Hiểu biết hoạt động sản xuất kinh doanh khi kiểm toán doanh nghiệp quân đội

Để thực hiện tốt công việc kiểm toán, kiểm toán viên phải có hiểu biết nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề trong nền kinh tế để đưa ra được những ý kiến, những nhận xét đánh giá phù hợp với thực trạng hoạt động của doanh nghiệp, nêu rõ những tồn tại, thiếu sót, những điểm yếu cần phải khắc phục trong nội tại đơn vị và những bất cập về cơ chế, chế độ của

cơ quan quản lý cần phải sửa đổi cho phù hợp. Xuất phát từ tính cấp thiết và tầm quan trọng của việc cần

phải hiểu biết về hoạt động kinh doanh của đối tượng kiểm toán, bài viết tập trung nghiên cứu việc nắm

chắc về hoạt động kinh doanh của đối tượng kiểm toán trong suốt các giai đoạn của cuộc kiểm toán từ đó

đưa ra một số nội dung cần phải nắm rõ khi thực hiện kiểm toán mảng doanh nghiệp Quân đội.

pdf 8 trang kimcuc 4620
Bạn đang xem tài liệu "Hiểu biết hoạt động sản xuất kinh doanh khi kiểm toán doanh nghiệp quân đội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiểu biết hoạt động sản xuất kinh doanh khi kiểm toán doanh nghiệp quân đội

Hiểu biết hoạt động sản xuất kinh doanh khi kiểm toán doanh nghiệp quân đội
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 53Số 119 - tháng 9/2017
HIEÅU BIEÁT HOAÏT ÑOÄNG sAÛN XUAÁT
KINH DOANH KHI KIEÅM TOAÙN
DOANH NGHIEÄp QUAÂN ÑOÄI
CN. PHạM HOÀNG THáI*
*Kiểm toán nhà nước Chuyên ngành Ia
Để thực hiện tốt công việc kiểm toán, kiểm toán viên phải có hiểu biết nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề trong nền kinh tế để đưa ra được những ý kiến, những nhận xét đánh giá phù hợp với thực trạng hoạt động của doanh nghiệp, nêu rõ những tồn tại, thiếu sót, những điểm yếu cần phải khắc phục trong nội tại đơn vị và những bất cập về cơ chế, chế độ của 
cơ quan quản lý cần phải sửa đổi cho phù hợp. Xuất phát từ tính cấp thiết và tầm quan trọng của việc cần 
phải hiểu biết về hoạt động kinh doanh của đối tượng kiểm toán, bài viết tập trung nghiên cứu việc nắm 
chắc về hoạt động kinh doanh của đối tượng kiểm toán trong suốt các giai đoạn của cuộc kiểm toán từ đó 
đưa ra một số nội dung cần phải nắm rõ khi thực hiện kiểm toán mảng doanh nghiệp Quân đội. 
Từ khóa: Hiểu biết kinh doanh, doanh nghiệp, quân đội
Understanding production and business operations when auditing Army’s Enterprises
In order to well perform the auditing work, the auditors must have knowledge in many fields and branches 
of the economy in order to produce opinions and recommendation suitable to the actual state of enterprises’ 
operations, highlight the shortcomings, weaknesses that need to be overcome within the enterprise and 
the inadequacies of mechanisms and policies of management agencies need to be amended accordingly. 
Starting from the urgency and importance of understanding the subject matter of the audited entity, the 
paper focuses on understanding the audited entity’s performance throughout the accounting periods. This 
step of the audit provides some background on the audit of the Army’s business sector.
keywords: Business understanding, business, military
Hiểu biết về hoạt động sản xuất kinh doanh 
trong lĩnh vực kiểm toán được xem là những am 
hiểu, những kinh nghiệm, những kiến thức cần 
thiết về lĩnh vực kinh doanh của đơn vị được kiểm 
toán nhằm kiểm tra, đánh giá các nghiệp vụ kinh 
tế phát sinh gắn với thực tế hoạt động của đơn 
vị. Những hiểu biết đó là cơ sở quan trọng đưa 
ra những xét đoán chuyên môn, những kết luận, 
kiến nghị kiểm toán phù hợp với loại hình, ngành 
nghề của đơn vị được kiểm toán. Hiểu biết hoạt 
động kinh doanh của doanh nghiệp Quân đội bao 
hàm sự hiểu biết về hoạt động sản xuất của doanh 
nghiệp nói chung và sự am hiểu về mô hình tổ chức 
và cơ chế điều hành mang tính chất đặc thù riêng.
