Hệ thống thông tin kế toán của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp thuộc tổng cục công nghiệp quốc phòng

Hệ thống thông tin kế toán thu nhận dữ liệu đầu

vào tiến hành lưu trữ, xử lý sau đó lập báo cáo kế

toán để cung cấp cho các đối tượng sử dụng với

những mục đích khác nhau (gồm các đối tượng

bên trong và đối tượng bên ngoài), vì thế HTTT

kế toán có thể được hiểu như là một tập hợp các

nguồn lực (con người, thủ tục) và công cụ (phần

cứng, phần mềm) được thiết kế nhằm thu thập, lưu

trữ, xử lý các dữ liệu kinh tế tài chính và các dữ

liệu khác để cung cấp các thông tin kế toán cho các

đối tượng sử dụng thông qua các báo cáo kế toán.

Mục tiêu quan trọng của việc thiết lập HTTT

kế toán trong doanh nghiệp là đáp ứng được

việc thu nhận đầy đủ và trung thực các dữ liệu

đầu vào, qua đó xử lý các dữ liệu bằng những

phương pháp nhất định, đồng thời nắm bắt nhu

cầu sử dụng thông tin của từng đối tượng để

cung cấp các thông tin hữu ích và phù hợp. Các

dữ liệu đầu vào được ghi nhận trên các chứng từ

kế toán hợp pháp, là cơ sở pháp lý để phản ánh

trên hệ thống tài khoản, sổ kế toán và cuối cùng

được tổng hợp thành các chỉ tiêu phù hợp trình

bày trên các báo cáo kế toán nhằm cung cấp cho

các đối tượng sử dụng thông tin. Trong quá trình

xử lý dữ liệu, việc đạt được mục tiêu này, nghĩa

là xác định một cách rõ ràng và cụ thể cần ghi

nhận, xử lý những thông tin gì, sử dụng phương

tiện gì và phương pháp ghi nhận như thế nào,

đối tượng xử lý và cung cấp thông tin cho những

đối tượng nào

pdf 5 trang kimcuc 18680
Bạn đang xem tài liệu "Hệ thống thông tin kế toán của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp thuộc tổng cục công nghiệp quốc phòng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hệ thống thông tin kế toán của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp thuộc tổng cục công nghiệp quốc phòng

