Giáo trình Tâm lý học mầm non - Phần 2
Tình huống trò chơi và những hành động chơi ảnh hưởng tới sự phát triển của hoạt động trí tuệ của trẻ mẫu giáo. Trong trò chơi đứa trẻ học hành động với vật thay thế đối tượng thực, đặt tên mới cho đối tượng là vật thay thế, hành động phù hợp với tên gọi này. Đối tượng thay thế trở thành chỗ dựa đối với tư duy. Trên cơ sở những hành động với các đối tượng thay thế đứa trẻ học suy nghĩ với đối tượng thực. Dần dần những hành động chơi với đối tượng được rút gọn, đứa trẻ học suy nghĩ về các đối tượng và hành động với chúng trong diện tinh thần. Như vậy, trò chơi góp phần rất lớn vào việc chuyển đứa trẻ sang tư duy trong diện biểu tượng.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tâm lý học mầm non - Phần 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Tâm lý học mầm non - Phần 2
66 CHƯƠNG III ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ MẪU GIÁO (3 - 6) TUỔI. 1. HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI CỦA TRẺ MẪU GIÁO. 1.1. Đặc điểm cơ bản của hoạt động vui chơi: * Tính tự do: Tự do là đặc điểm nổi bật, chủ yếu của trò chơi, tính tự do thể hiện ở việc trẻ tự nguyện tham gia vào trò chơi mình thích, tự chọn bạn chơi, tự lựa chọn đồ chơi mà mình cần, tự chơi theo cách trẻ biết, không chơi nữa nếu không hứng thú. Nguyên cớ thúc đẩy trẻ chơi là tính hấp dẫn của trò chơi. * Tính tự lực, tự điều khiển (độc lập). Biểu hiện ở ý thức làm chủ, hoạt động hết mình, tích cực, độc lập, người lớn không thể áp đặt hay chơi hộ trẻ, chỉ có thể hội ý, hướng dẫn mà thôi. Chẳng hạn, người thực hiện tham gia và trò chơi tiêm cho bệnh nhân - trẻ lấy “cồn tưởng tượng” lau vàobúp bê rồi tiêm.Người làm thực thực nghiệm nói “ các cháu tiêm đi rồi cô lấy còn thật lau sau”- Các cháu từ chối vì điều đó trái với luật chơi. * Trò chơi của trẻ giàu tính xúc cảm. Tính cách là một phần cơ sở của trẻ, trẻ sống được trong trò chơi của mình, trong khi chơi trẻ thể nghiệm các xúc cảm lo lắng, bực bội, thích thú, mừng rỡ một cách hết sức chân thật. Xúc cảm của trẻ khi chơi thường gắn liền với vai chơi hay chiều hướng thắng bại của các trò chơi có yếu tố thi đấu. Khi chơi trẻ bộc lộ xúc cảm của mình qua điệu bộ, nét mặt, giọng nói... Trẻ trong vai bà mẹ có con đau ốm tỏ ra lo lắng, buồn phiền; Trò chơi “mèo đuổi chuột” -trẻ trong vai chuột sợ hãi, khiếp sợ khi mèo đến gần, con mèo thì ré lên khoái trá khi vồ được chuột. * Trò chơi giàu tính sáng tạo ( mang tính cách ký hiệu - tượng trưng) Sự sáng tạo và trí tưởng tượng của trẻ thể hiện ở nhiều khía cạnh của trò chơi: Nội dung, đồ chơi, địa điểm, hành động chơi... 67 * Trò chơi của trẻ phản ánh môi trường xã hội mà trẻ sống. Quan sát trò chơi ta có thể nhận thấy dấu ấn của thời gian, của những điều kiện, hoàn cảnh sống đem lại cho trẻ. Khi chơi, trẻ nhận thức thế giới sung quanh một cách tích cực hơn và thể nghiệm lại những thực tế đã có. 1.2. vai trò của hoạt động vui chơi đối với sự phát triển tâm lý của trẻ. Những phẩm chất tâm lý và những đặc điểm nhân cách của trẻ mẫu giáo được phát triển mạnh mẽ trong hoạt động vui chơi. Hoạt động vui chơi làm ảnh hưởng đến sự hình thành tính chủ định của quá trình tâm lý. ( Trong trò chơi trẻ bắt đầu phát triển chú ý có chủ định) . Bản thân những điều kiện của trò chơi đòi hỏi đứa trẻ phải tập trung vào những đối tượng dựa vào tình huống trò chơi, tập trung vào nội dung của hành động chơi và nội dung của chủ đề. Nếu đứa trẻ không chú ý vào điều mà tình huống trò chơi trước mắt đòi hỏi ở nó, nếu nó không nhớ điều kiện của trò chơi thì nó dứt khoát bị các bạn đuổi đi. Tình huống trò chơi và những hành động chơi ảnh hưởng tới sự phát triển của hoạt động