1. Hiểu biết về hoạt động sản xuất kinh doanh
Hiểu biết về hoạt động sản xuất kinh doanh 
trong kiểm toán là rất quan trọng trong hoạt động 
kiểm toán. Hiểu biết hoạt động kinh doanh được 
đề cập trong một số chuẩn mực của Kiểm toán 
nhà nước, nó mang tính định hướng và là khung 
pháp lý giúp thực hiện kiểm toán. Nội dung về 
hiểu biết hoạt động kinh doanh được thể hiện tại 
đoạn 17 của chuẩn mực Kiểm toán nhà nước số 
1315 - Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng 
yếu thông qua hiểu biết về đơn vị được kiểm toán 
và môi trường hoạt động của đơn vị trong kiểm 
toán tài chính:
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN54 Số 119 - tháng 9/2017
Kiểm toán viên nhà nước phải tìm hiểu các 
thông tin sau:
(i) Lĩnh vực, ngành nghề quản lý hoạt động; các 
quy định pháp lý và các yếu tố khác có liên quan 
như: Lĩnh vực quản lý, hoạt động của đơn vị; chế 
độ kế toán liên quan
(ii) Đặc điểm của đơn vị: Chức năng, nhiệm vụ; 
cơ cấu tổ chức bộ máy, sự phân cấp và mối quan hệ 
giữa các đơn vị trực thuộc trong hệ thống tổ chức 
bộ máy; quy trình hoạt động và các thay đổi đáng 
kể so với các kỳ trước trong hoạt động của đơn vị
(iii) Chính sách kế toán mà đơn vị đang áp dụng 
và lý do thay đổi (nếu có), như: Các phương pháp 
mà đơn vị sử dụng để hạch toán các nghiệp vụ kinh 
tế; những thay đổi trong chính sách kế toán
(iv) Mục tiêu, nhiệm vụ thực hiện và cách thức 
đo lường, đánh giá kết quả hoạt động của đơn vị: 
Mục tiêu và nhiệm vụ về phát triển mở rộng ngành 
nghề, quy mô hoạt động
Bên cạnh đó, Sự hiểu biết về hoạt động kinh 
doanh còn được đề cập tại mục (iv), đoạn 37, Chuẩn 
mực kiểm toán nhà nước số 200 - Các nguyên tắc 
cơ bản của kiểm toán tài chính: Các năng lực và 
kỹ năng cần thiết để thực hiện cuộc kiểm toán bao 
gồm: “Hiểu biết về các ngành có liên quan thuộc 
lĩnh vực được kiểm toán”. Nghĩa là để thực hiện 
kiểm toán BCTC, Kiểm toán viên phải có kiến thức 
đầy đủ về lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của 
đơn vị được kiểm toán. 
Việc nắm rõ và hiểu biết về hoạt động kinh 
doanh của đơn vị giúp kiểm toán đánh giá, phân 
tích được các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong thực 
tiễn hoạt động của đơn vị, đem lại cho kiểm toán 
viên cái nhìn tổng quát, rõ ràng về đối tượng kiểm 
toán, về nghiệp vụ tài chính phản ánh hoạt động 
kinh doanh, môi trường kinh doanh, quy định nội 
bộ của đơn vị, của ngành mà doanh nghiệp đang áp 
dụng, xác định được trọng yếu và rủi ro kiểm toán 
Sự hiểu biết về hoạt động kinh doanh của đơn vị 
kiểm toán được sử dụng trong tất cả các giai đoạn 
của cuộc kiểm toán cụ thể:
- Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán (lập Kế hoạch 
kiểm toán): 
Hiểu biết về hoạt động kinh doanh sẽ giúp kiểm 
toán viên thu thập được các thông tin quan trọng 
khi khảo sát, lập kế hoạch kiểm toán, đánh giá trọng 
yếu và rủi ro kiểm toán đối với đơn vị được kiểm 
toán, bên cạnh đó việc hiểu biết về hoạt động kinh 
doanh còn giúp kiểm toán viên thu thập các thông 
tin cần thiết từ các nguồn bên ngoài thông qua báo 
chí, mạng internet, ấn phẩm chuyên ngành, thảo 
luận với chuyên gia trong lĩnh vực sắp kiểm toán 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 55Số 119 - tháng 9/2017
để hiểu sâu hơn về đơn vị được kiểm toán, về môi 
trường hoạt động kinh doanh của đơn vị, qua đó 
giúp kiểm toán viên có những kiến thức sâu rộng 
về lĩnh vực của đơn vị được kiểm toán, xây dựng kế 
hoạch và chương trình kiểm toán, lựa chọn thủ tục 
kiểm toán, phương pháp kiểm toán nhằm đạt được 
mục tiêu kiểm toán với thời gian ngắn nhất.
