữa, nếu lấy kết quả tăng trưởng để giải quyết vấn đề bất bình đẳng do chính tăng trưởng gây ra có thể sẽ làm giảm mức tăng trưởng vì cách làm này sẽ làm giảm các yếu tố kích thích tăng trưởng và tăng thêm chi phí; nhưng ngược lại, nếu không giải quyết vấn đề bất bình đẳng thì ổn định xã hội sẽ bị đe doạ, và như vậy sẽ không thể có tăng trưởng bền vững”1 1 Bµi viÕt tham luËn t¹i thµnh phè Hå ChÝ Minh cña t¸c gi¶ Philippe Nasse vÒ “V n t¸i ph©n ph i v t ng tr ng trong m t n n kinh t ang chuy n i”. ¤ng lµ c v n - Lu t s t i Vi n Th m k Phã Ch t ch H i ng qu n lý Kinh nghiệm của các nước cho thấy tăng trưởng kinh tế mà không chú trọng đến phát triển xã hội trong đó con người là trọng tâm thì việc phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập sẽ càng lớn. Người giàu sẽ giàu hơn trong khi người nghèo lại càng nghèo và khả năng số người rơi vào nghèo đói sẽ còn gia tăng. Bên cạnh đó tiến bộ xã hội cũng không được cải thiện do tệ nạn xã hội phát triển trong khi các vấn đề giáo dục, y tế không được đảm bảo. Ngược lại, nếu quan tâm đến phát triển xã hội mà kinh tế không tăng trưởng hoặc tăng ở mức quá thấp thì không giải quyết được mục tiêu phát triển. Bài học kinh nghiệm về phát triển của các nước đi trước cho thấy, vào những năm 70 của thế kỷ 20, vì theo đuổi mục đích tăng trưởng cao, không xem xét đến vấn đề công bằng xã hội mà chiến lược hiện đại hóa, côn g nghiệp hóa đã đầu tư ồ ạt vào các doanh nghiệp qui mô lớn, sử dụng công nghệ hiện đại nhằm nâng cao năng suất lao động, trong khi đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi thu hút nhiều lao động lại không được quan tâm phát triển hợp lý. Hậu quả là chỉ một s ố nhỏ lao động có việc làm và hưởng lợi ích c nh tranh, nguyªn V tr ng V d b¸o, B Kinh t , T i chÝnh v C«ng nghi p Ph¸p. Trao ®æi vÒ ph¬ng ph¸p vµ c«ng cô nghiªn cøu Hoạt động nghiên cứu khoa học -Số 15/Tháng 3-2008 4 từ tăng trưởng nhưng có đến 700 triệu người dân (khoảng 1/3 dân số các nước đang phát triển) rơi vào cảnh nghèo đói và cực nghèo, không việc làm 2. Hơn nữa ở đâu có tiềm năng kinh tế và lợi thế so sánh hơn thì ở đó kinh tế phát triển và được tập trung khai thác đến cạn kiệt tài nguyên, trong khi ở những vùng không có điều kiện phát triển kinh tế như các vùng miền núi, nông thôn, vùng sâu, vùng xa cũng bị người dân vì kế sinh nhai đã vô tình hay cố ý khai thác tài nguyên rừng một cách vô tổ chức, làm cho môi trường sinh thái bị phá huỷ, tài nguyên cũng vì thế mà cạn kiệt và là một trong các nguyên nhân gây cháy rừng, đất sói lở, bạc màu và bão lụt, thiên tai xảy ra,... cứ thế hàng loạt người tiếp tục rơi vào vòng luẩn quẩn của rủi ro, đói nghèo, đã nghèo lại càng nghèo thêm. Kết quả, khoảng cách giàu nghèo và khác biệt giữa nông thôn - thành thị ngày càng doãng ra, số người nghèo và cực nghèo tăng lên do không có việc làm. Các nước phát triển sau đã có bài học kinh nghiệm dựa vào nông nghiệp để phát triển, sau đó phát triển công nghiệp theo hướng xuất khẩu và công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu. Kinh tế phát triển theo hướng mở và hội nhập kinh tế thế giới nhằm đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, kinh tế thị trường tự thân không giải quyết vấn đề công bằng xã hội mà phải do Nhà nước đứng ra tổ chức thực hiện vì mục đích phát triển con người và vì lợi ích quốc gia chứ không vì quyền lợi của một 2 World bank, trích trong "Phát triển công nghiệp qui mô nhỏ- báo