trí tuệ của trẻ mẫu giáo. Trong trò chơi đứa trẻ học hành động với vật thay thế đối tượng thực, đặt tên mới cho đối tượng là vật thay thế, hành động phù hợp với tên gọi này. Đối tượng thay thế trở thành chỗ dựa đối với tư duy. Trên cơ sở những hành động với các đối tượng thay thế đứa trẻ học suy nghĩ với đối tượng thực. Dần dần những hành động chơi với đối tượng được rút gọn, đứa trẻ học suy nghĩ về các đối tượng và hành động với chúng trong diện tinh thần. Như vậy, trò chơi góp phần rất lớn vào việc chuyển đứa trẻ sang tư duy trong diện biểu tượng. Trò chơi ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triên ngôn ngữ. Tham gia chơi cùng nhóm bạn là điều kiện để trẻ sử dụng phương tiện giao tiêp bằng ngôn ngữ, đồng thời trẻ có cơ hội thể hiện trình độ ngôn ngữ của mình. Tình huống trò chơi đòi hỏi mỗi đứa trẻ tham gia trò chơi phải có một trình độ giao tiếp ngôn ngữ nhất định. Nếu đứa trẻ không thể diễn đạt mạch lạc nguyện vọng của mình đối với tiến trình của trò chơi, nếu nó không hiểu 68 những lời chỉ dẫn của bạn cùng chơi, nó sẽ trở thành gánh nặng đối với các bạn cùng tuổi. Chính điều đó kích thích sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Trò chơi ĐVTCĐ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển trí tưởng tượng (Đóng vai ? làm gì ? làm như thế nào ? ). Trong hoạt động vui chơi đứa trẻ học thay thế các đối tượng này bằng các đối tượng khác, nhận đóng những vai khác nhau. Năng lực này là cơ sở của sự phát triển óc tưởng tượng. Trẻ biết xây dựng những tình huống mới trong trí tưởng tượng của mình. Bé trai tưởng tượng mình là “chỉ huy” lái tàu vượt qua đại dương, tưởng tượng mình là lực sĩ, anh hùng...bé gái tưởng tượng mình là cô tiên, công chúa... Trẻ tưởng tượng ra các đồ vật thay thế: Lấy gậy, cỏ quấn lên đầu làm vòng hoa, lấy khăn làm váy, lấy gối làm em bé... Trò chơi giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng không chỉ bình diện bên ngoài mà còn phát triển ở bình diện bên trong ( trong óc, tưởng tượng ngầm). Ví dụ: Bé gái nhìn tấm ảnh có cô gái đứng cạnh con búp bê và cái máy khâu, bé nói “cô gái đang nghĩ cách may áo cho em bé”, Bé đang chơi với con búp bê, mẹ gọi đi ăn cơm bé nói “ để cho em bé ngủ đã ”. Như vậy, trò chơi giúp trẻ trí tưởng tượng hướng nội( tưởng tượng thầm bên trong). Đây là dạng tưởng tượng đích thực. Ảnh hưởng của trò chơi tới sự phát triển nhân cách. Thông qua trò chơi trẻ tìm hiểu những mỗi quan hệ qua lại của người lớn mà đứa trẻ coi là mẫu mực đối với hành vi của nó, Trong trò chơi, trẻ cũng rèn luyện được những kĩ xảo giao tiếp cơ bản, những phẩm chất tâm lý cần thiết để giao tiếp với các bạn. Trò chơi góp phần phát triển tình cảm và điều khiển hành vi bằng ý chí. Khi phản ánh vào tính chất những mối quan hệ giữa người và người thì những suy nghĩ mang tính người được gợi lên ở trẻ, trẻ thể hiện thái độ buồn, vui vào hoàn cảnh được tạo nên bởi trí tưởng tượng. Trẻ nhập vai người mẹ thực sự buồn đau khi con bị ốm. “Thuyền trưởng” vui mừng khi đưa tàu vượt qua giông bão. 69 Qua trò chơi, những phẩm chất ý chí được hình thành như tính mục đích, tính kỷ luật, tính dũng cảm. Những đức tính này do nội dung trò chơi quyết định. Vai người lính gác thì phải thực hiện kỷ luật nghiêm minh; Y tá thì tận tình, chu đáo; Người mẹ thì dịu hiền yêu thương con; Cô giáo thì vui tươi, nhẹ nhàng... Trò chơi là phương tiện phát triển toàn diện nhân cách của trẻ, qua việc phát triển chức năng tâm lý mà phát triển các mặt nhân cách: Trí tuệ, thể chất, hoạt động, thẩm mỹ. 1.3. Trò chơi đóng vai trò theo chủ đề ( ĐVTCĐ ). 