Hiện trạng quản lý và tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp tại một số xã thuộc huyện Thái Thụy - tỉnh Thái Bình

Phương pháp nghiên cứu

- Điều tra nhanh có sự tham gia người dân (PRA)

tìm ra các ưu hạn chế trong việc sử sụng phế phụ

phẩm, các phương pháp hiện có của địa phương trên

cơ sở đó lựa chọn giới thiệu các kỹ thuật phế phụ

phẩm mới.

Phỏng vấn người sản xuất

+ Số người phỏng vấn: 150 hộ sản xuất bằng các

loại phiếu điều tra.

+ Tổng số hộ điều tra: 3 xã/ 5 thôn ˟ 10 hộ/thôn

= 150 phiếu

+ Địa điểm phỏng vấn/ số phiếu điều tra: Thụy

Hà (Bao Hàm, Mai Diêm): 60 phiếu; Thụy Quỳnh

(Vân Am): 30 phiếu; Thái An (Lễ Thần Đông, Lễ

Thần Đoài): 60 phiếu.

+ Các loại phiếu điều tra:

Phiếu điều tra với 5 chỉ tiêu theo các nội dung về

diện tích trồng trọt, khối lượng phế phụ phẩm thải

ra hàng năm cây trồng lúa (rơm, rạ); ngô, (lá, thân,

lõi ngô); lạc (lá, thân); đậu tương (lá, thân).

Phiếu điều tra với 3 chỉ tiêu theo các nội dung về

diện tích trồng trọt, khối lượng phế phụ phẩm thải

ra hàng năm cây trồng rau ăn lá (súp lơ, cải ngọt, cải

xanh, cải bắp.); rau củ quả (bí, dưa chuột.).

pdf 5 trang kimcuc 2100
Bạn đang xem tài liệu "Hiện trạng quản lý và tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp tại một số xã thuộc huyện Thái Thụy - tỉnh Thái Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng quản lý và tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp tại một số xã thuộc huyện Thái Thụy - tỉnh Thái Bình