cáo chính sách" của Uribe- Echevaria, F., tr. 11 (1991) nhóm cá nhân riêng nào, khi đó vấn đề phát triển xã hội mới được phát huy. Bàn về công bằng xã hội, Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Đình Tấn cho rằng công bằng xã hội liên quan đến cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội. Sự khác nhau về sức khoẻ, năng lực, kiến thức, vị thế của mỗi người đã tạo nên phân tầng xã hội có cấu trúc bất bình đẳng tự nhiên như vậy. Do đó, công bằng xã hội lúc này không phải là sự cào bằng, đánh đồng mà bản chất của nó là làm cho cấu trúc phân tầng hợp thức hơn, nghĩa là loại bỏ các hiện tượng lợi dụng vị thế để kiếm lợi bất hợp pháp, đồng thời tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội tiếp cận và tham gia vào tiến trình phát triển xã hội theo năng lực phấn đấu của mỗi người3. Ở Việt nam, nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy "tính chất đối kháng giai cấp không gay gắt, quyết liệt như ở nhiều nước khác" mà "nhìn chung trong toàn bộ tiến trình lịch sử Việt nam lúc nào quan hệ dân tộc, ý thức dân tộc cũng cao hơn, đậm nét hơn, sâu sắc hơn quan hệ và ý thức giai cấp"4. Vì vậy, việc giải quyết bất đồng lợi ích giữa các giai cấp ở Việt nam không mấy khó khăn, nặng nề nhưng cũng không suôn sẻ, thuận lợi như ta vẫn nghĩ. Vấn đề tồn tại ở Việt nam cũng như của nhiều nước trên thế giới hiện nay là sự phân hóa giàu nghèo, cần 3 Y kiến phát biểu của Giáo sư tại hội thảo về công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế do Viện KHLĐXH tổ chức ngày 26/12/2006. 4 Đỗ Thiên Kinh, Phân hóa giàu nghèo và tác động của yếu tố học vấn đến nâng cao mức sống cho người dân Việt nam, tr. 30, NXB Khoa học xã hội, Hà nội, 2003, trich trong sách của Nguyễn Quang Ngọc, 1998: 295 -303. Trao ®æi vÒ ph¬ng ph¸p vµ c«ng cô nghiªn cøu Hoạt động nghiên cứu khoa học -Số 15/Tháng 3-2008 5 giải quyết thế nào cho các nhóm thu nhập thấp hay nhóm yếu thế nói chung có cơ hội tiếp cận được các nguồn lực, việc làm tạo thu nhập và được hưởng lợi từ các dịch vụ xã hội như giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa. Tạo điều kiện cho nhóm thu nhập thấp hay nhóm yếu thế là giúp cho họ cần câu để kiếm ăn lâu dài chứ không phải cho họ con cá chỉ giải quyết bữa ăn trước mắt. Cách giải quyết như vậy có thể gọi là công bằng và chủ yếu được hiểu là công bằng trong các cơ hội cho mọi người như: cơ hội việc làm, cơ hội học tập, cơ hội đầu tư, v. v chứ không phải là cào bằng chia đều thu nhập. Ngày nay, công bằng xã hội luôn được nhắc đến trong các chính sách phát triển của mỗi nước và được xem như là tiền đề cho sự phát triển toàn diện bền vững, bởi “Công bằng tăng lên sẽ đem lại lợi ích kép cho xóa đói giảm nghèo” mà còn “Khuyến khích đầu tư nhiều hơn và hiệu quả hơn, dẫn đến tăng trưởng nhanh hơn”5. Ở Việt nam, Đảng và Nhà nước ta đã xác định tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với công bằng xã hội và phấn đấu vì một Việt nam "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Do vậy, các chính sách phát triển kinh tế xã hội của Việt nam cần được xây dựng và thực hiện trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng và phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội, nếu không vấn đề phát triển xã 5 Xem Equity Enhances The Power Of Growth To Reduce Poverty: World Development Report 2006 trên trang website: contentMDK:20653626~isCURL:Y~pagePK:64257043~piP K:437376~theSitePK:4607,00.html hội hay phát triển bền vững sẽ không còn ý nghĩa. 