Hình tượng người trong điêu khắc của một số đình làng ở huyện Hoài Đức (thành phố Hà Nội)
Thông qua giới thiệu những mảng điêu khắc ở hai ngôi đình làng được
dựng vào cuối thế kỷ XVII và một ngôi đinh thế kỷ XIX (kế thừa những nét điển hình của
đình thế kỷ XVII) thuộc huyện Hoài Đức (thành phố Hà Nội), bài viết chỉ ra cơ sở ra đời,
những nội dung phản ánh và các thủ pháp thể hiện của điêu khắc đình làng ở một vùng đất
thuộc trấn Sơn Tây - Xứ Đoài thời Lê. Con người được lấy là trung tâm để khắc họa sống
động nhiều mặt sinh hoạt của đời sống làng quê đang vươn lên trong không khí đất nước
hòa bình. Điêu khắc cũng phản ánh khát vọng của người nông được sống trong một xã hội
dân chủ, bình đẳng.
Bạn đang xem tài liệu "Hình tượng người trong điêu khắc của một số đình làng ở huyện Hoài Đức (thành phố Hà Nội)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hình tượng người trong điêu khắc của một số đình làng ở huyện Hoài Đức (thành phố Hà Nội)
8 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinionTạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 66 (4/2020) 8-14 HÌNH TƯỢNG NGƯỜI TRONG ĐIÊU KHẮC CỦA MỘT SỐ ĐÌNH LÀNG Ở HUYỆN HOÀI ĐỨC (THÀNH PHỐ HÀ NỘI) PEOPLE IMAGE IN THE SCULPTURES OF SOME VILLAGE COMMUNAL HOUSE IN HOAI DUC DISTRICT (HANOI CITY) Bùi Xuân Đính* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 4/10/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 3/04/2020 Ngày bài báo được duyệt đăng: 29/04/2020 Tóm tắt: Thông qua giới thiệu những mảng điêu khắc ở hai ngôi đình làng được dựng vào cuối thế kỷ XVII và một ngôi đinh thế kỷ XIX (kế thừa những nét điển hình của đình thế kỷ XVII) thuộc huyện Hoài Đức (thành phố Hà Nội), bài viết chỉ ra cơ sở ra đời, những nội dung phản ánh và các thủ pháp thể hiện của điêu khắc đình làng ở một vùng đất thuộc trấn Sơn Tây - Xứ Đoài thời Lê. Con người được lấy là trung tâm để khắc họa sống động nhiều mặt sinh hoạt của đời sống làng quê đang vươn lên trong không khí đất nước hòa bình. Điêu khắc cũng phản ánh khát vọng của người nông được sống trong một xã hội dân chủ, bình đẳng. Từ khóa: Hình tượng người, Điêu khắc, Đình làng, Hoài Đức. Abstract: Through the introduction of the sculptures of two village communal houses built in the late 17th century and one built in the 19th century (which inherits the typical features of the 17th century communal house) in Hoai Duc district (Hanoi city), the article shows the basis of birth, the refl ected content and the art technique of the village sculptures in an area of Son Tay town - Xu Doai in the Le Dynasty. People are put into center to vividly portray many asprects of a rural village life which is rising up in the atmosphere of a peaceful country. Sculptures also refl ect the aspiration of farmers to live in a democratic and equal society. Keywords: People image, Sculpture, Communal house, Hoai Duc. * Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam 1. Mở đầu Ngôi đình trong các làng Việt là trung tâm sinh hoạt chính trị - xã hội của dân làng, nơi thờ thành hoàng và tổ chức các hoạt động văn hóa với đỉnh cao là hội làng. Đình được coi là bộ mặt của mỗi làng; nên được dân làng chăm chút kiến thiết trên cả hai mặt kiến trúc và điêu khắc. Điêu khắc đình làng thể hiện ở phần mái, các vì kèo, mái và một số bộ phận khác trong toàn bộ ngôi đình, trong