Hiện trạng quản lý và tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp tại một số xã thuộc huyện Thái Thụy - tỉnh Thái Bình
79
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(88)/2018
Turner, J. F. and D. H. Turner., 1980. The regulation of 
glycolysis and the pentose phosphate pathway. In: P. 
K. Stump and E. E. Conn. The Biochemistry of Plants. 
Vol. 2, Metabolism and Respiration. Davies, D. D. 
(Ed.) 7, pp: 279-316.
Yamaguchi T., Aharon G.S., Sottosanto J.B., Blumwald 
E., 2005. Vacuolar Na+//H+ antiporter cation 
selectivity is regulated by calmodulin from within 
the vacuole in a Ca2+ - and pH-dependent manner. 
Proceedings of the National Academy of Sciences of 
the United States of America 102, 16, pp: 107-112.
Zhu, J. K., 2002. Regulation of ion homeostasis under 
salt stress. Curr. Opin.Plant Biol., (6): 441-445.
Salt tolerance potential and possible phytoremediation 
of salt-affected alluvial soils by leaf mustard (Brassica juncea L.) 
Le Ngoc Phuong, Duong Hoang Son, 
Nguyen Do Chau Giang, Nguyen Minh Dong
Abstract
The net house experiments were conducted to evaluate the salt tolerance potential of leaf mustard (Brassica juncea L.) 
for the purpose of phytoremediation of salt affected alluvial soils. The researches were CRD, including 2 experiments: 
(i) the hydroponic experiment including four treatments of salt concentration addition (0; 25; 50, and 100 mM NaCl), 
with 4 replications, CRD, and (ii) the soil pot experiment with 3 treatments of diluted sea water amendment (0‰, 
3‰, 6‰) and 3 replicates for each treatment, CRD. The results showed that there were no impact of salinity stress 
(e.g. up to 100 mM and 6‰ addition) on growth, development, nutrients accumulation (N, P2O5), yield and biomass 
of leaf mustard under two experiment conditions. There were increase in Na+ and/or Cl-, proline accumulation 
in aerial part with the increasing salinity treatments in both trials, particularly at 100 mM NaCl and 6‰ salinity 
amendment. The results indicated that leaf mustard showed the great ability to decrease soil salinity such as ECe, 
exchangeable Na+, Na+/Ca2+ ratio, improving exchangeable Ca2+, resulting the decrease in ESP and SAR. Thus, leaf 
mustard has the potential to be cultivated in salt-affected alluvial soils and is suggested as a good crop candidate for 
saline phytoremediation in coastal provinces of the Mekong river Delta.
Keywords: Leaf mustard, salt tolerance potential, salty soil, affect, Mekong river Delta
Ngày nhận bài: 12/2/2018
Ngày phản biện: 19/2/2018
Người phản biện: TS. Trần Thị Ngọc Sơn
Ngày duyệt đăng: 13/3/2018
1 Viện Bảo vệ thực vật; 2 Trung tâm Đầu tư phát triển công nghệ mới
3 Phòng Nông nghiệp huyện Thái Thụy - tỉnh Thái Bình
HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ VÀ TÁI SỬ DỤNG PHỤ PHẨM NÔNG NGHIỆP 
TẠI MỘT SỐ XÃ THUỘC HUYỆN THÁI THỤY - TỈNH THÁI BÌNH
Đặng Thị Lan Anh1, Phạm Thị Vượng1, Hà Thị Kim Thoa1,
Phạm Văn Sơn1, Bùi Thị Băng2, Nguyễn Thị Hiền2, Dương Đức Triệu3
TÓM TẮT
Vấn đề ô nhiễm ở nhiều vùng nông thôn hiện nay đang ở mức báo động, không chỉ trong việc lạm dụng hóa chất 
đầu tư vào sản xuất mà còn việc xả các phế phẩm phụ phẩm trong sản xuất ra môi trường. Chất thải chăn nuôi xả 