1.3.1. Khái niệm: Trò chơi Đóng vai theo chủ đề là hoạt động phản ánh cuộc sống sinh hoạt của xã hội, những mối quan hệ giữac người với người và lao động của họ. Thế giới xung quanh, cuộc sống, con người là nguồn nguyên liệu làm nên trò chơi ĐVTCĐ. 1.3.2 Cấu trúc của trò chơi đóng vai theo chủ đề. *Chủ đề chơi và nội dung chơi Chủ đề của trò chơi: Là tên gọi khái quát của trò chơi nào đó. Chủ đề chơi nói lên một cách chung nhất phạm vi hiện thực được phản ánh trong trò chơi. Nội dung của trò chơi. Nội dung chơi trong trường hợp này là khía cạnh hiện thực được phản ánh trong trò chơi. Nội dung chơi có thể là hành động, công việc của người mà trẻ đóng vai, có thể là quan hệ, thái độ của họ với người khác, cũng có thể là đặc điểm cá nhân đã gây ấn tượng ở trẻ ( giọng nói, cách đi đứng, ăn mặc...) VD: Trò chơi bác sĩ Trong nội dung của trò chơi, trẻ tái tạo lại hành động của người bác sĩ ( cách tiêm, cách hỏi han, cách chăm sóc bệnh nhân). Thể hiện mối quan hệ xã hội bên trong như mặt tình cảm, đạo đức... Đối với nội dung trò chơi người lớn cần xem xét khía cạnh tích cực hay tiêu cực của mảng hiện thực mà trẻ em tái tạo vì đời sống xã hội phong phú và 70 phức tạp - bên cạnh cái tốt, người tốt còn có người xấu, việc xấu từ đó giúp trẻ có những chủ đề chơi phong phú và nội dung chơi lành mạnh. Chủ đề chơi có thể giống nhau ở một lứa tuổi những nội dung trẻ chơi theo cách khác nhau ở mỗi lứa tuổi. Chơi trò nấu nướng: đứa trẻ nhỏ: nấu cơm, ăn, rửa bát, ở đây trẻ hành động như nhau ở cùng nhóm trẻ. Những trẻ mẫu giáo lớn thể hiện được mối quan hệ xã hội: ai nấu cơm, ai rửa rau, ai được mới ăn cơm trước, ái rửa bát... Thể hiện mối quan hệ xã hội bên trong: Mời người lớn ăn trước ( nếu là đóng vai bố, mẹ, ông bà...) phục tùng những quy tắc xã hội ( biết cách đối sử đúng chuẩn mực xã hội ) *Vai chơi và hành động chơi. Vai chơi: Thể hiện ở chỗ trẻ thực hiện những trách nhiệm của vai đó thì đồng thời cũng thực hiện những quyền lực đối với những thành viên khác tham gia trò chơi. Vai là yếu tố quan trọng để tạo nên trò chơi. Đóng vai có nghĩa là tái tạo lại hành động của một người lớn trong những mối quan hệ nhất định với những người xung quanh. Trong vai chơi trẻ nhận làm chức năng xã hội của một người nào đó, thường là chức năng mang tính chất nghề nghiệp. VD: Lái xe, dạy học, bán hàng, đầu bếp, người lính, bác sĩ... Đóng vai là con đường để trẻ xâm nhập vào cảm xúc của người lớn. Muốn trở thành vai nào đó trong trò chơi thì phải biết thực hiện hành động của vai đó và hiểu biết nhất định về vai đó ( hiểu biết sinh hoạt và hành động của vai đó). Bác sĩ là ai? làm việc gì? khi nào thì người ta tìm đến bác sĩ, bác sĩ làm việc ở đâu...? Vốn hiểu biết của trẻ tăng lên khi chơi chung với bạn. Đóng vai một người nào đó khi chơi, trẻ sống trong một bối cảnh tưởng tượng mà nhân vật đó đang có mặt và hành động phù hợp với bối cảnh tưởng tượng đó, trẻ thực sự “sống” trong trí tưởng tượng và thực sự thể nghiệm những xúc cảm tương ứng nảy sinh. 71 VD: Trò chơi “gia đình”trẻ đóng vai bà mẹ dẫn con đến trường: Trẻ tỏ ra vội vã, tất bật, tay xách giỏ, tay xách búp bê giục “ nào, nhanh lên kẻo trễ giờ”. Đóng vai người lớn, trẻ có điều kiện thể nghiệm thái độ ứng xử, hành vi ý thức trách nhiệm trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong lao động. Hành động chơi: Hành động chơi còn gọi là hành động vai. Hành động chơi ( hành động vai ) là cách thức trẻ thể hiện vai chơi. Hành động chơi phong phú: Trẻ đóng vai bằng cử chỉ, điệu bộ ( tiêm, bế em, xúc cơm...) lời nói, nét mặt. qua cách trang phục, đi đứng... VD: Giáo viên có hành động - giảng bài; Bác sĩ - khám bệnh, kê đơn Y tá - chăm sóc bệnh nhân Nhưng thao tác hành động phụ thuộc vào đồ chơi ( vật thay thế) Chẳng hạn,Trẻ lấy gậy thay