- Giai đoạn thực hiện kiểm toán: Sự hiểu biết 
về hoạt động kinh doanh sẽ giúp kiểm toán viên 
đưa ra được các đánh giá và nhận định phù hợp 
với điều kiện, môi trường kinh doanh của đơn vị; 
nhận định được rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát; 
phân tích rủi ro kinh doanh, đánh giá phương án 
giải quyết rủi ro trong kinh doanh của đơn vị được 
kiểm toán; Việc hiểu biết về hoạt động kinh doanh 
là căn cứ, yếu tố quan trọng giúp kiểm toán viên 
thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán, đánh 
giá tính thích hợp, sự phù hợp của các bằng chứng 
này đối với kết luận và nhận xét của kiểm toán viên 
về hoạt động của đơn vị và nghiệp vụ kinh tế có 
liên quan. Ngoài ra, sự hiểu biết về hoạt động kinh 
doanh còn giúp kiểm toán viên xác định mối liên 
hệ giữa các bên liên quan, nghiệp vụ phát sinh giữa 
các bên liên quan; các thông tin có mâu thuẫn với 
số liệu báo cáo tài chính đồng thời xem xét sự phù 
hợp của chế độ kế toán với các thông tin trình bày 
trên báo cáo tài chính trong quá trình thực hiện 
kiểm toán. 
Thông qua hiểu biết về hoạt động kinh doanh, 
kiểm toán viên lựa chọn các thủ tục kiểm toán cần 
thiết để kiểm tra các nghiệp vụ kế toán có thực hiện 
đúng với các văn bản chế độ hiện hành của Nhà 
nước (chế độ kế toán, văn bản pháp luật về thuế, tài 
chính và các chính sách pháp luật khác có liên quan 
trong hoạt động của đơn vị), quy định nội bộ của 
đơn vị, của ngành mà doanh nghiệp đang áp dụng 
cho năm tài chính được kiểm toán và các năm có 
liên quan. Qua đó, kiểm toán viên sẽ đưa ra những 
kết luận phù hợp về tình hình tài chính của đơn vị, 
chỉ ra những sai sót mà đơn vị cần phải sửa chữa, 
khắc phục trong các nghiệp vụ kinh tế cũng như tư 
vấn cho đơn vị được kiểm toán thực hiện đúng chế 
độ, chính sách đang áp dụng, phù hợp với thực tiễn 
ngành nghề kinh doanh của mình.
- Giai đoạn lập và gửi báo cáo kiểm toán: Ở 
giai đoạn này, hiểu biết về tình hình kinh doanh 
của đơn vị được kiểm toán sẽ giúp Tổ kiểm toán, 
Đoàn kiểm toán đưa ra các kết luận kiến nghị kiểm 
toán, đánh giá sự phù hợp của các kết luận kiến 
nghị kiểm toán đặt trong điều kiện thực tế hoạt 
động sản xuất kinh doanh của đơn vị xem có phù 
hợp và mang tính chỉnh sửa hoạt động kinh doanh 
cũng như nền nếp tài chính của đơn vị được kiểm 
toán không? Các kiến nghị có giúp hoạt động của 
đơn vị thay đổi và cải tiến theo hướng tốt lên hay 
không? Để đảm bảo các kết luận, kiến nghị kiểm 
toán mang tính thực tiễn và thực thi cao.
- Giai đoạn kiểm tra thực hiện kết luận, kiến 
nghị kiểm toán: Trên cơ sở các kết luận, kiến nghị 
kiểm toán mang tính thực tiễn và thực thi cao, phù 
hợp với điều kiện thực tế hoạt động sản xuất kinh 
doanh của đơn vị giúp đơn vị thực hiện kiến nghị 
kiểm toán thuận lợi, rút ngắn thời gian kiểm tra 
thực hiện kiến nghị, giảm bớt đầu mối kiểm tra 
trong toàn ngành và nâng cao chất lượng báo cáo 
kiểm tra thực hiện kiến nghị.