đó tập trung nhất là ở cửa võng và cả các vì kèo, thông 9Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion qua các bức chạm. Đề tài mà các bức chạm phản ánh là hình ảnh các loài chim - thú, người và cỏ cây hoa lá với nhiều nội dung khác nhau, phụ thuộc vào từng ngôi đình ở các địa phương, vùng miền ở các thời kỳ, từng hiệp thợ, thậm chí vào hoa tay của từng người thợ tạo ra các bức chạm. Với phong cách phóng khoáng, chủ đề tự do, không bị áp đặt, gò bó như điêu khắc trong các công trình kiến trúc tôn giáo hay kiến trúc cung đình, các mảng điêu khắc đình làng mà những người thợ mộc - các nghệ nhân dân gian tạo ra phản ánh tư tưởng của người dân quê sống trong lòng xã hội phong kiến quan liêu. Nghiên cứu giá trị của các mảng điêu khắc ở các ngôi đình từng vùng không chỉ làm rõ lịch sử phát triển, đặc điểm của nền nghệ thuật điêu khắc nói chung, mà còn tạo cơ sở khoa học cho việc bảo tồn, phục dựng các mảng điêu khắc đó, khi tiến hành trùng tu các ngôi đình. Bài viết này giới thiệu một số tư liệu về mảng điêu khắc có chủ đề con người của một số đình làng ở huyện Hoài Đức (thành phố Hà Nội), vùng đất gồm một số làng - xã của hai huyện Đan Phượng và Từ Liêm thuộc phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây, đất Xứ Đoài thời Lê†. 2. Mảng điêu khắc về đề tài người qua một số đình làng tiêu biểu ở huyện Hoài Đức Đến nay, qua bao thăng trầm của lịch sử, huyện Hoài Đức vẫn còn giữ được 45 ngôi đình, trong đó có 24 đình được xếp hạng cấp quốc gia, 9 đình được xếp hạng cấp tỉnh và 12 đình chưa được xếp hạng. Trong số các ngôi đình đã được xếp hạng, qua các văn bản Hán Nôm và † Địa danh hành chính “Huyện Hoài Đức” chính thức được thành lập tháng 8 - 1945, sau thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. điêu khắc, có thể xác định được những ngôi đình xuất hiện sớm nhất (cuối thế kỷ XVII) là đình Tiền Lệ (xã Tiền Yên, năm Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Trị, 1676), đình An Trai (xã Vân Canh, khoảng niên hiệu Vĩnh Trị, 1676 - 1680), đình Giang Xá (thị trấn Trạm Trôi, cuối thế kỷ XVII)... Loạt đình được xây dựng tiếp theo (đầu thế kỷ XVIII) là đình Kim Hoàng (xã Vân Canh), đình Lại Yên (xã Lại Yên)... Mỗi đình có dáng nét riêng về kiến trúc và điêu khắc. Về điêu khắc, mảng chạm khắc có nội dung đa dạng về người, động - thực vật, trong đó, các cảnh về người có vị trí nổi bật. Bài viết này giới thiệu một số nét độc đáo của các mảng điêu khắc có đề tài hình tượng con người tại ba ngôi đình làng tiêu biểu trong huyện. 2.1. Đình Giang Xá Làng Giang Xá (thuộc thị trấn Trạm Trôi) hiện còn ngôi đình tọa lạc cách Tỉnh lộ 422 từ thị trấn Trạm Trôi ra đường Thăng Long khoảng 200 mét. Đình nhìn hướng Đông, kết cấu chữ “Đinh”. Tòa đại đình gồm 3 gian, 2 chái, 2 dĩ, nối với hậu cung 2 gian. Hiện không còn văn bản Hán Nôm nào cho biết thời điểm dựng đình, nhưng qua kiến trúc vì kèo cùng các mảng điêu khắc trên các bức cốn, các xà con... cho thấy, đình được dựng vào cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, Điểm độc đáo đầu tiên của điêu khắc đình là bố trí các bức chạm tại gian giữa tòa đại đình, tập trung ở các bức cốn của vì nách. Ở hai cốn phía ngoài, các nghệ nhân chạm khắc mặt trong nhìn xuống lòng giếng, còn ở hai cốn bên trong lại chạm 10 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion mặt ngoài nhìn