ngựa thì thao tác phải phù hợp với gậy chứ không phải với ngựa. Đây là hành động mô phỏng. Hành động mô phỏng nằy không nhằm vào kết quả mà nhằm vào quá trình chơi. Bé lái tàu vượt qua sóng gió, mục đích không phải để cập bến mà chỉ diễn tả hành động chỉ huy con tàu, thao tác lái tàu. Do đó hành động chơi không đòi hỏi phải có thao tác đúng kĩ thuật mà chỉ mô phỏng theo hình thức và mang tính kết quả. * Quan hệ chơi và quan hệ thực. Quan hệ chơi: Còn gọi là quan hệ giữa các vai chơi theo chủ đề nhất định, mô phỏng mối quan hệ của người lớn trong xã hội. Ví dụ: Mẹ - con; cô - cháu; bác sĩ - bệnh nhân... Quan hệ thực: Là quan hệ giữa trẻ với nhau trong khi chơi, loại quan hệ này đóng vai trò to lớn trong khâu tổ chức trò chơi và được phát sinh trong quá trình chơi. VD: Trò chơi “bệnh viện” trẻ phân vai: Ai là bác sĩ, ai là y tá, ai là bệnh nhân, trò chơi diễn ra như thế nào, cần đồ vật gì? trẻ còn giao hẹn “không được làm như thế kia”... 72 Do đó trò chơi ĐVTCĐ chứa đựng nhiều mối quan hệ. Chẳng hạn, trò chơi bệnh viện có các mối quan hệ: Bác sĩ - Bệnh nhân; Bác sĩ- Y tá; Y tá - Bệnh nhân; Người nhà Bệnh nhân - Bác sĩ - Y tá. Trò chơi của trẻ đó chính là cái xã hội người lớn thu nhỏ lại và cũng chứa đầy những mối quan hệ phức tạp. Những mối quan hệ xã hội được mô phỏng vào trò chơi làm nảy sinh luật lệ hành động của các vai, buộc trẻ phải tuân theo như là những quy tắc xã hội - nghĩa là trẻ chấp nhận chuẩn mực của đời sống xã hội. Bác sĩ - Ytá phải chăm sóc bệnh nhân tận tình; Mua hàng phải trả tiền, xếp hàng không được chen lấn, phải biết cảm ơn, xin lỗi. Như vậy: Luật lệ hành động của các vai được nảy sinh từ các mối quan hệ được xác định giữa những trẻ em tham gia cùng chơi (trò chơi). * Đồ chơi và hoàn cảnh chơi. Để cho hoạt động vui chơi được tiến hành, cần phải có đồ chơi. Có hai loại đồ chơi: Đồ chơi do người lớn làm cho trẻ: Mô phỏng lai những đồ vật thực, đó là con búp bê, cái bát, chén, thìa bằng nhựa, ôtô, tàu hoả, máy bay...được gọi là đồ chơi hiện tượng. Đồ chơi là những vật thay thế cho đồ vật khác: Trong khi thực hiện hành động của vai chơi trẻ không có được những đồ vật tương ứng. Để cho hành động được tiến hành theo chủ đề và nội dung trò chơi, trẻ cầm lấy đồ vật khác thay thế cho đồ vật tương ứng. Chơi trò lái tàu: trẻ lấy ghế làm tàu hoặc đứng trên tấm ván lấy gậy thay ngựa - chơi trò “đua ngựa”, chơi trò bán hàng - lấy giấy, lá làm tiền... Do đồ chơi chỉ là đồ vật thay thế nên thao tác chơi của trẻ không trùng với hành động của vai, điều đó làm nảy sinh hoàn cảnh tưởng tượng - hoàn cảnh chơi ( chính là hoàn cảnh tưởng tượng) được sinh ra từ hoàn cảnh chơi, nếu trẻ không chơi thì không nảy sinh hoàn cảnh chơi. Chơi trò lái tàu thuỷ: Một nhóm trẻ chơi lần đầu chúng chỉ làm động tác lái tàu bình thường, một trẻ làm thuyền trưởng, trẻ khác bốc vác, kéo dây...một 73 chốc có trẻ hét lên: “tàu sắp va vào đá” cả nhóm trẻ nháo nhác... sau đó “thuyền trưởng” lại kêu “có bão” bọn trẻ nhao nhác tìm phao, hạ buồm... Trong quá trình thực hiện vai chơi, Trẻ tưởng tượng ra nhiều tình huống khác nhau. Bình thường, nếu không chơi, trẻ nói: “ Ai lại lấy cái ghế làm tàu” “ ai lại lấy giấy làm tiền sao được”. * Đồ chơi và hoàn cảnh chơi. Để cho hoạt động vui chơi được tiến hành, cần phải có đồ chơi. Có hai loại đồ chơi: Đồ chơi do người lớn làm cho trẻ: Mô phỏng lai những đồ vật thực, đó là con búp bê, cái bát, chén, thìa bằng nhựa, ôtô, tàu hoả, máy bay...