2. Hiểu biết về hoạt động sản xuất kinh doanh 
trong quân đội
Hiện nay, hoạt động sản xuất, xây dựng kinh 
tế là một trong 3 chức năng nhiệm vụ của Quân 
đội nhân dân Việt Nam. Lĩnh vực kinh doanh của 
các doanh nghiệp trong Quân đội rất đa dạng gồm 
nhiều ngành nghề, lĩnh vực như: Ngân hàng, bảo 
hiểm; Viễn thông; Xuất nhập khẩu, Kinh doanh 
xăng dầu; Xây dựng, giao thông; Kinh doanh vận 
tải; Khai thác khoáng sản; đóng mới, sửa chữa máy 
móc thiết bị khí tài, gia công cơ khí; may mặc, chế 
biến lượng thực; trồng cây công nghiệp; kinh doanh 
thương mại Các doanh nghiệp trong Quân đội 
bên cạnh việc là đơn vị sản xuất sản phẩm cho xã 
hội còn góp phần giữ vững tiềm lực quốc phòng, 
thế trận chiến tranh, khi có tình huống xảy ra, các 
doanh nghiệp này có thể chuyển trạng thái ngay 
thành các Trung đoàn, Lữ đoàn, Sư đoàn, Binh 
đoàn tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo 
vệ Tổ quốc.
Đến nay, số đầu mối doanh nghiệp Quân đội 
là hơn 80 đầu mối. Nhiều doanh nghiệp quân đội 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN56 Số 119 - tháng 9/2017
trở thành những thương hiệu mạnh, có vị thế hàng 
đầu trong ngành nghề kinh doanh của mình như: 
Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), Ngân 
hàng Thương mại Cổ phần Quân đội (MB bank), 
Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn, Tổng công ty Xây 
dựng Lũng Lô, Tổng công ty Đông Bắc, Tổng công 
ty Trực thăng Việt Nam Chỉ tính riêng năm 2015, 
doanh thu của các doanh nghiệp Quân đội đã đạt 
hơn 335.000 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt hơn 
49.000 tỷ đồng, nộp ngân sách hơn 44.000 tỷ đồng. 
Thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh, hàng 
năm, các Doanh nghiệp Quân đội tham gia đóng 
góp tổng số kinh phí khá lớn cho NSNN và NSQP, 
tạo việc làm cho hàng triệu lao động trong và ngoài 
quân đội, góp phần ổn định kinh tế XH và phát 
triển đất nước. (Nguồn: báo QĐND online)
Kiểm toán lĩnh vực doanh nghiệp Quân đội 
trong những năm qua đã đạt được một số kết quả 
nhất định đó là:
- Giúp nâng cao vai trò quản lý, giám sát của 
nhà nước trong lĩnh vực kinh tế trong Quân đội;
- Kiến nghị cơ quan nhà nước sửa đổi cơ chế, 
chính sách phù hợp với đặc thù hoạt động của 
doanh nghiệp quân đội;
- Giúp các đơn vị được kiểm toán hoàn thiện bộ 
máy, nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao năng 
lực của đội ngũ kế toán trong doanh nghiệp;
- Tăng thu đáng kể cho Ngân sách nhà nước và 
ngân sách Quốc phòng.