2. Một số vấn đề thực tiễn cho việc xây dựng chính sách lao động- việc làm, dạy nghề ở Việt Nam. Thay vì một nền kinh tế kế hoạch tập trung không hiệu quả, kinh tế Việt nam đang chuyển đổi hoạt động sang nền kinh tế thị trường, tạo sức bật mới cho các thành phần kinh tế phát triển, theo đó thị trường lao động (TTLĐ) cũng đã hình thành và phát triển. Tuy nhiên qui mô của TTLĐ nước ta còn nhỏ, sơ khai, tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị và các khu kinh tế phát triển. Hiện cả nước mới có khoảng trên 1/4 lao động tham gia TTLĐ, nghĩa là có trên 1/4 lao động làm công hưởng lương và được Bộ luật Lao động bảo vệ. Lao động ở khu vực này được hưởng chính sách bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế - một trong các công cụ bảo đảm cho người lao động tránh/ hạn chế được rủi ro ở mức thấp có thể. Số còn lại chủ yếu là lao động hộ gia đình không hưởng lương và tự làm, đây là khu vực kinh tế phi kết cấu với những đặc trưng cơ bản là năng suất và chất lượng lao động thấp, họ không thuộc đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật Lao động. Thu nhập của lao động khu vực này vì thế hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng sản xuất của chính bản thân người lao động và tính thất thường của thị trường hàng hóa. Vì vậy, trong giai đoạn tới, TTLĐ phải được phát triển mạnh và tích cực cả về chiều rộng (tăn g tỷ lệ lao động làm công) lẫn chiều sâu (nâng cao hiểu biết của người lao động về quyền lợi và nghiã vụ của họ trong Trao ®æi vÒ ph¬ng ph¸p vµ c«ng cô nghiªn cøu Hoạt động nghiên cứu khoa học -Số 15/Tháng 3-2008 6 đời sống việc làm). Bên cạnh đó các chính sách phát triển TTLĐ cần được hoàn thiện một cách hợp lý, hướng tới TTLĐ thống nhất, thông thoáng và hoạt động hiệu quả. Kinh tế Việt nam có nhiều triển vọng thời hậu WTO, vấn đề là thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) như thế nào để kinh tế phát triển một cách hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh trên trường quốc tế. Tăng trưởng cao không chỉ do tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động mà còn do nâng cao năng suất ở tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế. Đảm bảo chuyển dịch hiệu quả lao động theo hướng công nghiệp-dịch vụ, phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH-HĐH và hội nhập. Vì vây, ngoài việc khuyến khích phát triển các ngành nghề sử dụng nhiều lao động, Nhà nước tập trung phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn sử dụng công nghệ cao, chất xám đem lại nguồn thu lớn cho đất nước và tạo đà cho một nền kinh tế tri thức sau này. Đô thị hóa là tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế. Do vậy, một lượng lao động nông nghiệp nông thôn sẽ bị mất đất và số lao động khu vực phi kết cấu và lao động tay nghề thấp có nguy cơ mất việc làm. Do đó, vấn đề chuyển đổi, tìm hướng tạo việc làm bền vững hoặc đào tạo nghề phù hợp với năng lực người lao động nhằm nâng cao chất lượng việc làm cho họ là công việc không thể bỏ qua trong tiến trình phát triển xã hội. Kinh tế phát triển đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực cao, đáp ứng yêu cầu công nghệ ngày càng hiện đại và đổi mới. Vì vậy, công tác đào tạo lao động kỹ thuật (lành nghề, trình độ cao), lao động quản lý, đặc biệt các nghề mới phát sinh trong thời đại công nghệ mới và chuyên gia đạt tiêu chuẩn quốc