được gọi là đồ chơi hình tượng. Đồ chơi là những vật thay thế cho đồ vật khác: Trong khi thực hiện hành động của vai chơi trẻ không có được những đồ vật tương ứng. Để cho hành động được tiến hành theo chủ đề và nội dung trò chơi, trẻ cầm lấy đồ vật khác thay thế cho đồ vật tương ứng. 2. CÁC DẠNG HOẠT ĐỘNG KHÁC CỦA TRẺ MẪU GIÁO. 2.1 Sự phát triển các dạng hoạt động sáng tạo. Hoạt động vui chơi không phải là hình thức vận động duy nhất ảnh hưởng đến hoạt động tâm lý của Trẻ mà những hình thức vận động tạo ra sản phẩm ( Tranh vẽ, công trình xây dựng, tranh cắt dán, nặn, ) cũng ảnh hưởng đặc biệt đến sự hát triển của Trẻ. Hoạt động sáng tạo bao gồm hoạt động tạo hình và hoạt động xây dựng lắp ghép. *Hoạt động tạo hình (vẽ, nặn, xé, dán). Mầm mống của hoạt động tạo hình xuất hiện ở tuổi lên 3 - trong hoạt động tạo hình người ta chú ý đến tranh vẽ của trẻ. Lên hai tuổi, đứa trẻ thường vẽ những nét ngoằn ngoèo.Lên ba đứa trẻ vẫn tiếp tục vẽ tranh những nét ngoằn ngoèo và đôi khi nó đã cố gắng vẽ đúng đối tượng nó muốn diễn tả. Trẻ vẽ một người không có tóc, chân tay và thân. “nghệ thuật”vẽ của nó khác xa với sự hiểu biết của nó Lên bốn tuổi: Trẻ vẽ tranh có tính chất sơ đồ, nét vẽ xấu xí, sai lệch các yếu tố cần thiết, không cân đối; miêu tả chi tiết thừa. Ví dụ: Vẽ 74 người thiếu tay, đầu nhỏ hơn thân, mắt ngoài tai. Lên 5 tuổi bức vẽ của trẻ có tiến bộ hơn Thường thì trẻ v ... , trong động cơ đạo đức có thêm yếu tố thi đua giữa các bạn, yếu tố thi đua kích thích trẻ hoat động một cách tích cực. Có thể nhận thấy động cơ của trẻ MG Nhỡ và MG lớn trở nên phong phú: Động cơ muốn tự khẳng định mình; Động cơ muốn nhận thức; Động cơ thi đua; Động cơ xã hội...Tuy nhiên trong các động cơ xã hội có pha trộn giữa mặt tích cực và tiêu cực, do đó cần phải quan tâm đến nội dung động cơ của trẻ, phát huy động cơ tích cực và ngăn chặn động cơ tiêu cực. Sự biến đổi động cơ hành vi ở tuổi MG Nhỡ và Lớn không chỉ thể hiện ở mặt nội dung của động cơ với sự xuất hiện nhiều động cơ mới mà còn bắt đầu 102 hình thành hệ thống thứ bậc các động cơ- đó là cấu tạo tâm lý mới trong sự phát triển nhân cách của trẻ MG. Trong hệ thống thứ bậc này các động cơ được sắp xếp theo ý nghĩa quan trọng của mỗi động cơ đối với bản thân trẻ. Chẳng hạn khi cô giao nhiệm vụ trẻ phải vẽ bức tranh tặng mẹ nhân ngày 8.3, ở trẻ không phải có một động cơ thúc đẩy mà có nhiều động cơ như: Trẻ muốn khẳng định khả năng của mình; Mẹ sẽ khen giỏi và yêu mình hơn; Muốn đem lại niềm vui cho mẹ...Những động cơ này thường không tồn tại ngang nhau. Mỗi đứa trẻ có một động cơ nào đó chiếm vị trí hàng đầu. Cháu A là công việc yêu thích; Cháu B muốn chứng tỏ khả năng của mình; Cháu C muốn làm cho mẹ vui lòng...Như vậy, trước mỗi công việc, mỗi trẻ đều có thể có một hệ thống động cơ thúc đẩy. Sự khác nhau giữa trẻ em biểu hiện trong hệ thống thứ bậc động cơ- đó là động cơ nào chiếm ưu thế. Hệ thống thứ bậc động cơ được hình thành ở tuổi này khiến cho toàn bộ hành vi của trẻ nhằm theo xu hướng nhất định. Đây là điểm khác so với trẻ MG bé. Hành vi của trẻ MG bé thường không xác định. Trẻ vừa cùng mẹ dọn dẹp căn phòng gọn gàng, lập tức xé giấy bừa bãi, vứt lung tung. Trẻ MG Nhỡ và Lớn hành vi tương đối xác định, nếu trẻ có động cơ xã hội- muuốn đem lại niềm vui cho người khác nổi lên hàng đầu thì trẻ sẽ cố gắng thực hiện hành vi mang tính đạo đức tốt đẹp. Ngược lại, nếu động cơ nhằm đem lại ý thích cho bản thân chiếm ưu thế thì trẻ sẽ có những hành vi vì lợi ích cá nhân, ích kỷ sẽ dẫn đến sai phạm nghiêm trọng về quy tắc đạo đức xã hội. Như vậy có thể thấy rằng hành vi của trẻ MG Lớn mang tính xã hội rõ rệt, hay còn gọi là hành vi mang tính nhân cách. 4.3. Đời sống tình cảm. Ơ trẻ em, tình cảm chi phối tất cả các mặt trong hoạt động tâm lý. Tuổi MG, tình cảm của trẻ có một sự chuyển biến mạnh mẽ, vừa phong phú, vừa sâu sắc. 103 Tình cảm của con người được nảy sinh