Để nâng cao chất lượng kiểm toán trong lĩnh 
vực doanh nghiệp Quân đội, ngoài việc thực hiện 
đầy đủ các chuẩn mực kiểm toán nhà nước, quy 
trình kiểm toán, các văn bản pháp lý thì cần tập 
trung nghiên cứu, tìm hiểu các nội dung đặc thù 
liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của 
doanh nghiệp theo các nội dung cụ thể sau:
- Một là, về mô hình tổ chức, cơ cấu biên chế: 
Bố trí một số lượng sĩ quan, quân nhân chuyên 
nghiệp, công nhân viên quốc phòng phục vụ nhiệm 
vụ quân sự; 
- Hai là, về cơ chế quản lý, hoạt động: Giao một 
số nhiệm vụ phục vụ quốc phòng bên cạnh nhiệm 
vụ kinh tế, giao địa điểm đóng quân làm trụ sở, hỗ 
trợ một số khoản kinh phí từ NSQP (chi giáo dục: 
nhà trẻ, mẫu giáo, nâng cao năng lực sản xuất), 
nộp điều tiết; 
- Ba là, về cơ cấu vốn và tài sản: Gồm cả 2 nhóm 
vốn cho sản xuất kinh doanh và tài sản quân sự 
(đất, trang thiết bị, xe máy), với cơ chế huy động 
vốn khó khăn, phức tạp;
- Bốn là, quan hệ hành chính quân sự và kinh tế 
giữa công ty mẹ và công ty con (ví dụ như trường 
hợp Tổng công ty XNK Vạn Xuân và Tổng công ty 
XD Quân đội);
- Năm là, quan hệ quản lý hoạt động theo ngành 
dọc như chịu sự quản lý theo ngành dọc của các 
Cục Tài chính, Cục Kinh tế và các Cục Chuyên 
ngành khác;
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong 
quân đội rất đa dạng và tương đối đặc thù. Ngoài 
việc nắm chắc chuyên môn, nghiệp vụ các văn bản 
pháp luật, chế độ kế toán hiện hành thì việc nắm 
rõ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị được 
kiểm toán luôn được xác định là việc làm quan 
trọng và thường xuyên. Việc hiểu rõ, hiểu sâu về 
tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh trong quá 
trình kiểm toán là thực sự cần thiết và phải luôn 
được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của quá 
trình kiểm toán, đồng thời kiểm toán viên cũng cần 
phải thường xuyên cập nhập những thay đổi trong 
hoạt động kinh doanh của đơn vị, sẽ giúp công việc 
kiểm toán đạt hiệu quả cao, tiết kiệm thời gian và 
kinh phí trong quá trình thực hiện kiểm toán, nâng 
cao chất lượng, hiệu quả của cuộc kiểm toán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định số 376/QĐ-KTNN ngày 
15/4/2013 của Tổng KTNN ban hành hướng 
dẫn kiểm toán lĩnh vực doanh nghiệp.
2. Hệ thống chuẩn mực Kiểm toán nhà nước 
ban hành theo Quyết định số 02/2016/
QĐ-KTNN ngày 15/7/2016;
3. Phát huy tốt hơn vai trò của quân đội trong 
nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế (báo 
Quân đội Nhân dân online) - Thiếu tướng Võ 
Hồng Thắng - Cục trưởng Cục Kinh tế - BQP.
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 57Số 119 - tháng 9/2017
CÔÛI MÔÛ VEà CHUÛ TrÖÔNG, KHOÙ DEÃ 
TrONG THÖÏC THI
MINH ANH 
Chính saùCh thueá vôùi doanh nghieäp: 
Chính phủ đã có chủ trương giảm thủ tục hành chính và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc thực thi các chính sách này trong thực tiễn vẫn chưa đánh dấu những bước tiến đáng kể.
Theo bà Hương Vũ, Phó Tổng giám đốc Công 
ty TNHH Ernst & Young Việt Nam (EY), hai văn 
bản đáng chú ý nhất về môi trường kinh doanh 
được Chính phủ ban hành thời gian gần đây là 
Nghị quyết 35/2016 và Chỉ thị 20/CT-TTg ngày 
17/5/2017. 
Theo đó, tại Nghị quyết 35/2016 của Chính 
phủ về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp đến năm 
2020, các nội dung nổi bật được nêu là: cải cách 
hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; tạo 
dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp 
khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo; bảo 
đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận 
nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp; 
giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp; bảo vệ 
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.
Tại Chỉ thị 20, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu 
tập trung chỉ đạo khi xây dựng, phê duyệt kế hoạch 
thanh tra hàng năm không để xảy ra tình trạng 
thanh tra, kiểm tra quá 01 lần/năm đối với doanh 
nghiệp. Đồng thời chỉ đạo tiến hành các cuộc 
thanh tra theo đúng định hướng, kế hoạch thanh 
tra đã phê duyệt; nội dung thanh tra phải giới hạn 
trong phạm vi quản lý nhà nước được giao; chủ 
động kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh kế hoạch 
thanh tra khi cần thiết theo hướng không làm tăng 
số cuộc thanh tra; ban hành kết luận thanh tra phải 
đúng thời hạn theo quy định.