Hệ thống thông tin kế toán của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp thuộc tổng cục công nghiệp quốc phòng
89Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
TAØI CHÍNH QUOÁC TEÁSoá 11 (196) - 2019
Hệ thống thông tin kế toán thu nhận dữ liệu đầu 
vào tiến hành lưu trữ, xử lý sau đó lập báo cáo kế 
toán để cung cấp cho các đối tượng sử dụng với 
những mục đích khác nhau (gồm các đối tượng 
bên trong và đối tượng bên ngoài), vì thế HTTT 
kế toán có thể được hiểu như là một tập hợp các 
nguồn lực (con người, thủ tục) và công cụ (phần 
cứng, phần mềm) được thiết kế nhằm thu thập, lưu 
trữ, xử lý các dữ liệu kinh tế tài chính và các dữ 
liệu khác để cung cấp các thông tin kế toán cho các 
đối tượng sử dụng thông qua các báo cáo kế toán.
Mục tiêu quan trọng của việc thiết lập HTTT 
kế toán trong doanh nghiệp là đáp ứng được 
việc thu nhận đầy đủ và trung thực các dữ liệu 
đầu vào, qua đó xử lý các dữ liệu bằng những 
phương pháp nhất định, đồng thời nắm bắt nhu 
cầu sử dụng thông tin của từng đối tượng để 
cung cấp các thông tin hữu ích và phù hợp. Các 
dữ liệu đầu vào được ghi nhận trên các chứng từ 
kế toán hợp pháp, là cơ sở pháp lý để phản ánh 
trên hệ thống tài khoản, sổ kế toán và cuối cùng 
được tổng hợp thành các chỉ tiêu phù hợp trình 
bày trên các báo cáo kế toán nhằm cung cấp cho 
các đối tượng sử dụng thông tin. Trong quá trình 
xử lý dữ liệu, việc đạt được mục tiêu này, nghĩa 
là xác định một cách rõ ràng và cụ thể cần ghi 
nhận, xử lý những thông tin gì, sử dụng phương 
tiện gì và phương pháp ghi nhận như thế nào, 
đối tượng xử lý và cung cấp thông tin cho những 
đối tượng nào
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói 
chung và các doanh nghiệp thuộc Tổng cục 
Công nghiệp quốc phòng nói riêng, vấn đề tổ 
chức hệ thống thông tin hợp lý nhằm cung cấp 
đầy đủ, chính xác và kịp thời thông tin về kinh 
tế, tài chính cho các đối tượng sử dụng thông tin 
là yêu cầu thiết yếu. Tuy nhiên, để có cơ sở cho 
việc tổ chức hệ thống thông tin kế toán trong 
doanh nghiệp tốt nhất, trước hết phải học hỏi 
kinh nghiệm của các doanh nghiệp ở các nước 
phát triển. 
HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN CỦA MỘT SỐ NƯỚC 
TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO CÁC 
DOANH NGHIỆP THUỘC TỔNG CỤC CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG 
Ths. Đỗ Văn Hợp*
Ngày nhận bài: 4/10/2019
Ngày chuyển phản biện: 6/10/2019
Ngày nhận phản biện: 19/10/2019
Ngày chấp nhận đăng: 23/10/2019
Để có thông tin phục vụ cho công tác điều hành quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp 
đều phải thiết lập cho mình một hệ thống thông tin kế toán phù hợp. Tuy nhiên, cách thức tổ chức hệ 
thống thông tin kế toán của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào tầm quan trọng và vai trò của hệ thống 
thông tin kế toán trong việc quản lý, điều hành hoạt động của doanh nghiệp đó. Bài viết này, nghiên cứu 
kinh nghiệm về hệ thống thông tin kế toán trong các doanh nghiệp của một số nước và rút ra bài học 
kinh nghiệm cho Việt Nam.
• Từ khóa: hệ thống thông tin kế toán; doanh nghiệp quốc phòng; kinh nghiệm.
It is necessary for a company to set up an 
appropriate accounting information system as 