trực tiếp ra môi trường. Phế phụ phẩm từ trồng trọt như rơm rạ, thân lá các loại rau, ngô, đậu đỗ... có tới trên 70% 
số hộ, sau thu hoạch để trên đồng rồi đốt bỏ, chỉ vào khoảng từ 10 - 30% số hộ thu gom làm chất đốt, hoặc để sản 
xuất phân bón hữu cơ. Bài viết này cung cấp một số thông tin về thực trạng tái sử dụng phế phụ phẩm trong trồng 
trọt và chăn nuôi vào sản xuất nông nghiệp ở Thái Thụy - Thái Bình. 
Từ khóa: Chất thải chăn nuôi, đạm vô cơ, ô nhiễm, phế phụ phẩm nông nghiệp 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Là một nước nông nghiệp, Việt Nam có trên 10 
triệu ha đất nông nghiệp, trong đó có hai vùng đồng 
bằng lớn là Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và Đồng 
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Cùng với sự phát 
triển của đất nước, ngành nông nghiệp Việt Nam đã 
có có sự trưởng thành vượt bậc , từ chỗ đủ lương 
thực phục vụ đời sống hàng ngày, đến nay chúng ta 
80
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(88)/2018
không chỉ đảm bảo an ninh lương thực, dự trữ mà 
còn trở thành là một trong những nước xuất khẩu 
gạo thứ hai thế giới, cà phê, cao su, hạt tiêu ... cũng 
thuộc hạng nhất nhì thế giới.
Song song với những lợi ích kinh tế từ sản xuất 
nông nghiệp đạt được thì sản xuất nông nghiệp cũng 
tạo ra lượng phế phụ phẩm sau thu hoạch như rơm, 
rạ, vỏ trấu, thân cây ... khá lớn. Lượng phế phụ phẩm 
này đang được người dân xử lý và sử dụng chưa hợp 
lý nên gây ra việc lãng phí chất hữu cơ, gây ô nhiễm 
môi trường nông thôn.
Thái Bình là một tỉnh ven biển ĐBSH có diện tích 
đất tự nhiên là 155.940 ha với đất nông nghiệp là 
106.812 ha, trong đó diện tích sản xuất nông nghiệp 
95.830 ha, bình quân đất nông nghiệp trên 1 người 
là 579m2/người. Trong đó, Thái Thụy với diện tích 
26.844 ha đất tự nhiên, dân số 249.768 người. Với 
tổng diện tích gieo trồng năm 2017 đạt 35.874,6 ha, 
kéo theo đó lượng phế phụ phẩm nông nghiệp sau 
khi thu hoạch cây trồng là khá lớn. Trước đây, phần 
lớn phế phụ phẩm nông nghiệp sau khu thu hoạch 
dùng để sử dụng làm thức ăn cho gia súc nhưng 
mấy năm trở lại đây đời sống người dân được cải 
thiện, họ không cần đến rơm, rạ để dùng làm chất 
đốt. Mặc dù vậy người dân vẫn cần giải phóng ruộng 
để chuẩn bị cho vụ sau và giải pháp đốt rơm rạ trên 
đồng ruộng, cày vùi để chuẩn bị cho vụ sau là sự lựa 
chọn phổ biến của bà con nông dân. Việc đốt rơm 
rạ gây ô nhiễm bầu không khí, ảnh hưởng đến sức 
khỏe. Cày vùi rơm, rạ làm phát sinh khí Metan; các 
hình thức xử lý hiện tại làm mất đi lượng sinh khối 
lớn mà đáng lẽ có thể được tận dụng.
Để giải quyết được các hạn chế nêu trên, góp 
phần giảm thiểu sử dụng bón hóa học, giảm thiểu 
ô nhiễm môi trường cung cấp thêm nguồn phân 
hữu cơ tại chỗ cho cây trồng, nhóm nghiên cứu tiến 
hành điều tra thực trạng sản xuất phế phụ phẩm 
nông nghiệp và chăn nuôi trên cơ sở đó chọn lựa 
các giải pháp phù hợp, hiệu quả cao ứng dụng vào 
thực tiễn để sử dụng hiệu quả phụ phẩm trong nông 
nghiệp ứng dụng cho vùng sản xuất rau của huyện 
Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Phụ phẩm: Lúa (rơm, rạ, vỏ trấu); cây lạc, đậu 
tương (thân, lá, lõi); nhóm rau ăn lá (cải xanh, cải 