Đây được đánh giá là những động thái chính 
sách quan trọng trong việc cải cách thủ tục hành 
chính và có ảnh hưởng không nhỏ tới họat động 
doanh nghiệp. 
Dù vậy, đánh giá từ (EY) Việt Nam cho biết, 
số lượng các cuộc thanh kiểm tra thuế tại doanh 
nghiệp tăng đáng kể, trong đó, cơ quan thuế ngày 
càng quan tâm và xem xét chặt chẽ bản chất, tài 
liệu của các giao dịch với các bên liên kết, tính hợp 
lý của phương thức xác định giá cũng như mức độ 
liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh 
nghiệp. “Tôi đã chứng kiến nhiều trường hợp cơ 
quan thuế và hải quan đưa ra cách áp dụng thuế 
không phù hợp khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó 
khăn”, bà Hương Vũ chia sẻ. 
Trường hợp của một doanh nghiệp tại Bắc Ninh 
là ví dụ điển hình cho tình trạng này. Cách đây mấy 
tháng, sau khi tham chiếu các quy định hiện hành, 
một doanh nghiệp tại Bắc Ninh nộp hồ sơ đề nghị 
ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần lãi 
tiền gửi phát sinh trên địa bàn. Doanh nghiệp này 
đáp ứng đủ các điều kiện về thu nhập phát sinh từ 
hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn ưu đãi, 
địa điểm đặt cơ sở sản xuất kinh doanh tại địa bàn 
được ưu đãi. Tuy nhiên, cơ quan thuế đã từ chối hồ 
sơ này với lý do: “ngân hàng nhận và chi trả lãi tiền 
gửi cho doanh nghiệp này không đóng tại địa bàn 
ưu đãi”. 
Đây là câu chuyện được bà Nguyễn Hương, 
Giám đốc dịch vụ tư vấn thuế, EY Việt Nam chia sẻ 
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN58 Số 119 - tháng 9/2017
tại hội thảo này. Điều này cho thấy cách vận dụng 
các chính sách rất “linh hoạt” và đã gây bất lợi cho 
doanh nghiệp theo hướng không thể dự đoán. 
Bên cạnh đó, một số quy định vẫn còn chưa 
được làm rõ nội dung khiến doanh nghiệp khó áp 
dụng trong thực tiễn. Một trường hợp được nhắc 
đến là Nghị định 20/2017 về quản lý thuế với công 
ty có giao dịch liên kết mới có hiệu lực gần dây. 
Nghị định này quy định lãi vay bị khống chế là tổng 
chi phí lãi vay từ bên liên kết và chi phí lãi vay từ 
bên độc lập. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn 
chưa rõ chi phí lãi vay bị khống chế có bao gồm chi 
phí lãi vay được vốn hóa trong kỳ hay không, chi 
phí lãi vay bị khống chế là phần chi phí lãi vay trước 
hay sau khi bù trừ với thu nhập từ lãi cho vay nhận 
được. Nghị định này có hiệu lực từ ngày 1/5/2017 
song không quy định cách tính toán cho năm tài 
chính 2017 cũng là điểm trở ngại khi doanh nghiệp 
áp dụng trong thực tế. 
Cũng liên quan đến nội dung này, ông Nguyễn 
Tấn Phát, Phó Tổng Giám đốc EY Việt Nam chia 
sẻ kinh nghiệm thực tiễn thanh tra về giá giao dịch 
liên kết. Theo đó, cơ quan thuế so sánh tỷ suất lợi 
nhuận trong các giao dịch/phân khúc kinh doanh 
do chính công ty thực hiện với bên độc lập và với 
bên liên kết. áp dụng tỷ suất lợi nhuận cho từng 
phân khúc, lĩnh vực kinh doanh của người nộp 
thuế. Truy vấn việc thay đổi phương pháp kê khai 
cho cùng một giao dịch trong các kỳ tính thuế khác 
nhau. Các công ty tương đồng trong nước được ưu 
tiên lựa chọn. Đáng chú ý, cơ quan thuế có thể sử 
dụng dữ liệu không công khai để ấn định giá giao 
dịch liên kết. 