tế cần được đổi mới, nâng cấp nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của lao động, của doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế trong quá trình phát triển và hội nhập. Bên cạnh đó, công tác giáo dục, đào tạo và chăm sóc sức khỏe cho người dân cũng cần được cải thiện rõ rệt nhằm nâng cao chất lượng dân số không chỉ về thể lực, sức khỏe mà cả về tâm, trí, năng lực và kiến thức, đây là nguồn nhân lực tiềm năng của xã hội. Đặc biệt, khả năng tiếp cận các dịch vụ giáo dục, đào tạo và y tế của người nghèo, dân tộc thiểu số và nhóm người yếu thế bị hạn chế nên các chính sách ưu tiên cho nhóm lao động yếu thế cần được chú trọng, tạo điều kiện cho họ có cơ hội tìm được việc làm bền vững và nâng cao thu nhập cho gia đình. Ngoài các chính sách phát triển cung lao động thì chính sách phát triển cầu lao động cần "bảo đảm cho mọi người bình đẳng về quyền lợi kinh doanh và nghĩa vụ đối với Nhà nước và đối với xã hội", loại bỏ những thế lực và phương thức độc quyền lũng đoạn6, tạo sân chơi cạnh tranh lành mạnh và phát huy năng lực sáng tạo cũng như khả năng phát triển kinh doanh, làm giàu cho đất nước. 6 GS, TS Phạm Xuân Nam (chủ biên), Quản lý sự phát triển trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng, tr 38, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2001. Trao ®æi vÒ ph¬ng ph¸p vµ c«ng cô nghiªn cøu Hoạt động nghiên cứu khoa học -Số 15/Tháng 3-2008 7 Các khu vực kinh tế có lợi thế phát triển và thu hút đầu tư đã và đang được lấp đầy, không lâu nữa khả năng thu hút đầu tư và phát triển vào các khu vực này sẽ bị thu hẹp dần. Thay vào đó là các vùng/khu kinh tế có lợi thế kinh tế kém hơn nên các chính sách thu hút đầu tư và phát triển kinh tế phải tính đến chế độ ưu đãi hợp l ... sự trì trệ về kinh tế, xuống cấp về đạo đức và mất ổn định về chính trị. Cả hai thái cực này các đảng chính trị đã nhiều lần thất bại trong các cuộc tranh cử. - Các nước tư bản có hệ thống an sinh xã hội khổng lồ, nhất là các nước Bắc Âu, đang phải đối mặt, chịu nhiều áp lực về kinh tế, đặc biệt là trong những giai đoạn suy thoái hoặc kinh tế chậm phát triển; ngay cả Mỹ là nước giàu có, khi đối tượng tham gia hệ thống an sinh xã hội rất rộng và có chi phí lớn, một mình chính phủ không đủ khả năng cáng đáng cả gánh nặng tài chính. Từ đó, trong cải cách hệ thống an sinh xã hội, các nước này có xu hướng cắt giảm bớt các khoản trợ cấp (trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp người có thu nhập thấp, trợ cấp trẻ em, trợ cấp ốm đau, tàn tật...), hoặc chuyển bớt trách nhiệm của nhà nước cho thị trường (ví dụ: cho phép khu vực tư nhân kinh doanh bảo hiểm xã hội thiếu sự quản lý của nhà nước). Từ đó, dẫn đến thách thức lớn về kinh tế và chính trị đối với nhà nước trước một bài toán đặt ra là phát triển hệ thống an sinh xã hội sao cho có thể tiếp tục đảm bảo an ninh kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, đảm bảo đời sống người dân so với mức đạt được trước đây. - Các nước tư bản phát triển hệ thống an sinh xã hội theo hướng nhà nước không chỉ là cơ quan quyền lực, thực hiện chức năng cai trị, mà còn là một nhà nước phục vụ trong một xã hội dân chủ, xã hội dân sự với hệ thống cung cấp dịch vụ công và dịch vụ thị trường khá phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế hệ thống cung cấp dịch vụ công và dịch vụ thị trường trong thực hiện chính sách và chương trình an sinh xã hội vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế do đối tượng ngày càng mở rộng và chất lượng dịch vụ ngày càng đòi hỏi cao hơn; người dân vẫn phải chờ đợi lâu trong tiếp cận các dịch vụ và chưa hài lòng về chất lượng dịch vụ. Hạn chế này có thể được khắc phục khi phát triển mạnh mạng lưới cung cấp dịch vụ ở cơ sở và đào tạo đội ngũ cán sự xã hội tương ứng với nó./. Kinh nghiÖm quèc tÕ Hoạt động nghiên cứu khoa học - Số 15/ Tháng 3-2008 56 Hç trî gi¶i quyÕt c©n b»ng mèi quan hÖ gi÷a viÖc lµm c«ng viÖc gia ®×nh vµ sù nghiÖp cña phô n÷ ë NhËt B¶n Emiko Takeishi – Đại học Tổng hợp Hosei I - Giới thiệu Ở Nhật Bản, từ những năm 1990 đã có nhiều chính sách khác nhau được áp dụng để hỗ trợ giải quyết cân bằng vấn đề việc làm và công việc gia đình. Những chính sách này được đề ra do tỷ lệ sinh đang ngày một giảm. Thực tế đòi hỏi doanh nghiệp phải thực hiện các chế độ trong đó có việc bắt buộc áp dụng thai sản. Mặc dù xã hội đòi hỏi các doanh nghiệp áp dụng các chính sách cởi mở để giải quyết cân bằng vấn đề việc làm và công việc gia đình, song vẫn có rất ít biện pháp được doanh nghiệp áp dụng để giải quyết vấn đề mức sinh đang sụt giảm. Nhiều doanh nghiệp còn cho rằng họ không nhất thiết phải cam kết thực hiện các chính sách hỗ trợ giải quyết cân bằng vấn đề việc làm và công việc gia đình. Các chính sách luật pháp mà doanh nghiệp có nghĩa vụ áp dụng là hoàn toàn có ý nghĩa đối với doanh nghiệp. Việc này mang lại lợi ích trực tiếp cho doanh nghiệp bởi nó đảm bảo cho lực lượng lao động của doanh nghiệp an toàn và ổn định, cũng như làm tămg lòng nhiệt thành và cam kết làm việc của người lao động đối với doanh nghiệp. Ngược lại, vậy các chính sách hỗ trợ giải quyết cân bằng vấn đề việc làm và công việc gia đình sẽ có tác động như thế nào tới người lao động?. Bài viết này trước hết xem xét lại các chính sách hỗ trợ giải quyết cân bằng vấn đề việc làm và công việc gia đình, đồng thời, phân tích tình hình thực hiện những chính sách này trong các doanh nghiệp. Sau đó, bình luận về mối quan hệ giữa các chính sách hỗ trợ giải quyết cân bằng vấn đề việc làm và công việc gia đình với sự nghiệp của phụ nữ. Liệu có nhiều phụ nữ hơn tiếp tục làm việc trong các doanh nghiệp khi các chính sách về gia đình cởi mở được áp dụng, và liệu các chính sách này có đóng góp gì trong cải thiện việc làm cho phụ nữ? Cụ thể, kể từ khi áp dụng các biện pháp giải quyết vấn đề việc làm và công việc gia đình vào những năm 1990, tập trung vào giải quyết cân bằng vấn đề việc làm và chăm sóc con cái, vấn đề khi có thai và phải chăm sóc trẻ là nguyên nhân chủ yếu làm cho phụ nữ phải từ bỏ việc làm. Bài viết sẽ phân tích tình hình thực hiện các chính sách và những thay đổi về sự nghiệp của phụ Kinh nghiÖm quèc tÕ Hoạt động nghiên cứu khoa học - Số 15/ Tháng 3-2008 57 nữ bằng cách tập trung trước hết vào việc hỗ trợ giải quyết cân bằng vấn đề việc làm và công việc gia đình. II. Tăng cường các chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm - công việc gia đình ở Nhật Bản 1. Những thay đổi về chính sách: (1) Thay đổi trong Chính sách để Hỗ trợ phụ nữ tiếp tục làm việc Ở Nhật Bản, vấn khoảng cách giới được thể hiện ở nhiều mặt cụ thể như loại hình công việc, sự thăng tiến và mức lương giữa nam và nữ. Nguyên nhân chính của nó là do sự khác biệt về số năm làm việc trung bình của nam và nữ. Nhiều doanh nghiệp Nhật Bản áp dụng các chế độ dựa trên thâm niên công tác mà người lao động làm việc cho