ngọt, cải bắp, su hào, súp lơ,...); nhóm rau ăn quả (cà 
chua, dưa chuột, bầu bí,...).
- Chất thải chăn nuôi (Phân gà, lợn, trâu, bò, 
gà, vịt ...).
- Nông dân cùng tham gia.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra nhanh có sự tham gia người dân (PRA) 
tìm ra các ưu hạn chế trong việc sử sụng phế phụ 
phẩm, các phương pháp hiện có của địa phương trên 
cơ sở đó lựa chọn giới thiệu các kỹ thuật phế phụ 
phẩm mới.
Phỏng vấn người sản xuất 
+ Số người phỏng vấn: 150 hộ sản xuất bằng các 
loại phiếu điều tra.
+ Tổng số hộ điều tra: 3 xã/ 5 thôn ˟ 10 hộ/thôn 
= 150 phiếu
+ Địa điểm phỏng vấn/ số phiếu điều tra: Thụy 
Hà (Bao Hàm, Mai Diêm): 60 phiếu; Thụy Quỳnh 
(Vân Am): 30 phiếu; Thái An (Lễ Thần Đông, Lễ 
Thần Đoài): 60 phiếu.
+ Các loại phiếu điều tra:
Phiếu điều tra với 5 chỉ tiêu theo các nội dung về 
diện tích trồng trọt, khối lượng phế phụ phẩm thải 
ra hàng năm cây trồng lúa (rơm, rạ); ngô, (lá, thân, 
lõi ngô); lạc (lá, thân); đậu tương (lá, thân).
 Phiếu điều tra với 3 chỉ tiêu theo các nội dung về 
diện tích trồng trọt, khối lượng phế phụ phẩm thải 
ra hàng năm cây trồng rau ăn lá (súp lơ, cải ngọt, cải 
xanh, cải bắp...); rau củ quả (bí, dưa chuột...).
Phiếu điều với 5 chỉ tiêu theo các nội dung khối 
lượng phế phụ phẩm chăn nuôi hàng năm thải ra: 
lợn; gà, vịt; trâu, bò ...
+ Khảo sát thực tiễn tại vùng nghiên cứu: Vùng 
sản xuất lúa, ngô, rau màu, chăn nuôi. 
+ Tham vấn các bên liên quan: Lãnh đạo huyện 
Thái Thụy, Lãnh đạo và chuyên viên Phòng Nông 
nghiệp và Chi cục Thống kê huyện Thái Thụy Chi 
cục Trồng trọt và BVTV huyện Thái Thụy, Chủ nhiệm 
các HTX DVNN, Doanh nghiệp nông nghiệp
- Phương pháp xử lý số liệu: Xử lý trên màn 
hình Excel.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 5 đến tháng 
12 năm 2016 tại các xã: Thụy Hà, Thụy Quỳnh và 
Thái An - huyện Thái Thụy - tỉnh Thái Bình. 
81
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(88)/2018
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Một số cây trồng, vật nuôi chính tại Thái Thụy, 
Thái Bình và các hình thức quản lý phụ phẩm nông 
nghiệp tại đây
Cây trồng chính vẫn là lúa (27.000 ha), tiếp đến 
là cây ngô (700 ha), cây lạc (600 ha) và đậu tương 
(300 ha). Các cây rau màu chiếm diện tích cao nhất 
là dưa chuột (190 ha) tiếp đến là cải bắp, su hào (140 
và 110 ha) thấp hơn cả là cà chua (80 ha). Với tổng 
sản lượng cây lương thực là 179.700 tấn, cây đậu đỗ 
là 4.480 tấn và cây ràu màu là 14.120 tấn thì lượng 
phụ phẩm thải ra từ các loại cây trồng này cũng vô 
cùng lớn. Cụ thể là: Cây lúa có khoảng 12,5 - 13,0 
tấn/ha (rơm, rạ), ngô 12,0 - 13,0 tấn/ha; đậu tương 
5,8 - 7,0 tấn/ha; lạc 12,0 - 13,0 tấn/ha. Ước tính tổng 
khối lượng phụ phẩm từ cây lương thực, cây đậu đỗ 
thải ra vào khoảng 354.000 tấn (Bảng 1). 
Bảng 1. Diện tích, năng suất, sản lượng, 
khối lượng phụ phẩm của một số loại cây lương thực, 
thực phẩm tại huyện Thái Thụy, năm 2016
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Thái Thụy năm 
2016, Chi cục Thống kê huyện Thái Thụy).
Phế phụ phẩm từ sản xuất các loại rau ăn lá, củ 
quả cũng rất lớn, mỗi ha trồng cà chua thải ra khoảng 
từ 6 - 7 tấn/ha (tùy theo mùa vụ và giống), cây dưa 