ra hai bên; giúp cho khách tham quan có thể dễ dàng quan sát, ngắm nghía các bức cốn một cách tổng thể, liên hoàn. Ngoài chủ đề “Rồng” với các tư thế khác nhau ở phần lớn các bức cốn, ở bức cốn phía bên trái, xuất hiện hình ảnh con người, trong tư thế đứng, khuôn mặt phúc hậu, tướng mạo khôi ngô, trong trang phục truyền thống; tay phải đưa lên cao trong tư thế ném một vật gì đó, còn tay trái chụm lại đặt phía trước ngực. Ở bức cốn bên phải, các nghệ nhân tác tạo nên một hoạt cảnh vui nhộn nhờ sự kết hợp giữa hình ảnh rồng và người; trong đó, người là trung tâm của hoạt cảnh. Đó là hình ảnh hai chú bé cưỡi lên đầu rồng ở hàng dưới, hai tay dang rộng và vươn lên cao. Ở bức cốn phía đối diện cũng được trang trí tỉ mỉ và tinh tế; có sự kết hợp giữa hình ảnh các con rồng và tiên nữ dáng mềm mại, thướt tha trong điệu múa cổ. Hình chạm không cầu kỳ nhưng sống động, tự nhiên, đầy sức sống. Ngoài tượng rồng kết hợp với người, tòa đại đình còn được trang trí bởi các tượng thú và cũng gắn với người. Ở vị trí chính giữa của xà đùi, cạnh cột trốn của gian bên phải có tượng voi đứng trên một ván kê dày. Voi ở tư thế đang leo, lưng gù, nên hai chân trước cao hơn dáng bước đi, hai chân sau thấp; dáng voi to lớn uy phong; vòi dài chạm tới phần chân trước, tai nhọn nhô cao. Trên lưng voi có cùi cao. Từ phần trước của cùi, tiếp giữa cổ và đầu voi là hình ảnh một người trong tư thế ngồi, gấp quặp chân về phía trước, hai tay để lên trên gối; dáng người tinh nhanh, mắt sáng, tóc dài kết túm bay ra sau, mặt nhìn hướng sang bên. Các đường nét trên trang phục được chạm nổi lên và tô sơn, giúp người xem có thể hình dung đây là hình ảnh một thiếu nữ. Tại gian thứ ba bên trái, trên các xà đùi có hình ảnh võ sĩ cưỡi ngựa đối diện nhau. Xà đùi phía trong là hình ảnh võ sĩ như trong tư thế đang nghênh chiến: đầu chít khăn, tay phải giơ cao về phía sau, tay trái chụm lại đưa lên trước mặt kiểu khiêu khích, thách thức đối phương; còn ngựa thì được chạm khắc khá mập, đầu hơi ngoảnh, miệng hơi hé cười, trông rất tinh nghịch. Đối diện với hình ảnh đó, ở xà đùi phía ngoài là hình ảnh một võ sĩ trong trang phục màu vàng, đầu cũng chít khăn, lưng thắt đai. Nếu võ sĩ trên xà đùi đã nêu ở trên trong tư thế nghênh chiến, khiêu khích, thì võ sĩ trên xà đùi này hoàn toàn quay đối diện với võ sĩ ở bên kia: ngồi oai nghiêm trên lưng ngựa, song dáng vẻ rất bình thản, điềm đạm, tay phải giơ cao, tay trái cầm đao, nhưng không có vẻ hung tợn. Đây chính là sự tài tình của các nghệ nhân, tạo ra sự đối lập, tương phản giữa hình ảnh hai võ sĩ. Ngoài những hình ảnh nổi bật trên, còn có nhiều mảng chạm hình ảnh người, cảnh rồng và con người, như hình chú bé cưỡi lên đầu rồng, hình các con rồng và tiên nữ mềm mại, thướt tha trong điệu múa cổ. 2.2. Đình Kim Hoàng Làng Kim Hoàng (xã Vân Canh) hiện còn ngôi đình được hoàn thành Hàng chữ trên cột cái đình cho biết, đình được cất nóc vào ngày mồng 3 tháng Hai năm Chính Hòa thứ 22 (12 - 3 - 1701). Đình nhìn hướng Nam, kết cấu chữ “Đinh” (chuôi vồ). Đại đình gồm 5 gian, 2 chái. Giá trị nhất của đình Kim Hoàng không chỉ thể hiện ở mặt kiến trúc: là sự chuyển tiếp giữa phong cách kiến trúc của thế kỷ XVII và XVIII mà còn ở phần điêu khắc. Trên các kẻ, bẩy, cốn đều có các bức chạm. Ở các gian bên trái (theo hướng đình) là cả một “thế giới” của các hoạt cảnh dân gian, 11Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion phản ánh sinh động cuộc sống của làng xã, tâm tư nguyện vọng của người nông dân. Cụ thể: - Các cảnh phản ánh các hoạt động thể thao, như hai người đánh vật, người bắn cung, người đâm đinh ba. Bên các cảnh sôi động của hoạt động thể thao là cảnh tĩnh tại với người đứng thổi sáo. - Tập trung nhất là cảnh nhộn nhịp của hội lễ làng quê, trong đó có hình người dự hội là cả những phụ nữ mặc yếm xuềnh xoàng, có cô đứng tốc cả váy bên cạnh người đàn ông ăn mặc lịch sự. Đặc biệt là các bức chạm cảnh nam cưỡi hổ, nữ cưỡi voi, hơn nữa là cảnh cô gái cưỡi rồng. Các nhà nghiên cứu nghệ thuật cho rằng, bức chạm phụ nữ cưỡi rồng chỉ có ở một số ít đình trên vùng châu thổ Bắc Bộ như đình Tây Đằng (huyện Ba Vì), đình Phù Lưu (thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). 2.3. Đình Mậu Hòa Đình làng Mậu Hòa (xã Minh Khai) tọa lạc sát đê sông Đáy phía trong đồng. Đình nhìn hướng Bắc, có cấu trúc chữ “Đinh”, gồm đại đình và hậu cung. Đại đình gồm ba gian ba chái. Tuy mới được dựng lại vào năm Kỷ Hợi niên hiệu Thành Thái (năm 1899) và sửa lại vào năm Ất Sửu, niên hiệu Khải Định - 1925 (theo văn bia còn lưu), song đình Mậu Hòa mang dáng dấp kiến trúc và phong cách nghệ thuật cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn (thế kỉ XVIII - XIX). Chắc chắn, khi dựng lại đình, những người thợ ‡ Chung Tử Kỳ, họ tên thật là Chung Huy, là một danh sĩ ẩn dật, làm nghề tiều phu (đốn củi) để báo hiếu cha mẹ tuổi già. Bá Nha hay Sở Bá Nha, họ Du tên Thụy, người nước Sở nhưng làm quan Thượng Đại phu nước Tấn đời Xuân Thu Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc (từ năm 771 đến năm 476 trước Công nguyên); là một khách phong lưu văn mặc, có ngón đàn thất huyền cầm nổi tiếng đương thời. Bá Nha kết bạn với Chung Tử Kỳ, trở thành đôi bạn âm nhạctri kỷ. Dân gian tổng kết : “Bá Nha chơi đàn tuyệt hay, Chung Tử Kỳ nghe đàn càng giỏi”, chỉ có Tử Kỳ mới hiểu được tiếng đàn của Bá Nha. đã cố gắng giữ lại những bức chạm trên đình cũ, hoặc sáng tác lại theo bản cũ. Đây là bài học kinh nghiệm của việc trùng tu các di tích hiện nay. Về chủ đề của các mảng chạm khắc trong đình, ngoài hình ảnh rồng và hoa lá tại các mặt kẻ và mặt bẩy, các hình chạm được tập trung tại các con rường giữa cột cái và cột quân trước cửa hai gian bên lắp sát vào nhau tạo thành các con mê. Những con mê này có thiết diện khá rộng để trang trí. Mặt trước của con mê nhìn vào lòng đình chạm kênh bong theo đề tài tứ linh, mặt sau chạm các hoạt cảnh của người gắn với các điển tích. Bức cốn trái chạm cảnh hai cụ già ngồi trên sập đê thõng một chân xuống, ở giữa có bàn cờ, cụ bên trong đang chơi đàn nguyệt, có cụ ngoài nâng chén trà, xung quanh có những người chầu chạm nhỏ hơn, phía dưới là tiểu đồng đang đun nước, phía trong là một tiểu đồng đang bê đĩa phật thủ, phía ngoài là một tiểu đồng đang giơ chiếc quạt lông, phía trên có một con rồng đang đội cuốn thư. Bức cuốn thư có khắc bài thơ về Chung Tử Kì và Bá Sa‡: Trời cao mới có khúc nhạc này Trần gian đâu tá mấy kẻ hay Cuộc đời thua được ai mà biết Đổi cà giang sơn, cuộc tỉnh say. Bức cốn bên phải chạm khắc cánh “Đăng đài bái tướng”. Phía trên có bức cuốn thư có dòng chữ “Tướng tài quả nhị, 12 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Quốc sĩ vô song” (Tướng tài chi có một, , quốc