doanh nghiệp. Do vậy, với số năm làm việc ít hơn nên phụ nữ thường chậm thăng tiến hơn so với nam giới. Phụ nữ thường làm việc ít năm hơn so với nam giới do những thiên chức của họ đối với gia đình như sinh đẻ, nuôi con. Vai trò giới tính của phụ nữ đặc biệt nổi trội hơn ở Nhật Bản so với nhiều nước công nghiệp hóa khác. Chính vì vậy, chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm - công việc gia đình được coi như”những bánh xe của một cỗ xe” với những biện pháp việc làm cân bằng để giải quyết khoảng cách về giới tại nơi làm việc. Điều khoản luật pháp về việc nghỉ để chăm sóc con được nêu trong Luật về Phúc lợi của Phụ nữ đang làm việc đã có hiệu lực từ năm 1972, và những điều khoản tương tự đã được ban hành tiếp năm 1986 trong Luật Xúc tiến Việc làm Bình đẳng. Những điều luật này yêu cầu các chủ sử dụng lao động cần phải đẩy mạnh việc cho phép lao động nữ chăm sóc con cái bao gồm cả việc cho nghỉ làm việc để chăm sóc con khi cần thiết. Đã có một số công ty tư nhân áp dụng chế độ nghỉ để chăm sóc trẻ trước cả khi Luật Nghỉ Chăm sóc trẻ có hiệu lực năm 1992. Công ty Viễn thông Nippon và Điện thoại Công cộng là công ty tư nhân đầu tiên thực hiện chế độ nghỉ để chăm sóc trẻ kể từ những năm 1960. Sau đó, nhiều công ty nhất là những công ty quy mô lớn đã áp dụng theo. Trước khi Luật Xúc tiến Việc làm Bình đẳng có hiệu lực, đã có nhiều công ty tự nguyện áp dụng các chế độ tương tự và được coi như là những nỗ lực để cải thiện môi trường, tạo điều kiện thuận lợi để duy trì lực lượng lao động nữ và sử dụng hiệu quả năng lực của họ. (2) Thay đổi trong chính sách giải quyết cân bằng giữa việc làm - công việc gia đình cho cả nam và nữ Mức sinh giảm sút ở Nhật Bản đòi hỏi phải tăng cường các chính sách hỗ trợ giải quyết vấn đề việc làm- gia đình. Năm 1989, tổng tỷ suất sinh là 1,57, giảm thấp hơn cả mức sinh được ghi nhận là thấp nhất vào năm 1966 (1,58). Đó là lần thứ hai“cú sốc 1,57”mà xã hội Nhật Bản phải đối đầu với sự suy giảm về mức sinh. Rất nhiều biện pháp đã được đề xuất để giải quyết vấn đề này trong đó chính sách hỗ trợ công Kinh nghiÖm quèc tÕ Hoạt động nghiên cứu khoa học - Số 15/ Tháng 3-2008 58 việc- gia đình được coi là trụ cột sống còn. Vấn đề đặt ra là nếu không hỗ trợ cho phụ nữ giải quyết cân bằng vấn đề việc làm và công việc gia đình thì kết quả sẽ dẫn đến việc họ buộc phải tiếp tục đi làm, phải lựa chọn công việc chứ không phải gia đình, dẫn tới mức sinh sẽ tiếp tục giảm. Năm 1992, Luật về Nghỉ để Chăm sóc Trẻ có hiệu lực đối với cả lao động nam và lao động nữđã thể hiện mối quan tâm đối với tỷ lệ sinh đang giảm nhanh chóng. Luật này không chỉ hỗ trợ phụ nữ tiếp tục làm việc mà còn hỗ trợ cho cả lao động nam, đây được coi như một chế độ hỗ trợ giải quyết cân bằng vấn đề việc làm và công việc gia đình cho bất kỳ người lao động nào cần phải thực hiện những nghĩa vụ gia đình. Kể cả lao động nam cũng như lao động nữ đều có quyền đề nghị cho phép nghỉ để chăm sóc trẻ. Chính vì vậy, chủ sử dụng lao động cũng phải đưa ra chế độ việc làm linh hoạt như làm việc rút ngắn thời gian cho các đối tượng đang cần nuôi dưỡng chăm sóc trẻ. Từ năm 1995 đã có những bước tiến bổ sung vào chế độ này bao gồm điều khoản về đảm bảo thu nhập cho người lao động trong thời gian nghỉ để chăm sóc trẻ. Cũng để đáp lại vấn đề dân số già hóa, chế độ nghỉ để chăm sóc gia đình đã trở thành vấn đề bắt buộc và điều luật được sửa đổi đã có hiệu lực từ năm 