one of supportive sources of information for the 
management. How an accounting information 
system could be organized also strongly depends 
on its significance and its roles to the corporate 
management. This paper will examine accounting 
information systems in several significant oversea 
corporations then suggest learning experience for 
ones in Vietnam.
• Keywords: accounting information system; 
defensive corporations; experience.
* Bộ Quốc phòng
90 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
1. Hệ thống thông tin kế toán của một số 
nước trên thế giới
Ở các nước phát triển, nhà nước quản lý nền 
kinh tế thông qua hệ thống pháp luật rất chặt chẽ 
và minh bạch. Công tác quản lý nhà nước về kế 
toán và tài chính được cụ thể hóa bằng các điều 
luật cụ thể như Luật Kế toán, Luật Thuế, Luật 
Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Đầu tư 
Kế toán được coi là những hoạt động mang tính 
kỹ thuật nghiệp vụ, được hướng dẫn thông qua các 
chuẩn mực kế toán của các Hiệp hội nghề nghiệp, 
hiệp hội kế toán kiểm toán Khác với Việt Nam, 
khung kế toán của các nước phát triển bao gồm 
2 thành phần chủ yếu, đó là Luật Kế toán do nhà 
nước ban hành còn Chuẩn mực Kế toán do Hiệp 
hội nghề nghiệp ban hành.
Về bộ máy kế toán và sử dụng phần cứng:
Các nước có nền kinh tế thị trường phát triển 
như Mỹ, Cộng hòa Pháp, Vương Quốc Anh, Nhật 
Bản, Đức Nhà nước không trực tiếp ban hành 
Chuẩn mực kế toán mà công việc này thường do 
các Hiệp hội nghề nghiệp ban hành. Do kinh tế tư 
nhân phát triển mạnh và công nghệ thông tin tiên 
tiến, việc thực hiện các công việc của kế toán hầu 
như luôn gắn liền với các phương tiện tính toán 
ngày càng hiện đại và có sự kết hợp giữa máy tính 
cá nhân, mạng nội bộ và mạng Internet. Các nhân 
viên trong bộ máy kế toán của các doanh nghiệp 
thường được trang bị kiến thức chuyên môn về kế 
toán, tin học và phân tích dữ liệu. 
Bộ máy kế toán trong các doanh nghiệp bất kể 
mọi quy mô lớn, vừa và nhỏ thường áp dụng mô 
hình tổ chức bộ máy kế toán tập trung với sự hỗ 
trợ đắc lực của hệ thống mạng Internet. Chính hệ 
thống mạng Internet đã tạo ra sự kết nối tất cả các 
cá nhân, bộ phận không những trong phạm vi một 
doanh nghiệp mà nhiều doanh nghiệp với nhau 
trong khuôn khổ cần thiết nhất định. Do vậy, việc 
thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin cho các đối 
tượng được đảm bảo một cách chính xác, kịp thời 
và khắc phục nhiều hạn chế về khoảng cách địa lý, 
thậm chí trên phạm vi toàn cầu của một công ty đa 
quốc gia.
Bộ máy kế toán được bố trí theo các phần hành 
kế toán cụ thể, thường theo mô hình kết hợp giữa 
kế toán tài chính và kế toán quản trị. Trong đó, đặc 
biệt quan tâm đến kế toán quản trị. Vì, sự cạnh 
tranh ngày càng gay gắt, các thông tin về kế toán 
quản trị càng cần thiết được bí mật, đồng thời là 
cơ sở cho nhà quản trị doanh nghiệp quyết định 
phương án kinh doanh hợp lý nhất để thắng thế 
trên thương trường.
Do trình độ khoa học hiện đại và công nghệ tiên 
tiến, kết hợp với khả năng về tài chính dồi dào, 
việc thiết lập cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và 
trang bị phần cứng trong các doanh nghiệp thường 
khá tốt, đầy đủ các phương tiện hiện đại. Bởi vậy, 