sĩ không có hai). Hình ảnh được chạm là một tướng phía sau hương án như một ẩn sĩ, phía trước hương án là một đoàn quan quân đang vác biển, dắt ngựa đến bái yết, phía dưới vị tướng có cảnh săn hươu. Người trong hai bức chạm nhân vật được rải ra, không che khuất nhau, có người cao to, có người thấp nhỏ theo vị trí xã hội. Các cảnh được chạm phối hợp với các góc độ khác nhau: nhìn ngang, nhìn trên xuống, nhìn chếch..., tạo cho hình sinh động và các chi tiết hiện lên rõ ràng (Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện Hoài Đức, 2012, trang...). 3. Một vài nhận xét Cuối thế kỷ XVII, sau khi cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn, Đàng Trong - Đàng Ngoài tạm thời lắng xuống, các làng xã ở Bắc Bộ có điều kiện để phát triển, mở ra một trang mới cho việc xây dựng, tôn tạo, nâng cấp các công trình thờ cúng, trong đó có đình làng - yếu tố vật chất lớn nhất trong văn hóa làng. Đình không chỉ được xây dựng đồng loạt ở nhiều làng, mà còn được khoác một diện mạo mới, cả về quy mô kiến trúc, chức năng thờ cúng, đặc biệt là về nghệ thuật điêu khắc. Đây chính là giai đoạn phát triển đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc đình làng Việt, thể hiện qua nhiều ngôi đình nổi tiếng ở tất cả bốn trấn (Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây và Sơn Nam) bao quanh Thăng Long. Ba ngôi đình được giới thiệu trong bài viết này tiêu biểu cho 14 ngôi đình được dựng vào cuối thế kỷ XVII (gồm 9 đình hiện tồn những dáng nét cơ bản và 5 đình không còn đã được tu bổ nhiều lần nên không còn giữ được đường nét cũ) của huyện Hoài Đức ngày nay, vào thời Lê thuộc trấn Sơn Tây - Xứ Đoài, vùng đất được dân gian đúc kết là tiêu biểu cho hệ thống đình (Đình Đoài). Ba ngôi đình được giới thiệu trong bài viết này mang những đặc trưng chung của đình làng vùng Bắc Bộ cuối thế kỷ XVII về phương diện điêu khắc mà nét nổi bật là hình ảnh con người nổi lên là trung tâm, một điểm nhấn độc đáo. Khác với trong điêu khắc đình làng thời Mạc, hình ảnh con người trong kiến trúc đình làng cuối thế kỷ XVII không những phong phú về chủ đề, ý tưởng mà còn đa dạng về thủ pháp nghệ thuật diễn đạt. Về nội dung thể hiện, có thể chia hình ảnh con người trong các bức chạm thành hai nhóm chính: - Con người mang yếu tố thần thoại, ước lệ, thể hiện ở những mảng chạm khắc theo các chủ đề nam cưỡi hổ, nữ cưỡi voi, cô gái cưỡi rồng (đình Kim Hoàng), hai chú bé cưỡi đầu rồng, các con rồng và tiên nữ cùng múa, các võ sĩ ngồi trên lưng voi đấu kiếm (đình Giang Xá). Đặc biệt ở đình Mậu Hòa có cảnh các cụ già chơi cờ cùng những người hầu xung quanh, vừa mang tính ước lệ, theo điển tích, là rất đời thường. - Con người gắn với đời sống văn hóa - xã hội thực tại của làng quê đương thời, thể hiện ở các cảnh người đấu vật, người bắn cung, người đâm đinh ba, người đứng thổi sáo, người đi dự hội làng (đình Kim Hoàng), cảnh các cụ già đánh cờ, chơi đàn nguyệt, uống trà (đình Mậu Hòa). Những nội dung trên đây của các bức chạm tại ba ngôi đình phản ánh cuộc sống thực tế của làng quê Việt nửa sau thế kỷ XVII. Đây là thời điểm khởi đầu cho giai đoạn đi lên và thịnh vượng của Nhà nước phong kiến nước Đại Việt già nửa thế kỷ (đến cuối những năm 20 của thế kỷ XVIII), được sử cũ ghi nhận là “Kỷ cương thì chấn hưng, thưởng phạt thì nghiêm túc mà công minh, phần nhiều các công khanh đều