Trong quá trình thanh tra, cơ quan thuế thường 
gợi ý cho doanh nghiệp tự điều chỉnh giá giao dịch 
liên kết hoặc tỷ suất lợi nhuận, đưa ra biên bản đề 
xuất một mức lợi nhuận hoặc giá và yêu cầu doanh 
nghiệp ký đồng ý. Cơ quan thuế cũng ra quyết định 
điều chỉnh giá giao dịch liên kết, truy thu thuế và 
phạt vi phạm. 
Do đó, lời khuyên của các chuyên gia tư vấn 
thuế dành cho doanh nghiệp là nên chuẩn bị chi 
tiết các chứng từ chứng minh các giao dịch cùng 
với các lý lẽ lập luận xác đáng khi làm việc với cơ 
quan thuế để tránh bị áp thuế ở mức bất lợi cho 
doanh nghiệp.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 59Số 119 - tháng 9/2017
HÖÔÙNG TÔÙI MUÏC TIEÂU
XUAÁT KHAÅU OÂ TOÂ
MINH DUY 
Ñeà xuaát giaûm thueá nhaäp khaåu linh kieän oâ toâ veà 0%:
Bộ Tài chính vừa đề xuất hai phương án giảm thuế nhập khẩu linh kiện ô tô về 0% với nhận định việc điều chỉnh thuế nhập khẩu linh kiện ô tô sẽ khuyến khích doanh nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô ở Việt Nam giảm giá bán, nâng cao sức cạnh tranh so với xe ô tô nhập khẩu.Tuy nhiên, việc giảm thuế nhập khẩu linh kiện cho dòng xe nào sẽ được cân nhắc và đảm bảo 
mục tiêu đặt ra là tăng tỉ lệ nội địa hóa với ôtô, góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp ôtô và ngành công 
nghiệp phụ trợ phát triển.
Đây là nhận định của Bộ Tài chính tại Dự thảo 
Nghị định thay thế Nghị định số 122/2016/NĐ-CP 
về danh mục biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập 
khẩu ưu đãi, danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt 
đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch 
thuế quan.
Về thuế nhập khẩu linh kiện, Bộ Tài chính 
cho biết, chương trình giảm thuế nhập khẩu đối 
với linh kiện ô tô nhập khẩu trong 05 năm từ năm 
2018-2022, có kèm theo điều kiện về sản lượng xe 
sản xuất lắp ráp và tỷ lệ giá trị sản xuất trong nước 
của mẫu xe cam kết phải đạt được hàng năm, để lắp 
ráp cho 02 nhóm xe. Điều kiện một là Nhóm xe chở 
người dưới 9 chỗ, có dung tích xi lanh từ 2.000 cc 
trở xuống, tiêu hao nhiên liệu dưới 7lít/100km, tiêu 
chuẩn khí thải mức 4 (giai đoạn 2018-2021); mức 
5 từ năm 2022 trở đi. Điều kiện hai là Nhóm xe tải 
có tổng trọng lượng có tải từ 5 tấn trở xuống, tiêu 
chuẩn khí thải mức 4 (giai đoạn 2018-2021); mức 5 
từ năm 2022 trở đi.
Với điều kiện đó, Bộ Tài chính đề xuất 02 
phương án giảm thuế. Phương án 1 là giảm thuế 
suất thuế nhập khẩu MFN của 163 dòng thuế linh 
kiện ô tô nhập khẩu để lắp ráp cho 02 nhóm xe về 
0%. Theo đó, giảm mức thuế suất trung bình của 
cả bộ linh kiện từ 14-16% xuống khoảng 7% đối 
với xe dưới 9 chỗ và khoảng 1% đối với xe tải dưới 
5 tấn.
Phương án 2 là giảm thuế suất thuế nhập khẩu 
MFN của 19 dòng thuế linh kiện là động cơ, hộp 
số, cụm truyền động, bơm cao áp để lắp ráp cho 
02 nhóm xe từ các mức 3%, 5%, 10%, 15% 18%, 
20%, 25%, 30%, 32%, 45%, 50% xuống 0% (đây là 
một số linh kiện, phụ tùng trong giai đoạn tới Việt 
Nam chưa thể sản xuất) và giảm thuế suất của 42 
dòng thuế thuộc nhóm 8708 (bộ phận và phụ kiện 
của xe ô tô) để lắp ráp cho 02 nhóm xe nêu trên từ 
các mức 15%, 20% và 25% xuống 10%. Theo đó, 
giảm mức thuế suất trung bình của cả bộ linh kiện 
từ 14-16% xuống 9 – 11% đối với xe dưới 9 chỗ và 
7,9% đối với xe tải dưới 5 tấn. 