1999 với tiêu đề Điều luật về Phúc lợi cho Người lao động phải chăm sóc Trẻ hoặc Thành viên khác trong gia đình kể cả Nghỉ để Chăm sóc Trẻ và Chăm sóc gia đình. Sau khi “Kế hoạch thần kỳ” lần đầu được xây dựng năm 1994, các dịch vụ chăm sóc trẻ ở các địa phương dựa vào cộng đồng đã được cải thiện để duy trì các chính sách cân bằng giữa công việc và gia đình. (3) Áp dụng Pháp luật về Các biện pháp Hỗ trợ Phát triển Thế hệ tiếp nối Ngoài Điều luật về Phúc lợi cho Người lao động phải chăm sóc Trẻ hoặc Thành viên khác trong gia đình kể cả Luật Nghỉ để Chăm sóc trẻ và Chăm sóc gia đình, Pháp luật về Các biện pháp Hỗ trợ Phát triển Thế hệ tiếp nối bắt đầu có hiệu lực từ tháng tư năm 2005. Điều luật này yêu cầu các doanh nghiệp có từ 301 lao động trở lên phải có nghĩa vụ triển khai các kế hoạch hành động để hỗ trợ sự phát triển các thế hệ nối tiếp trong doanh nghiệp của họ. Cũng vậy với các doanh nghiệp có dưới 300 lao động cũng được yêu cầu cố gắng triển khai kế hoạch như trên. Pháp luật này còn bao gồm cả yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp về con số cụ thể phải thực hiện trong kế hoạch hành động của mình. Để thực hiện yêu cầu bắt buộc này, trong thời gian thực hiện Kế hoạch hành động ít nhất phải có 1 lao động nam và trên 70% số lao động nữ có con nhỏ sẽ được nghỉ để chăm sóc trẻ. Bằng cách này, các cam kết tự nguyện của doanh nghiệp đã được theo dõi khuyến khích thực hiện thông qua hệ thống yêu cầu bắt buộc của chính phủ. Kinh nghiÖm quèc tÕ Hoạt động nghiên cứu khoa học - Số 15/ Tháng 3-2008 59 2. Tình hình thực hiện Chính sách Hỗ trợ Công việc- Gia đình và những hiệu quả của chính sách này Hiện nay có khoảng 61,6% số doanh nghiệp (đối với những doanh nghiệp có từ 5 lao động trở lên) đang áp dụng chế độ nghỉ để chăm sóc trẻ và có 55,6% số doanh nghiệp thực hiện chế độ nghỉ để chăm sóc gia đình. Tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng các biện pháp như rút ngắn thời gian làm việc duy trì ở mức 41,6%, trên 70% số doanh nghiệp thực hiện việc hạn chế độ tuổi và chỉ áp dụng đối với trẻ nhỏ dưới 3 tuổi. Chế độ này ít khi được áp dụng đối với trẻ đã trên 3 tuổi. Theo truyền thống Nhật Bản, trong mỗi hộ gia đình người chồng là người làm việc kiếm tiền còn người vợ thường không đi làm và ở nhà chăm sóc gia đình con cái. Điều này dường như vẫn còn tồn tại trong xã hội Nhật Bản cho tới ngày nay, vẫn chỉ có rất ít phụ nữ tiếp tục đi làm sau khi sinh con, mặc dù đã có nhiều đổi mới trong Chính sách Hỗ trợ Công việc - Gia đình. Tỷ lệ lao động sử dụng chế độ nghỉ để chăm sóc trẻ có tăng lên, song vẫn ở mức thấp chỉ với khoảng 10%. Con số này có thể cho thấy một điều là lao động nữ trước đây đã tiếp tục làm việ c mà không được nghỉ để chăm sóc trẻ thì hiện có thể tiếp tục làm việc bằng cách sử dụng những lợi ích của chính sách này, nhưng trên thực tế, do số phụ nữ thất nghiệp trước khi mang thai giảm, nên xu hướng bỏ việc trong thời gian mang thai thực tế đang tăng lên9. Abe (2005b) đã chỉ ra rằng lao động nữ có sử dụng chế độ nghỉ để chăm sóc trẻ phân bố không đồng đều; họ có trình độ học vấn cao và mức lương cao. Tổ chức OECD (năm 2001) cũng công bố tình trạng tương tự như vậy .Do vậy, khó có thể cho rằng các chính sách cởi mở hỗ trợ gia đình như chế độ nghỉ để chăm sóc trẻ đã có nhiều đóng góp vào cải thiện việc làm cho phụ nữ. Hiệu quả của chính sách hỗ trợ việc làm- gia đình tới sự lựa chọn của phụ nữ có tiếp tục