rất thuận tiện cho các công việc thu nhận, xử lý, 
phân tích và cung cấp thông tin về mọi hoạt động 
của doanh nghiệp cho các đối tượng cần sử dụng 
thông tin của doanh nghiệp.
Về phần mềm kế toán
Theo tác giả Vũ Bá Anh (2015) thì “đa số DN ở 
Anh, Pháp, Mỹ và Nhật Bản đã sử dụng phần mềm 
giải pháp tổng thể ERP, bên cạnh đó vẫn tồn tại 
nhiều DN sử dụng các phần mềm kế toán riêng biệt 
trong HTTT kế toán”. Với trình độ tin học và trình 
độ chuyên môn về kế toán của các nhân viên kế 
toán được phân công sử dụng cùng với những quy 
định chặt chẽ về chế độ trách nhiệm và chế độ bảo 
mật thông tin nên HTTT kế toán trong các doanh 
nghiệp ở các nước phát triển luôn đảm bảo cung 
cấp đầy đủ, kịp thời thông tin về KTTC và thông 
tin KTQT cho các đối tượng sử dụng với các mục 
đích khác nhau. Các phần mềm kế toán trong các 
doanh nghiệp đảm bảo những yêu cầu của những 
nhân viên kế toán trong bộ máy kế toán như: Thứ 
nhất, phù hợp với chính sách quản lý tài sản và 
quản lý tài chính của doanh nghiệp, chẳng hạn như 
phương pháp quản lý hàng tồn kho, phương pháp 
tính giá hàng xuất, nhập kho, phương pháp kế toán 
tài sản cố định, tính khấu hao tài sản cố định 
Thứ hai, phù hợp với đặc điểm tổ chức bộ máy 
quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như 
đặc điểm của ngành nghề sản xuất kinh doanh, đặc 
điểm của đối tượng kế toán, các tiêu thức quản lý, 
phương pháp tập hợp và phân bổ chi phí, phương 
pháp tính giá thành sản phẩm, Thứ ba, phù hợp 
với quy mô doanh nghiệp và đặc điểm tổ chức bộ 
máy kế toán của doanh nghiệp; Thứ tư, phù hợp 
với yêu cầu cung cấp và xử lý thông tin kế toán; 
Thứ năm, phù hợp với yêu cầu tích hợp dữ liệu 
và hợp nhất báo cáo tài chính; Thứ sáu, phù hợp 
yêu cầu về tốc độ và thời gian xử lý cũng như thời 
điểm cung cấp thông tin Đồng thời, phần mềm 
kế toán phải đảm bảo có tính kiểm soát cao, tính 
linh hoạt và tính phổ biến, ổn định
TAØI CHÍNH QUOÁC TEÁ Soá 11 (196) - 2019
91Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
Về các chính sách, thủ tục kế toán
Về chính sách và thủ tục kế toán ở mỗi nước có 
những quy định riêng phù hợp với luật của từng 
nước. Đối với việc soạn thảo và ban hành các thủ 
tục kế toán ở các nước được thực hiện như sau:
+ Ở Vương quốc Anh, việc soạn thảo và ban 
hành Chuẩn mực kế toán do Ủy ban chuẩn mực kế 
toán quốc gia.
+ Ở Mỹ, việc soạn thảo và ban hành Chuẩn 
mực kế toán do Hội đồng tiêu chuẩn Kế toán tài 
chính thuộc Viện Kế toán Công chứng Hoa kỳ; ở̉ 
Mỹ không quy định hệ thống tài khoản kế toán 
bắt buộc các DN phải sử dụng thống nhất mà các 
DN tùy theo đặc điểm của mình để thu nhận, xử lý 
và cung cấp thông tin kế toán trong quá trình hoạt 
động SXKD. Tuy nhiên, cũng không thể tùy tiện 
mà phải căn cứ vào Chuẩn mực kế toán các doanh 
nghiệp sử dụng Hệ thống tài khoản kế toán kết hợp 
giữa các tài khoản sử dụng cho KTTC và các TK 
kế toán sử dụng cho KTQT. Số hiệu các TK có thể 
từ 2 chữ số trở lên, trong đó, chữ số thứ nhất phản 
ánh loại TK, chữ số thứ 2 phản ánh nhóm TK, chữ 
số thứ 3 phản ánh thứ tự TK trong nhóm Các TK 
được mã hóa rất cụ thể, chi tiết để có thể thu nhận, 
xử lý và cung cấp thông tin phục vụ cho công tác 