Về thuế nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng, để hạn 
chế nhập khẩu xe đã qua sử dụng, Bộ Tài chính đề 
xuất tăng mức thuế nhập khẩu đối với xe đã qua sử 
dụng phù hợp với cam kết WTO đối với xe ô tô chở 
người dưới 16 chỗ, giữ nguyên thuế suất đối với xe 
ô tô chở người từ 16 chỗ trở lên và xe ô tô tải. 
Đề xuất chính sách thuế này của Bộ Tài chính 
được nêu ra với kỳ vọng duy trì ổn định tỷ lệ tăng 
trưởng sản xuất, lắp ráp đối với 02 nhóm xe của 
Chương trình trong giai đoạn 2018-2022 là 16% /
năm (xe dưới 9 chỗ) và 18%/năm (đối với xe tải). 
Đồng thời, tăng tỷ lệ số xe sản xuất, lắp ráp so với 
nhu cầu nội địa đối với 02 nhóm xe của Chương 
trình trong giai đoạn 2018-2022 đạt từ 80% trở lên.
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN60 Số 119 - tháng 9/2017
Bộ Tài chính cũng mong muốn chính sách này 
sẽ góp phần phát triển công nghiệp hỗ trợ thông 
qua việc đạt tỷ lệ giá trị sản xuất trong nước là 40% 
nhu cầu về linh kiện, phụ tùng cho sản xuất lắp ráp 
ô tô trong nước từ năm 2022 trở đi cho cả 02 nhóm 
xe của Chương trình. Cụ thể, đối với mẫu xe cam 
kết thuộc nhóm xe dưới 9 chỗ: năm 2018 là 20%; 
năm 2019 là 25%; năm 2020: 30%; năm 2021: 35%; 
năm 2022 là 40%. Đối với mẫu xe cam kết thuộc 
nhóm xe tải là năm 2018 là 10%; năm 2019 là 15%; 
năm 2020: 20%; năm 2021: 25%; năm 2022 là 40%.
Theo bà Nguyễn Thị Thanh Hằng, Phó Vụ 
trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính), một 
trong những mục tiêu giảm thuế nhập khẩu linh 
kiện là hướng tới Việt Nam sẽ xuất khẩu ôtô. Cũng 
theo bà Hằng, sau khi đưa ra đề xuất giảm thuế linh 
kiện như nêu trên, nhiều ý kiến gửi về Bộ Tài chính 
cho rằng nên mở rộng chính sách ưu đãi với dòng 
xe khác.
“Có ý kiến cho rằng, vì ô tô dưới 2000cc là 
dòng xe chủ lực của Indonesia nên nếu Việt Nam 
tập trung vào dòng xe này thì xe ôtô của Việt Nam 
sẽ khó mà cạnh tranh nổi. Do đó, nếu Việt Nam 
có chính sách khuyến khích phát triển dòng xe có 
dung tích trên 2.500cc và xe buýt thì có thể xuất 
khẩu được. Hiện nay các đơn vị chức năng của Bộ 
Tài chính đang nghiên cứu và tổng hợp lại để báo 
cáo lãnh đạo Bộ để trình Chính phủ trong thời 
gian tới. Chính sách giảm thuế nhập khẩu linh kiện 
cho dòng xe nào sẽ được cân nhắc nhưng vẫn phải 
đảm bảo mục tiêu đặt ra là tăng tỉ lệ nội địa hóa với 
ôtô, góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp ôtô và 
ngành công nghiệp phụ trợ phát triển và tương lai 
Việt Nam có thể xuất khẩu ôtô”, bà Hằng nói.
Phân loại 2014 2015 2016
6 tháng đầu năm 
2017
Xe nhập khẩu 70.956 125.534 113.567 35.423
Xe SX,LR trong nước 135.916 204.963 283.394 98.841
Tỷ lệ xe SX,LR/tổng số xe (%) 65,7 62 71,4 73,6
Nguồn: Tổng cục Hải quan và Cục Đăng kiểm VN

File đính kèm:

  • pdfhieu_biet_hoat_dong_san_xuat_kinh_doanh_khi_kiem_toan_doanh.pdf