xứng đáng với chức vụ, trăm quan kinh giữ phép tắc chế độ, nhân dân 13Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion được yên nghiệp làm ăn” (Ngô Cao Lãng, 1975, trang 62), tạo điều kiện để xây dựng đình, chùa, đền miếu. Đời sống vật chất ổn định đem lại những thay đổi lớn về tinh thần. Các cảnh đi săn, đánh vật, dự hội, chơi cờ... chính là sự phản ánh cuộc sống yên bình và những đổi thay của người dân quê giai đoạn này. Bên cạnh những rất đời thực, bình dị của người nông dân, còn có các cảnh “cao sang”, tao nhã được coi là của tầng lớp “thượng lưu”, như các bậc kỳ lão chơi cờ, đoàn quan quân, tướng đi săn... Đấy là khát vọng của người dân quê không chỉ có một cuộc sống thanh bình, dung dị, mà còn hướng tới những điều tốt lành hơn. Trong các bức chạm của ba ngôi đình có sự hiện diện và kết hợp của hình ảnh người, thú, hoa lá, cỏ cây, song con người vẫn nổi bật, là trung tâm trên mặt bằng của mỗi bức. Người thợ mộc - nghệ nhân dân gian muốn gửi với người đời sau từ các bức chạm này thông điệp: con người sống trong môi trường tự nhiên, dù luôn có khát vọng chiếm lĩnh thiên nhiên (cảnh người cưỡi hổ, cưỡi voi), song vẫn phải hòa đồng với thiên nhiên, môi trường (các bức chạm thú, người, cỏ cây hoa lá hòa vào trong một tổng thể). Sự hồi phục và phát triển của làng quê Việt sau những cuộc tranh chấp của các tập đoàn phong kiến qua gần 150 năm (1533 - 1672)§ đã củng cố thêm những quan điểm, tư tưởng của người dân quê về một xã hội bình đẳng hình thành từ rất sớm, nhưng đã bị giai cấp phong kiến phủ đè lên, đặc biệt nặng nề từ thời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497). Chính vì thế, khi ngọn lửa nội chiến vừa tắt, thôn xóm bình yên trở lại, người dân quê đã mong § Nội chiến Nam Bắc triều (Lê - Mạc phân tranh, 1533 - 1593); Trịnh Nguyễn phân tranh hay Đàng Trong - Đàng Ngoài, 1627 - 1672). ước được trả lại những giá trị về xã hội dân chủ, bình đẳng thuở xưa đã bị mất, và người thợ mộc - những nghệ nhân dân gian đã thay mặt người dân quê thể hiện ước vọng đó qua các bức chạm. Bức chạm những phụ nữ mặc yếm xuềnh xoàng, có cô đứng tốc cả váy bên cạnh người đàn ông ăn mặc lịch sự ở đình Kim Hoàng phản ánh tư tưởng nam nữ bình quyền, không chấp nhận thái độ coi thường phụ nữ, coi thường người lao động của tư tưởng, đạo đức phong kiến mà việc ngăn cấm phụ nữ, hạn chế người nghèo vào đình là tục lệ ngặt nghèo. Đặc biệt, các bức chạm cảnh cô gái cưỡi rồng thể hiện sự phủ nhận của quyền lực vua quan, của chế độ quân chủ. Nét đặc sắc của chạm khắc về đề tài người trong đình làng cuối thế kỷ XVII ở huyện Hoài Đức còn ở thủ pháp thể hiện. Hình tượng người trong các bức chạm vừa mang tính thiêng, vừa mang tính trần tục. Tính thiêng thể hiện tính ước lệ, qua hình ảnh các nhân vật thần tiên, tức các tiên nữ, nhạc công thiên thần, “thiên thần bé nhỏ”, vừa ẩn vừa hiện, điển hình là bức chạm tiên nữ trong tư thế ngồi, gấp quặp chân về phía trước ở phần trước của cùi voi, giữa cổ và đầu voi trong đình Giang Xá, dáng người mềm mại, ngực nở, bụng thon, cánh tay dài với những ngón tay búp măng. Tính trần tục thể hiện ở những con người của đời thường, những bức chạm mô tả người đàn ông trong các cảnh đấu vật, đi săn có đặc điểm đầu tròn, to, cạo trọc, thân hình vạm vỡ, ngực nở, đôi khi các cơ bắp được phóng đại lên hơn mức bình thường; còn phụ nữ thì