trong những mối quan hệ giữa người và người. Ơ tuổi MG quan hệ của trẻ với những người xung quanh được mở rộng khiến tình cảm của trẻ được phát triển phong phú. Trẻ rất thèm khát sự yêu thương, lo sợ trước thái độ thờ ơ lạnh nhạt của những người xung quanh đối với mình. Chính điều đó dẫn đến tình trạng trẻ thường ghen tị với những người xung quanh trẻ. Trẻ sợ mẹ yêu bố hơn mình, sợ bố mẹ yêu em bé hoặc anh chị hơn. Bé oà khóc khi cô không được phát phiếu bé ngoan, bé buồn bã và đòi bỏ học vì trên lớp các bạn mải nô đùa mà không rủ bé chơi cùng. Nhu cầu yêu thương của trẻ thật lớn. Sự bộc lộ tình cảm của trẻ cũng rất mạnh mẽ đối với những người xung quanh, đặc biệt đối với người thân trong gia đình. Bé buồn bã lo lắng khi mẹ ốm. Bé đề nghi được chăm sóc mẹ, an ủi mẹ: “mẹ chịu khó nhé, mẹ có thèm ăn cái gì không mẹ, con đánh gió cho mẹ hết đau đầu nhé” Trẻ MG bé và Nhỡ chưa có tình bạn ổn định, trẻ thường kết bạn do hoàn cảnh: gần nhà, cùng tổ, ngồi cạnh nhau...Tình bạn của trẻ MG lớn ổn định hơn, trẻ kết bạn là do nhận ra phẩm chất tốt đẹp nào đó của bạn: “bạn Thuý Hiền nhanh nhẹn, hay giúp bạn bè, bạn ấy hiền, bạn ấy quan tâm, nói chuyện với con...” Trẻ rất quan tâm đến bạn, nhường nhịn, chia sẻ đồ chơi, quà bánh cho bạn. Trẻ cũng rất quan tâm đến các em bé và muốn được chăm sóc các em. Tình cảm yêu thương, nhân hậu của trẻ cũng được chuyển vào những nhân vật trong các câu chuyện cổ tích, trong phim. Tình cảm nhân hậu của trẻ đã khiến trẻ thường ước ao các nhân vật trong câu chuyện luôn gặp điều may mắn. Trẻ phản đối đoạn kết của câu chuyện Tấm Cám: “ Mẹ đừng kể đoạn Tấm bày cho cám nhảy vào nồi nước sôi nhé, tội nghiệp Cám... Mẹ kể là mụ gì ghẻ tặng cho hai chị em hai yếm đào vì cả hai đều ngoan nhé, sau đó hai chị em càng lớn càng xinh đẹp nên có hai Hoàng Tử cưới làm vợ, còn mụ dì ghẻ độc ác thì sống cô đơn một mình nên rất buồn.” 104 Tình cảm của trẻ rất phân mình, yêu ghét rõ ràng. Khi được nghe chuyện Thạch Sanh, trẻ cười khoái trá vì Lý Thông bị sét đánh biến thành con bọ hung: “ Đáng đời tên Lý Thông, trên đời này ai ác độc là bị trời đánh mẹ nhỉ” Tình cảm của trẻ không chỉ biểu lộ với người thân hay các nhân vật trong truyện, trong phim mà còn biểu lộ với cảnh vật xung quanh. Trẻ xót xa với cành cây bị gãy, đồ chơi bị hỏng. Có bé ôm con búp bê gãy tay và rên lên: “ búp bê bị đau lắm, trời ơi tội nghiệp ”. Như vậy, tình cảm của trẻ MG bộc lộ mãnh mẽ, đặc biệt là tính đồng cảm, sự nhân hậu và dễ xuất hiện xúc cảm. Đây là thời điểm thuận lợi để giáo dục lòng nhân ái cho trẻ. Tuy nhiên, nếu trẻ sống trong môi trường không tốt- xung quanh là những người ích kỷ hẹp hòi, hoặc trẻ nhận sự giáo dục sai lầm thì dễ hình thành tình cảm tiêu cực: ích kỷ, tham lam, độc ác, khinh người....Những dấu ấn này sẽ để lại di chứng cho giai đoạn phát triển sau này. Sự phát triển tình cảm của trẻ thể hiện nhiều hướng: tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ và tình cảm thẩm mỹ. Các loại tình cảm này đang ở vào thời điểm phát triển thuận lợi nhất, đặc biệt là tình cảm thẩm mỹ. Có thể coi đây là thời kỳ phát cảm thẩm mỹ. Ơ trẻ xuất hiện những rung động mãnh liệt với vẻ đẹp của thiên nhiên, khâm phục, ngưỡng mộ cái đẹp của nghệ thuật, của cuộc sống, mối quan hệ gữa con người. Bên cạnh đó trẻ cũng tỏ thái độ khinh ghét cái xấu xa, cái thấp hèn, độc ác. Như vậy trong tình cảm thẩm mỹ chứa đựng tình cảm đạo đức. Ngược lại trong tình cảm đạo đức chứa đựng tình cảm thẩm mỹ. Trong tình cảm của trẻ không chỉ thể hiện thái độ đối với những người xung quanh mà trẻ còn tỏ thái độ đối với bản thân mình. trẻ vui sướng khi được khen ngợi và buồn rầu khi bị chê trách. Dựa vào sự đánh giá