chuột có khoảng 5 - 7 tấn/ha, cải bắp vào khoảng 6 - 8
tấn/ha (tùy theo mùa vụ và giống), su hào khoảng 
4 - 5 tấn/ha. Tổng khối lượng phế phụ phầm thải ra 
từ sản xuất rau củ quả vào khoảng 2.824 tấn số liệu 
được trình bày tại (Bảng 2). 
Ngoài điều tra lượng phế phụ phẩm từ trồng 
trọt, tiến hành điều tra lượng phế phụ phẩm từ 
chăn nuôi. Kết quả điều tra cho thấy huyện Thái 
thụy có số đầu gà, vịt lớn nhất 1.662.000 con và khối 
lượng chất thải ra 19.938,9 tấn/năm sau đó đến lợn 
là 148.042 con và lượng thải ra 44.412,6 tấn/năm. 
Xã Thụy Quỳnh có số đầu lợn lớn nhất với 4.500 
con và lượng chất thải ra tới 1.350 tấn/năm. Số trâu, 
bò thấp nhất là 6.800 con và lượng chất thải chiếm 
6.120 tấn/năm (Bảng 3).
Bảng 2. Diện tích, năng suất, sản lượng, 
khối lượng phụ phẩm của một số loại rau 
tại huyện Thái Thụy, năm 2016
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Thái Thụy năm 
2016, Chi cục Thống kê huyện Thái Thụy). 
Bảng 3. Hiện trạng quản lý chất thải vật nuôi hàng 
năm tại huyện Thái Thụy năm 2016
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Thái Thụy năm 
2016, Chi cục Thống kê huyện Thái Thụy).
3.2. Hiện trạng quản lý phụ phẩm nông nghiệp tại 
các địa điểm nghiên cứu xã Thụy Hà, Thụy Quỳnh, 
Thái An - huyện Thái Thụy - tỉnh Thái Bình
3.2.1. Diện tích và khối lượng phế phụ phẩm trên 
một số cây trồng chính
Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát khối lượng 
phế phụ phẩm trên các loại cây trồng. Kết quả nghiên 
cứu được trình bày ở bảng 4. Tổng diện tích trồng 
lúa, ngô và đậu đỗ của cả 3 xã là 1.296 ha, lúa chiếm 
diện tích lớn nhất (1.021 ha). Tổng lượng phế phụ 
phẩm thải ra từ các loại cây trồng trên của cả 3 xã 
tới 19.857 tấn, lớn nhất từ sản xuất lúa tới 17.589 tấn 
(cả rơm rạ và trấu), tiếp đến là ngô 1.188 tấn, mặc 
dù đậu đỗ có diện tích sản xuất không lớn (95 ha) 
nhưng có lượng phụ phẩm thải ra rất lớn tới 1.080 
tấn (Bảng 4). 
Các chỉ tiêu 
theo dõi Lúa Ngô
Đậu 
tương Lạc
Diện tích (ha) (1) 27.000 700 300 600
Năng suất (tạ/ha)(1) 65 60 28 60
Sản lượng (tấn)(1) 175.500 4.200 880 3.600
Khối lượng phụ 
phẩm của một số 
loại cây trồng (tấn)
337.500 8.400 1.760 7.200
Các chỉ tiêu 
theo dõi
Cải 
bắp
Su 
hào
Cà 
chua
Dưa 
chuột
Diện tích (ha) (1) 140 110 80 190
Năng suất (tạ/ha)(1) 300 200 300 280
Sản lượng (tấn)(1) 4.200 2.200 2.400 5.320
Khối lượng phụ 
phẩm của cây rau 
(tấn)
840 440 480 1.064
TT Loại vật nuôi
Số lượng 
(con)
Lượng chất 
thải hàng năm 
(tấn/năm)
1 Trâu, bò 6.800 6.120
2 Lợn 148.042 44.412,6
3 Gà, vịt 1.662.000 19.938,9
 Tổng 1.816.842 70.471,5
82
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(88)/2018
Diện tích trồng các loại rau ăn quả củ và rau ăn lá 
của 3 xã là 70,4 ha, trong đó lượng phụ phẩm thải ra 
tới 414 tấn/ha/vụ, cao nhất từ sản xuất cà chua (252 
tấn/ha/vụ) tiếp đến là bí (100 tấn/ha/vụ) thấp nhất 
là su hào (7 tấn/ha/vụ); kết quả thể hiện ở bảng 5.
Kết quả điều tra lượng phế phụ phẩm từ chăn 
nuôi cho thấy trong 3 xã của huyện Thái Thụy, chăn 
nuôi gia cầm có số đầu con lớn nhất tới 57.791 con/
năm, tiếp đến là chăn nuôi lợn tới 6.491 con/năm và 
gia súc tới 579 con/năm. Tuy nhiên chất thải từ chăn 
nuôi lợn là lớn nhất tới 1.947,3 tấn/năm, tiếp đến là 