thường có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, để tóc dài, xoã hoặc búi thành búi lớn trên đỉnh. Có thể nói, người thợ mộc đã kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa 14 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion cách tả thực và cách điệu. Ngay trong một hình chạm tiên nữ, cũng có thể thấy được sự kết hợp này. 4. Kết luận Những ngôi đình làng thế kỷ XVII của huyện Hoài Đức được giới thiệu trong bài viết nằm trong khung cảnh chung của đình làng Bắc Bộ cùng thời, được dựng khi đất nước không còn nội chiến, làng xã phát triển và hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, lệ tục. Lấy con người là trung tâm, điêu khắc đình làng một mặt thể hiện trung thực, sống động nhiều mặt sinh hoạt của đời sống làng quê đang vươn lên trong không khí đất nước hòa bình; mặt khác cũng phản ánh sự phản kháng của người nông dân đối với những bất công của sự phân chia đẳng cấp vua - quan - dân, phân biệt nam nữ của chế độ quân chủ, vươn tới khát vọng được sống trong một xã hội dân chủ, bình đẳng. Bên cạnh đó có các bức chạm về hình tượng con người thể hiện ước mơ chinh phục, chế ngự thiên nhiên (người cưỡi hổ, người cưỡi rồng), những bức chạm có cả các yếu tố huyền thoại, thần tiên. Dù phản ánh hiện thực cuộc sống hay phản ánh ước mơ, khát vọng của người nông dân đương thời, chỉ bằng vài nét đục đường chạm sơ phác những người thợ chạm khắc gỗ thế kỷ XVII đã vượt ra khỏi sự gò bó về quan niệm nghệ thuật, thẩm mỹ, để tạo ra những tác phẩm điêu khắc dân giã nhưng có hồn, sống động, cởi mở. Có thể nói, đời sống phong phú, của người dân quê làm nền cho nghệ thuật điêu khắc, ngược lại, nghệ thuật điêu khắc(cùng với kiến trúc) lại là tấm gương phản ánh, tôn thêm sự sống động cuộc sống của người dân. Đó là giá trị nổi bật của điêu khắ c đình làng thế kỷ XVII - đỉnh cao cua điêu khắc đình làng Việt Nam./. Tài liệu tham khảo: [1]. Trần Lâm Biền (1993), Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình truyền thống Việt, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. [2]. Hồ sơ di tích đình Giang Xá (1991), bản đánh máy, lưu tại đình Giang Xá, thị trấn Trạm Trôi. [3]. Hồ sơ di tích đình Kim Hoàng (1991), bản đánh máy, lưu tại đình Kim Hoàng, xã Vân Canh. [4]. Hồ sơ di tích đình Mậu Hòa (1991), bản đánh máy, lưu tại đình Mậu Hòa, xã Minh Khai. [5]. Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện Hoài Đức (2012), Hoài Đức, một vùng văn hóa dân gian, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội. [6]. Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện Hoài Đức (2018), Địa chí Hoài Đức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. [7]. Ngô Cao Lãng, Lịch triều tạp kỷ, bản dịch, Nxb. Khao học xã hội, Hà Nội, 1975, tập II. [8]. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng, Mỹ thuật của người Việt, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội, 1989. [9]. Hà Văn Tấn (Chủ biên, 1994), Đình Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. [10].Trần Đình Tuấn (2012), “Hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình làng”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 12 (342). Địa chỉ tác giả: Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam Email: buixuandinh.dth@gmail.com
File đính kèm:
- hinh_tuong_nguoi_trong_dieu_khac_cua_mot_so_dinh_lang_o_huye.pdf