quản trị của nhà quản trị trong các doanh nghiệp. 
Các TK gồm 6 loại sau:
- Loại 1: Loại tài khoản phản ánh “tài sản” gồm 
các TK phản á̉nh số hiện có và sự vận động của 
các loại tài sản trong doanh nghiệp. Các TK này 
được sắp xếp theo thứ tự căn cứ vào tính chất luân 
chuyển của tài sản như tiền và các khoản tương 
đương tiền, các khoản nợ phải thu, hàng tồn kho, 
tài sản cố định. TK có 2 chữ số sẽ là các TK 11- 
đến 19, TK 3 chữ số sẽ là TK111 đến TK 199.
- Loại 2: Loại tài khoản phản ánh các khoản nợ 
phải trả, gồm các TK phản ánh số hiện có và sự 
vận động của các khoản nợ phải trả như tài khoản 
phải trả nhà cung cấp, phải trả người lao động, các 
khoản phải trả, phải nộp nhà nước TK có 2 chữ 
số sẽ là các TK 21- đến 29, TK 3 chữ số sẽ là TK 
211 đến TK 299.
- Loại 3: Loại tài khoản phản ánh “nguồn vốn 
của chủ nhân”, gồm các tài khoản phản ánh số hiện 
có và sự vận động của các loại nguồn vốn như TK 
nguồn vốn của chủ sở hữu, nguồn vốn vay, thu 
nhập không chia TK có 2 chữ số sẽ là các TK 
31- đến 39, TK 3 chữ số sẽ là TK 311 đến TK 399.
- Loại 4: Loại tài khoản phản ánh “doanh thu 
hoặc thu nhập”, gồm các tài khoản phản ánh số 
hiện có và sự vận động của doanh thu bán hàng 
và các loại doanh thu khác như TK doanh thu bán 
hàng, TK thu nhập hoạt động tài chính, TK doanh 
thu khác TK có 2 chữ số sẽ là các TK 41- đến 
49, TK 3 chữ số sẽ là TK 411 đến TK 499.
- Loại 5: Loại tài khoản phản ánh “chi phí”, 
gồm các tài khoản phản ánh số hiện có và sự vận 
động của các loại chi phí phát sinh trong quá trình 
hoạt động của doanh nghiệp như TK chi phí sản 
xuất, TK chi phí về tiền lương, TK chi phí về môi 
giới, TK chi phí thuê tài sản, TK chi phí bán hàng, 
TK chi phí quản lý TK có 2 chữ số sẽ là các TK 
51- đến 59, TK 3 chữ số sẽ là TK 511 đến TK 599.
- Loại 6: Loại tài khoản phản ánh “Kết quả kinh 
doanh” gồm các tài khoản phản ánh số hiện có và 
sự vận động của các khoản lãi, lỗ trong kinh doanh 
của doanh nghiệp như TK lãi, lỗ kinh doanh; TK 
lãi, lỗ cổ phần TK có 2 chữ số sẽ là các TK 61- 
đến 69, TK 3 chữ số sẽ là TK 611 đến TK 699.
Về hệ thống báo cáo kế toán gồm 2 loại: Báo 
cáo tài chính là những báo cáo doanh nghiệp lập 
theo nguyên tắc của chuẩn mực kế toán để cung 
cấp cho các cơ quan liên quan của nhà nước như 
Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, 
báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo 
tài chính. Báo cáo KTQT được sử dụng trong các 
doanh nghiệp gồm 2 loại: (i) Báo cáo kiểm soát 
chi phí như báo cáo tình hình chi phí NVLTT, báo 
cáo chi phí NCTT, báo cáo chi phí SXC, báo cáo 
chi phí bán hàng và chi phí QLDN; và (ii) Báo cáo 
định hướng ra quyết định như báo cáo kết quả kinh 
doanh theo nhóm hàng hay báo cáo kết quả kinh 
doanh theo địa điểm kinh doanh; các báo cáo này 
phục vụ thông tin cho nhà quản trị ra các quyết 
định kinh doanh phù hợp.
+ Ở Cộng hòa Pháp, việc soạn thảo Chuẩn 
mực kế toán do Hội đồng quốc gia và được ban 
hành bởi Bộ Tài chính. Trong các doanh nghiệp, 
gồm kế toán tổng quát và kế toán phân tích, có 
thể hiểu rằng kế toán tổng quát chính là kế toán 
tài chính còn kế toán phân tích là kế toán quản trị. 
KTTC bắt buộc đối với tất cả các DN còn KTQT 
thực hiện đến mức độ nào là do yêu cầu cụ thể 