của người khác về trẻ mà trẻ biết tự hào hay xấu hổ. Bé gái tức dận khi người lớn vô tình 105 nhận xét rằng bé không được xinh đep; Bé trai dận dữ vì bị người lớn chê kém cỏi Trong suốt thời kỳ MG, những cảm xúc biến đổi căn bản: MG bé chưa biết kìm chế cảm xúc; MG lớn biết kiềm chế cảm xúc. Trẻ nắm được sắc thái biểu hiện cảm xúc qua thái độ hành vi, cử chỉ,biểu hiện trên nét mặt, giọng nói... Tình cảm trí tuệ cũng được bộc lộ mạnh mẽ. Trẻ tò mò, băn khoăn về các hiện tượng trong thiên nhiên: Tại sao cành cây đung đưa? Tại sao ta đi trăng lại đi theo mà không đứng im? Mặt trời ở xa ta không? Tại sao gọi là biển, biển và sông giống nhau không?...Trẻ MG Lớn không chỉ tò mò trước các hiện tượng thiên nhiên mà trẻ còn quan tâm cả các hiện tượng xã hội, mối quan hệ giữa con người. Trẻ tìm hiểu cả những từ ngữ khó hiểu: Vô ý và vô tình có giống nhau không? buông xuôi là gì? quên lãng là gì?... Đời sống tình cảm của trẻ càng ngày càng phức tạp, tình cảm của trẻ tuy đã phát triển và bộc lộ mạnh mẽ nhưng chưa thực sự ổn định và bền vững, do vậy vai trò của giáo dục để hình thành tình và phát triển một tâm hồn đẹp nơi trẻ là rất cần thiết. 4.4.Sự phát triển ý chí. Trong sự phát triển ý chí của trẻ mẫu giáo có thể tách ra ba mặt liên hệ qua lại với nhau đó là: Thứ nhất: sự phát triển của tính mục đích của các hành động; Thứ hai: xác lập quan hệ giữa mục đích hành động và động cơ; Thứ ba: tăng vai trò điều chỉnh ngôn ngữ trong việc thực hiện các hành động. Trong lứa tuổi mẫu giáo đã hình thành được kỹ năng kiên trì mục đích. Trong một thực nghiệm, người ta yêu cầu trẻ mẫu giáo đẩy nhẹ một quả bóng lăn theo đường đã vạch sẵn, đi được nửa đường thì người ta đẩy một xe đồ chơi - một số trẻ mẫu giáo bé dừng lại và chơi với đồ chơi, sau đó mới nhớ tới nhiệm vụ của mình, còn đối với trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn thì các em đã hoàn thành được nhiệm vụ của mình. 106 Khả năng kiên trì mục đích ở trẻ phụ thuộc trực tiếp vào mức độ khó của nhiệm vụ - nếu nhiệm vụ khó thì trẻ dễ bỏ cuộc và chỉ hoàn thành nhiệm vụ nếu không gặp khó khăn quá. Ở trẻ, những thất bại trong khi thực hiện hành động làm mất yếu tố kích thích trẻ đạt tới mục đích, nếu hành động đạt kết quả thì trẻ sẽ làm tới cùng. Ở tuổi mẫu giáo nhỡ mục đích, động cơ hành động hoàn toàn trùng nhau, trẻ chỉ có thể thực hiện những hành động mà động cơ và mục đích không trùng nhau trong những trường hợp khi bản thân hành động không phức tạp lắm (Đưa nhiệm vụ của hành động vào trò chơi). Ở tuổi mẫu giáo lớn đã tách động cơ ra khỏi mục đích với sự cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.Trẻ quét nhà sạch sẽ để mẹ vui lòng - mẹ vui thì trẻ sẽ thích; trẻ làm quà tặng 8/3, tặng bạn nhỏ... Tuy nhiên, nếu hành động quá phức tạp và kéo dài thì trẻ chỉ nhớ tới động cơ và bắt hành động của mình phục tùng động cơ khi có sự nhắc nhở của người lớn. Trẻ biết thực hiện những hành động phức tạp nào đó theo hướng dẫn chỉ bảo của người lớn; trẻ biết lập kế hoạch và điều chỉnh hành động có thể dùng lời nói để biểu thị mục đích của hành động (có thể nói to hoặc suy nghĩ trong đầu) 5. Bước ngoặt 6 tuổi. Các nhà tâm lý học coi thời điểm lúc trẻ tròn 6 tuổi là bước ngoặt quan trọng. Một bên là đứa trẻ đang phát triển để hoàn thiện cấu trúc tâm lý con người với hoạt động chủ đạo là vui chơi mà trẻ chưa phải thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào. Bên kia là một học sinh đang thực hiện nghĩa vụ xã hội bằng hoạt động học tập. Hoặc một bên là trẻ mới chỉ có biểu tượng về sự vật, bên kia đang hình thành khái niệm về sự vật. Theo Piaget thì bên này là thời kỳ tiền thao tác, bên kia là thời kỳ thao tác. 107 Bước