gia cầm đạt 6 93,4 tấn/năm và 521,1 tấn/năm từ chăn 
nuôi trâu bò (Bảng 6).
3.2.2. Hiện trạng sử dụng phế phụ phẩm trong sản 
xuất một số cây trồng chính tại vùng nghiên cứu
Kết quả đánh giá về tình trạng sử dụng phể phụ 
phẩm từ một số cây trồng chính tại vùng nghiên cứu 
cho thấy; Hầu hết người sản xuất lúa, ngô, lạc, đậu 
tương của cả 3 xã vẫn chủ yếu bỏ thân lá các loại cây 
trồng này ngoài đồng, đợi khô rồi đốt; Phụ phẩm 
từ cây lúa đốt chiếm 70% ở cả 3 xã, từ cây ngô đốt 
chiếm 70% tại 2 xã Thụy Hà và Thụy Quỳnh, cây đậu 
đỗ đốt chiếm 50% ở cả 3 xã. Tỷ lệ thu gom phế phụ 
phẩm để làm chất đốt từ cây ngô cao nhất ở xã Thái 
An (chiếm 80%) còn lại các xã khác sử dụng từ 5 
-10% phụ phẩm từ cây lúa làm chất đốt và 30% cây 
ngô và 20% từ cây đậu đỗ. Các phụ phẩm từ các loại 
cây trồng trên sử dụng để sản xuất phân bón chiếm 
cao nhất trên cây đậu đỗ (30%) phụ phẩm từ cây lúa 
chiếm 20% kết quả trình bày (Bảng 7).
Bảng 4. Khối lượng phế phụ phẩm trên các loại cây trồng hàng năm/vụ 
tại 3 xã huyện Thái Thụy năm 2016
Địa 
phương
Phụ phẩm 
từ sản xuất lúa 
(tấn/năm
Phụ phẩm 
từ sản xuất ngô 
(tấn/năm)
Phụ phẩm
 từ sản xuất lạc 
(tấn/năm)
Phụ phẩm 
từ sản xuất đậu tương 
(tấn/năm) Tổng số 
(tấn/
năm)Diện 
tích 
(ha)
Rơm, 
rạ
Vỏ 
trấu
Diện 
tích 
(ha)
Thân, 
lá Lõi
Diện 
tích 
(ha)
Thân, 
lá
Diện 
tích 
(ha)
Thân, 
lá
Thụy Hà 435 8.450 845 20 120 12 40 480 2 12 9.919
Thụy Quỳnh 415 5.512 551,2 20 120 12 15 180 2 12 6.387,2
Thái An 171 2.028 202,8 140 840 84 30 360 6 36 3.550,8
Tổng số 1.021 15.990 1.599 180 1.080 108 85 1.020 10 60 19.857
Bảng 5. Khối lượng phế phụ phẩm trên các loại rau hàng năm/vụ tại 3 xã huyện Thái Thụy năm 2016
Bảng 6. Khối lượng các chất thải vật nuôi thải hàng vụ/năm tại 3 xã huyện Thái Thụy năm 2016
Địa phương
Diện tích 
canh tác 
(ha)
Rau củ quả (tấn/ha/vụ) Rau ăn lá (tấn/ha/vụ) Tổng số 
(tấn/vụ)Cà chua Bí Su hào Cải bắp Súp lơ Rau cải
Thụy Hà 21 72 25 3 5 3 15 123
Thụy Quỳnh 26 72 62,5 2 2 3 10 151,5
Thái An 23,4 108 12,5 2 5 5 7 139,5
Tổng số 70,4 252 100 7 12 11 32 414
Địa phương
Trâu, Bò Lợn Gà, Vịt
Số 
con/năm
Khối lượng 
chất thải 
(tấn/năm)
Số 
con/năm
Khối lượng 
chất thải 
(tấn/năm)
Số 
con/năm
Khối lượng 
chất thải 
(tấn/năm)
Thụy Hà 222 199,8 855 256,5 11.628 139,5
Thụy Quỳnh 225 202,5 4.500 1.350 19.895 238,7
Thái An 132 118,8 1.136 340,8 26.268 315,2
Tổng số 579 521,1 6.491 1.947,3 57.791 6 93,4
83
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(88)/2018
Bảng 7. Tình hình sử dụng phế phụ phẩm trên một số loại cây trồng chính 
tại 3 xã huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, năm 2016
Bảng 8. Tình hình sử dụng phế phụ phẩm các loại rau tại 3 xã huyện Thái Thụy, Thái Bình, năm 2016
Đối với phụ phẩm từ cây rau củ quả (cà chua, dưa 
chuột, su hào, bí) có tới 70% số hộ sau thu hoạch 
sản phẩm, đắp thành đống trên bờ, trên ruộng trên 
giàn... để khô sau đó đốt, còn lại 30% số hộ thu làm 
phân bón. Với các loại rau ăn lá (cải bắp, su hào, cải 
xanh, súp lơ...) thì có tới 70% số hộ sau khi thu hoạch 
đều bỏ tại ruộng để chúng tự phân hủy, khoảng 
10% thu làm thức ăn cho chăn nuôi. Có khoảng từ 
10 - 20% số hộ dùng cây rau băm nhỏ ủ với phân 