của từng DN. Hệ thống TK được phân chia thành 
9 loại. Từ loại 1 đến loại 8 là các TK kế toán tổng 
quát còn TK loại 9 là tài khoản kế toán phân tích. 
TAØI CHÍNH QUOÁC TEÁSoá 11 (196) - 2019
92 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
Các TK tổng quát từ loại 1 đến loại 8 được chia 
thành các nhóm:
- Nhóm tài khoản trong bảng tổng kết tài sản từ 
loại 1 đến loại 5.
- Nhóm tài khoản dành cho quản lý từ loại 6 
đến loại 7.
- Nhóm tài khoản đặc biệt, phản ánh kết quả và 
phân chia kết quả loại 8.
- Nhóm TK dùng cho KTQT (loại 9). Các 
nghiệp vụ kinh tế phản ánh vào các TK này theo 
những tiêu chuẩn riêng.
Về Hệ thống báo cáo kế toán gồm 2 loại: báo 
cáo kế toán sử dụng cho cơ quan có thẩm quyền và 
báo cáo kế toán sử dụng cho nội bộ doanh nghiệp. 
Báo cáo kế toán sử dụng cho cơ quan có thẩm 
quyền có thể được xem như những báo cáo tài 
chính như Bảng tổng kết tài sản, báo cáo kết quả 
kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Các báo 
cáo này được lập theo định kỳ căn cứ vào số liệu 
của kế toán tổng quát nhằm cung cấp cho các đối 
tượng thuộc các cơ quan có thẩm quyền của nhà 
nước với mục tiêu quản lý nhà nước về tài chính 
kế toán đối với các DN.
Báo cáo sử dụng trong nội bộ doanh nghiệp 
phục vụ cho nhà quản trị trong việc kiểm soát tình 
hình chi phí, doanh thu và lợi nhuận như báo cáo 
chi phí, giá thành và báo cáo kết quả hoạt động kinh 
doanh theo những tiêu thức khác nhau như báo cáo 
chi phí theo nhóm hàng, chi phí theo địa điểm phát 
sinh chi phí, báo cáo doanh thu, lợi nhuận theo 
nhóm hàng, theo địa điểm kinh doanh
+ Ở Nhật Bản, việc soạn thảo và ban hành Chuẩn 
mực kế toán do Hội đồng quốc gia thuộc Bộ Tài 
chính. Các doanh nghiệp dựa trên cơ sở các chuẩn 
mực kế toán đã ban hành và những điều kiện cụ 
thể của doanh nghiệp để sử dụng tài khoản kế toán. 
Các doanh nghiệp của Nhật Bản tùy theo yêu cầu 
quản lý cụ thể để sử dụng TK kế toán gồm các TK 
sử dụng cho KTTC và các TK sử dụng cho KTQT. 
Một số doanh nghiệp kết hợp tài khoản kế toán sử 
dụng cho KTTC và tài khoản sử dụng cho KTQT 
trên cùng một hệ thống tài khoản kế toán còn nhiều 
doanh nghiệp tách biệt giữa các tài khoản sử dụng 
cho KTTC và tài khoản sử dụng cho KTQT trên 2 
hệ thống khác nhau. Các TK sử dụng cho kế toán 
tài chính được đánh số ký hiệu tùy thuộc vào loại 
tài khoản như các tài khoản phản ánh tài sản, các 
tài khoản phản ánh các khoản nợ, các tài khoản 
phản ánh nguồn vốn, các tài khoản phản ánh doanh 
thu và các tài khoản phản ánh kết quả kinh doanh. 
Các tài khoản sử dụng cho kế toán quản trị được 
mã hóa theo từng mã phù hợp với yêu cầu quản trị 
với những chỉ tiêu quản trị nhất định.
Hệ thống báo cáo kế toán sử dụng trong các 
doanh nghiệp Nhật Bản cũng bao gồm 2 loại: Các 
báo cáo kế toán sử dụng cho các cơ quan nhà nước 
và các đối tượng bên ngoài và các báo cáo kế toán 
phục vụ cho nhà quản trị trong doanh nghiệp.
2. Bài học kinh nghiệm 
Qua nghiên cứu HTTT kế toán của một số quốc 
gia phát triển trên thế giới, có thể rút ra một số 
bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt 
Nam nói chung và các doanh nghiệp thuộc Tổng 
cục Công nghiệp Quốc phòng nói riêng như sau:
Một là, xây dựng hệ thống thông tin kế toán 