làm việc hay không trong thời gian mang thai và chăm sóc trẻ vẫn còn rất hạn chế trong mọi mục tiêu đề ra. Hoàng Anh Thư (Trích dịch từ “Japan Labour Review”, Tập 4- Số 4- Năm 2007) 9 Abe (2005) đã xây dựng biểu giả định dữ liệu bằng cách sử dụng số liệu từ Điều tra Tình trạng Việc làm do Cục Thống kê – Bộ Các vấn đề Nội bộ và Thông tin liên lạc thực hiện. Kết quả ông dự đoán cho thấy hôn nhân, sinh để và nuôi dưỡng trẻ có tác động lớn tới thái độ về việc làm của phụ nữ trẻ, đặc biệt là học sinh tốt nghiệp phổ thông và có thể tác động tới việc giảm tỷ lệ hôn nhân và sinh đẻ. Giíi thiÖu s¸ch míi Hoạt động nghiên cứu khoa học - Số 15/ Tháng 3-2008 60 Giíi thiÖu s¸ch míi 1. Một số văn bản quy phạm pháp luật về người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam.- NXB Lao động - Xã hội, 2007. Cuốn sách là tổng hợp các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến các đối tượng chính sách, người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam. 2. Bối cảnh trong nước, quốc tế và việc nghiên cứu xây dựng chiến lược 2011 - 2020.- Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2008. Việt nam đang chuẩn bị kết thúc Chiến lược 10 năm phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và bước vào kỳ Chiến lược mới 2011 - 2020. Cuốn sách là tổng kết, đánh giá việc thực hiện các mục tiêu của hai thời kỳ Chiến lược đã qua; nhận định, phân tích, dự báo tình hình trong nước và quốc tế trong thời kỳ thực hiện Chiến lược tới. Đây là cơ sở bước đầu để nhận diện rõ những cơ hội, thách thức, từ đó xác định nội dung và những yêu cầu đặt ra trong việc xây dựng Chiến lược phát triển thời kỳ 2011 - 2020. 3. Triển vọng phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - NXB Thống kê, 2007. Nội dung cuốn sách đề cập tới những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước qua 20 năm đổi mới đã được Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt nam tổng kết; tóm tắt kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010; định hướng kế hoạch hoạt động và phát triển một số ngành quan trọng như: Ngoại giao, Kế hoạch, Xây dựng, Tài chính - Ngân hàng, Công nghiệp - Thương mại, Bưu chính - Viễn thông, Văn hóa thông tin, Giáo dục, Y tế, Lao động, Bên cạnh những bài viết của các Lãnh đạo Đảng và chính quyền ở Trung ương giới thiệu về những kết quả đạt được của các Bộ, ngành thời gian qua, trong cuốn sách này còn có thêm các bài viết của các Lãnh đạo các tỉnh, thành phố lớn và một số bài viết của các lãnh đạo doanh nghiệp lớn. 4.Báo cáo phát triển Trung quốc - Tình hình và triển vọng .- Viện Khoa học Xã hội Việt Nam .- NXB Thế giới, 2007. Giới thiệu về nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên nhiều lĩnh vực: Kinh tế - Xã hội, Văn hóa - Giáo dục, Quan hệ ngoại giao đối với các nước trong khu vực và thế giới, Chính sách an ninh quân sự, Chính sách về nông nghiệp nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế. Bên cạnh đó còn có thống kê tình hình kinh tế - xã hội Trung Quốc. H©n h¹nh giíi thiÖu cïng ®éc gi¶ Hoạt động nghiên cứu khoa học - Số 15/ Tháng 3-2008 61 Phụ trách : Viện trưởng: TS. Doãn Mậu Diệp Thành viên : TS. Nguyễn Quang Huề Ths. Lưu Quang Tuấn Ths. Nguyễn Thị Lan CN. Đỗ Lan Anh CN. Võ Xuân Hằng Địa chỉ : Số 2, Đinh Lễ, Hoàn Kiếm, Hà Nội Telephone : 84-4-8240601 Fax : 84-4-8269733 Email : ilssavn@hn.vnn.vn
File đính kèm:
- hoat_dong_nghien_cuu_khoa_hoc_cua_vien_khoa_hoc_lao_dong_va.pdf