chuồng làm phân, hoặc băm nhỏ rắc xuống ruộng 
lúa. Phế phụ phẩm rau ăn lá còn được người dân thu 
gom làm thức ăn cho chăn nuôi và gia súc gia cầm và 
cá. Vụ rau chính là (vụ đông và vụ Đông - Xuân) do 
lượng phế phụ phẩm từ rau rất lớn, nhưng do chăn 
nuôi nhỏ lẻ, đầu vật nuôi của mỗi hộ không nhiều 
nên phế phụ phẩm chủ yếu bỏ lại trên đồng ruộng, 
đặc biệt các vùng chuyên canh rau, lượng phụ phẩm 
bỏ trên đồng chín là nguồn lây lan sâu bệnh cho các 
vụ tiếp theo (Bảng 8). 
Địa phương
Phế phụ phẩm từ cây lúa Phế phụ phẩm từ cây ngô Phụ phẩm từcây lạc, đậu tương
Bỏ tại 
ruộng 
khô - đốt 
(%)
Thu gom 
làm chất 
đốt (%)
Ủ làm 
phân 
(%)
Bỏ tại 
ruộng 
khô - đốt 
(%)
Thu gom 
làm chất 
đốt (%)
Ủ làm 
phân 
(%)
Bỏ tại 
ruộng 
khô - đốt 
(%)
Thu gom 
làm chất 
đốt (%)
Ủ làm 
phân (%)
Thụy Hà 70% 5% 25% 70% 30% - 50% 20%^ 30%
Thụy Quỳnh 70% 10% 20% 70% 30% - 50% 20% 30%
Thái An 70% 10% 20% 20% 80% - 50% 20% 30%
IV. KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy phế phụ phẩm 
nông nghiệp điều tra ghi nhận tại 3 xã của Thái Thụy 
là Thụy Hà, Thụy Quỳnh và Thái An hàng năm có 
tới 19.857 tấn phụ phẩm thải ra từ sản xuất lúa, ngô, 
đậu đỗ và tới 414 tấn/vụ từ sản xuất 5 loại rau. Trong 
đó có tới 70 % số hộ sau mùa thu hoạch phơi khô và 
đốt, chỉ từ 10 - 30% số hộ dùng làm chất đốt, hoặc 
để sản xuất phân bón hữu cơ. Bên cạnh đó thì việc 
sả thải từ chăn nuôi cũng rất phổ biến gây ô nhiễm 
môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe 
con người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chi cục Thống kê huyện Thái Thụy, 2017. Niên giám 
thống kê huyện Thái Thụy 2016. Nhà xuất bản 
Thống kê.
Phạm Thị Thu Hòa, 2013. Báo cáo tổng kết đề tài cấp 
tỉnh. Nghiên cứu ứng dụng một số chế phẩm, phân 
vi sinh để xử lý phế phụ phẩm nông nghiệp và canh 
tác cây trồng theo hướng an toàn bền vững, nâng cao 
hiệu quả sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình.
Lê Văn Nhương, 1999. Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà 
nước. Nghiên cứu và áp dụng công nghệ sinh học 
trong sản xuất phân bón vi sinh, hữu cơ từ nguồn 
phế thải hữu cơ rắn, Đề tài KC 02- 04. 
Đào Châu Thu, Nguyễn ích Tân, 2006. Sản xuất phân 
hữu cơ từ rác thải hữu cơ sinh hoạt và phế thải nông 
nghiệp để dùng làm phân bón cho rau sạch vùng 
ngoại ô thành phố. Trung tâm Nghiên cứu và Phát 
triển Nông nghiệp bền vững, Trường Đại học Nông 
nghiệp Hà Nội.
Nguyễn Thị Yến, 2011. Báo cáo tổng kết đề tài cấp cơ sở. 
Nghiên cứu kỹ thuật và mô hình tái sử dụng xác hữu 
cơ trong các vùng sản xuất rau.
Okamoto Tamosu, 2011. Production of compost from 
vegetable waste and carbide and its application 
effect on early spring cabbage (Kanagawa Profectual 
Agrcaltural Reseach Institute). Journal title code: 
N 2001 2489 Vol; No. Page. 146-147. 2001. Pub. 
Country. Japan.
Địa phương
Phụ phẩm từ cây rau củ quả Phụ phẩm từ cây rau ăn lá
Bỏ tại ruộng 
khô - đốt 
(%)
Thu gom 
làm chất đốt 
(%)
Ủ làm 
phân (%)
Bỏ tại 
ruộng (%)
Thu gom 
dùng chăn nuôi 
+ khác (%)
Ủ chặt vùi 
tại ruộng 
(%)
ThụyHà 70% - 30% 70% 10% 20%
Thụy Quỳnh 70% - 30% 70% 10% 20%
Thái An 70% - 30% 70% 10% 20%

File đính kèm:

  • pdfhien_trang_quan_ly_va_tai_su_dung_phu_pham_nong_nghiep_tai_m.pdf