trong các doanh nghiệp cần đáp ứng được yêu cầu 
hội nhập kinh tế nói chung và hội nhập quốc tế về 
kế toán nói riêng ngày càng sâu rộng. Song, vẫn 
phải chú ý đến đặc điểm cụ thể về sự phát triển 
chung của nền kinh tế nước ta trong từng thời kỳ 
nhằm đáp ứng được yêu cầu quản lý của các cơ 
quan có thẩm quyền của nhà nước cũng như yêu 
cầu quản trị nội bộ doanh nghiệp. 
Mỗi nước có chế độ chính trị khác nhau, trình 
độ phát triển kinh tế - xã hội cũng không giống 
nhau, do đó không thể áp dụng nguyên bản những 
kinh nghiệm về tổ chức hệ thống thông tin kế toán 
của doanh nghiệp các nước vào bối cảnh phát triển 
kinh tế nước ta hiện nay. Điều đó, nghĩa là cần thiết 
phải xuất phát từ bối cảnh chung của quốc tế và bối 
cảnh thực tế hiện tại của nước ta trong giai đoạn 
hiện nay để lựa chọn áp dụng những vấn đề thích 
hợp nhất.
Hai là, trong lĩnh vực kế toán, nhà nước không 
nhất thiết phải ban hành các Chuẩn mực kế toán để 
áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi loại 
hình sở hữu mà nhà nước chỉ cần ban hành Luật 
Kế toán còn Hội nghề nghiệp, cụ thể là Hội Kế 
toán hành nghề phải là nơi soạn thảo, ban hành và 
hướng dẫn Chuẩn mực Kế toán Việt Nam (VAS) 
cho các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế.
Ba là, xây dựng HTTT kế toán trong doanh 
nghiệp thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng 
cần đảm bảo phù hợp với đặc điểm đặc thù của 
mỗi doanh nghiệp hoạt động trên những lĩnh vực 
TAØI CHÍNH QUOÁC TEÁ Soá 11 (196) - 2019
93Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
khác nhau, đồng thời phải tuân thủ Luật Kế toán 
và những nguyên tắc của Chuẩn mực kế toán Việt 
Nam. Theo đó, các doanh nghiệp thuộc Tổng cục 
Công nghiệp Quốc phòng cần phải căn cứ vào 
đặc điểm cụ thể của doanh nghiệp để tổ chức Hệ 
thống thông tin kế toán phù hợp. Các đặc điểm 
đó, bao gồm đặc điểm về tổ chức bộ máy quản lý 
của doanh nghiệp; đặc điểm tổ chức sản xuất kinh 
doanh; đặc điểm về sản phẩm, hàng hóa sản xuất, 
kinh doanh; đặc điểm về trình độ chuyên môn và 
trình độ công nghệ thông tin của đội ngũ nhân viên 
kế toán; đặc điểm về khả năng tài chính của doanh 
nghiệp... Có như vậy, tổ chức hệ thống thông tin 
kế toán của doanh nghiệp mới có thể đáp ứng được 
mục tiêu đề ra.
Bốn là, xây dựng HTTT kế toán trong doanh 
nghiệp thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng 
cần phải kết hợp giữa việc xây dựng HTTT kế 
toán tài chính và HTTT kế toán quản trị nhằm 
đảm bảo cung cấp thông tin phù hợp với mục tiêu 
sử dụng của các nhóm đối tượng khác nhau như 
các cơ quan liên quan của nhà nước, các nhà cung 
cấp, nhà đầu tư và các nhà quản trị trong doanh 
nghiệp. Mỗi đối tượng khác nhau có mục đích sử 
dụng thông tin khác nhau. Đối với các đối tượng 
bên ngoài chỉ cần thiết sử dụng thông tin về kế 
toán tài chính thông qua các báo cáo tài chính của 
doanh nghiệp còn đối với các đối tượng bên trong, 
thông tin kế toán rất cần thiết cho việc ra quyết 
định kinh tế của nhà quản trị. Do vậy, hệ thống 
thông tin kế toán của doanh nghiệp cần đáp ứng cả 
hai loại đối tượng này. Điều đó đặt ra cho việc sử 
dụng hệ thống thu nhận, xử lý, phân tích và cung 
cấp thông tin cho mỗi đối tượng có sự khác nhau 
về dữ liệu. Đối với các đối tượng bên ngoài, thông 
tin cung cấp một cách tổng quát, tổng hợp, còn các 
đối tượng bên trong, nhất thiết thông tin phải được 
rất chi tiết, tỷ mỷ theo yêu cầu quản trị của nhà 
quản trị doanh nghiệp.
Năm là, hệ thống thông tin kế toán trong các 
doanh nghiệp thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc 
phòng cần được xây dựng theo hướng “mở”, 
không nên quá cụ thể, chi tiết như các mẫu chứng 
từ kế toán, mẫu sổ kế toán, mẫu báo cáo kế toán... 
để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể phát 
huy tính tự chủ, sáng tạo trong việc thu nhận, xử 
lý và cung cấp thông tin kế toán. Theo đó, khi ban 
hành các quy định của Chế độ kế toán cần có một 
khoảng rộng cần thiết để các doanh nghiệp có thể 
vận dụng trong khung này phù hợp. Ví dụ chứng 
từ kế toán, các doanh nghiệp có thể thiết kế mẫu 
chi tiết, cụ thể để sử dụng cho kế toán quản trị theo 
từng chỉ tiêu quản trị cụ thể và được mã hóa phù 
hợp cho mỗi doanh nghiệp hoặc tài khoản kế toán, 
các doanh nghiệp có thể xây dựng theo nhiều cấp 
độ và tổ chức mã hóa tài khoản để phục vụ cho kế 
toán quản trị...
Sáu là, cần có kế hoạch và có lộ trình xây dựng 
cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin phù hợp với khả 
năng tài chính của doanh nghiệp; thực hiện chế độ 
đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn về kế 
toán, về công nghệ thông tin và nâng cao đạo đức 
nghề nghiệp đối với đội ngũ người làm kế toán 
nhằm đảm bảo cho việc thu nhận, xử lý, phân tích 
và cung cấp thông tin có chất lượng, kịp thời và 
thực hiện chế độ bảo mật thông tin. Tùy theo năng 
lực tài chính của mỗi DN mà có thể trang bị cơ sở 
hạ tầng phù hợp. Song, cần đảm bảo yêu cầu cơ 
bản về cơ sở hạ tầng công nghệ (phần cứng, phần 
mềm) được trang bị đầy đủ để triển khai một số 
ứng dụng thường xuyên của DN như trang bị máy 
tính, thiết lập mạng LAN, kết nối internet, môi 
trường truyền thông giữa các bộ phận trong nội bộ 
cũng như giữa các đối tác, đồng thời phải đào tạo 
được đội ngũ nhân lực đủ trình độ để sử dụng cơ sở 
hạ tầng trên vào các hoạt động tác nghiệp và hoạt 
động quản lý của DN. Việc đào tạo, bồi dưỡng 
người làm kế toán trực tiếp trên các phần mềm kế 
toán phải được lập kế hoạch dài hạn và đạt được 
trình độ nhất định như: có thể truy xuất thông tin 
dữ liệu từ phần mềm kế toán qua Microsoft Excel 
để xem xét các sổ kế toán, các báo cáo của đơn vị 
kế toán; kiểm soát được “dấu vết điều chỉnh, sửa 
chữa” phần hành kế toán do mình phụ trách,
Tài liệu tham khảo:
Vũ Bá Anh (2015),“Hoàn thiện hệ thống thông tin kế 
toán trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong điều 
kiện ứng dụng công nghệ thông tin”.
 Gelinas và cộng sự (1999) “Accounting information 
systems”.
53.Romney M.B, Staibart Paul John (2012), Accouting 
Information System, Prentice-hall edition,12th edition USA.
Marshall Romney, Paul Steibart (2006), Accounting 
Information, Systems Pearson, Prentice Hall.
Zsuzsanna Tóth (2012), The Current Role of Accounting 
Information Systems, Club of Economics in Miskolc’, Vol 8, 
Nr 1, pp 91-95.
TAØI CHÍNH QUOÁC TEÁSoá 11 (196) - 2019

File đính kèm:

  • pdfhe_thong_thong_tin_ke_toan_cua_mot_so_nuoc_tren_the_gioi_va.pdf