vào lớp một là bước ngoặt trong đời sống của đứa trẻ. Đó là sự chuyển qua một lối sống với những điều kiện hoạt động mới, chuyển qua một địa vị mới trong xã hội, chuyển qua những quan hệ mới với người lớn và bạn bè cùng tuổi. Đây là thời kỳ trẻ tiến vào bước ngoặt, với sự biến đổi của hoạt động chủ đạo. Hoạt động vui chơi vốn giữ vai trò chủ đạo, những yếu tố của hoạt động học tập bắt đầu nảy sinh để tiến tới giữ vai trò chủ đạo ở giai đoạn sau. Việc chuẩn bị sẵn sàng về mặt tâm lý cho trẻ đến trường phổ thông là nhiệm vụ quan trọng của người lớn. 2. Trình độ chuẩn bị sẵn sàng về mặt tâm lý cho trẻ đến trường phố thông. Do lòng mong muốn trở thành học sinh, biểu hiện rõ cuối trẻ mẫu giáo, trẻ ý thức được rằng việc tham gia vào hoạt động vui chơi để được làm giống người lớn chỉ là trò đùa. Trẻ thấy chỉ có thể làm người lớn là đi học. Trẻ hồi hộp chờ ngày đến trường, có quần áo mới, cặp sách, bút, có góc học tập, trống vào lớp, cô giáo... Vậy cần chuẩn bị về mặt tâm lý cho trẻ: - Chuẩn bị trình độ ý chí để đủ sức điều chỉnh hành vi. - Phát triển tính chủ định của hoạt động tâm lý (ghi nhớ, chú ý có chủ định). - Phát triển hoạt động trí tuệ: quan sát, trí nhớ, tư duy... - Phát triển vốn kiến thức về thế giới xung quanh. - Khơi dậy ở trẻ lòng ham hiểu biết, khám phá những điều mới lạ ở thế giới tự nhiên và xã hội. - Hình thành hứng thú nhận thức. - Phát triển ngôn ngữ - là điều kiện quan trọng trong việc lĩnh hội tri thức. - Phát triển nhân cách: ý thức trách nhiệm, tinh thần tập thể, động cơ xã hội của hành vi, cách ứng xử, giao tiếp. 108 Việc chuẩn bị đó được thực hiện trong các trò chơi và các hoạt động có sản phẩm hặc hoạt động múa hát, đọc thơ, kể chuyện.v,.v.. Chuẩn bị về mặt tâm lý cho trẻ đòi hỏi cả một quá trình công phu suốt cả thời kỳ mẫu giáo. Về cuối tuổi mẫu giáo thì việc chuẩn bị đó càng tích cực hơn,tạo cho trẻ một hứng thú sãn sàng đi học. Hướng dẫn tự học Đọc giáo trình cần tập trung vào các vấn đề sau: 1. Nắm được các đặc điểm của hoạt động vui chơi 2. Nắm được cấu trúc của trò chơi Đóng vai theo chủ đề. 3. vai trò của hoạt động vui chơi đối với sự phát triển tâm lý và sự hình thành nhân cách trẻ MG. 4. Các dạng hoạt động sáng tạo, học tập, lao động và ý nghĩa của chúng. 5. Đặc điểm các hành động nhận cảm và sự lĩnh hội các chuẩn nhận cảm. 6. Đặc điểm phát triển tư duy của ba độ tuổi MG ( 3-4; 4-5; 5-6). 7. Đặc điểm phát triển trí tưởng tượng; chú ý; trí nhớ. 8. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ MG. 9. Khả năng tự ý thức của trẻ MG 3-4; 4-5; 5-6 tuổi. 10. Động cơ hành vi của trẻ MG 3-4; 4-5; 5-6 tuổi. 11. Đời sống tình cảm của trẻ MG 3-4; 4-5; 5-6 tuổi. 12. Hành đông ý chí của trẻ MG được thể hiện như thế nào. Câu hỏi ôn tập. 1. Chứng minh rằng: hoạt động vui chơi đóng vai trò quan trọng đói với sự phát triển tâm lý và sự hình thành nhân cách trẻ MG. 2. Chứng minh mức độ phát triển từ đơn giản đến phức tạp của trò chơi Đóng vai theo chủ đề của trẻ MG. 3. Phân biệt hoạt động vui chơi và các dạng hoạt động khác. 4. Trình bày đặc điểm phát triển nhận cảm của trẻ MG. 5. Trình bày đặc điểm phát triển tư duy của trẻ MG. 6. Trình bày đặc điểm phát triển trí tưởng tượng của trẻ MG. 7. Trình bày đặc điểm phát triển chú ý, trí nhớ của trẻ MG. 109 8. Trình bày đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ MG 9. Trình bày đặc điểm phát triển khả năng tự ý thức của trẻ MG. 10. Trình bày đặc điểm phát triển động cơ hành vi của trẻ MG. 11. Trình bày đặc điểm phát triển Đời sống tình cảm của trẻ MG. 12. Trình bày đặc điểm phát triển hành động ý chí của trẻ MG 13. Tại sao nói tròn 6 tuổi là bước quan trọng trong cuộc đời đứa trẻ? Tài liệu cần đọc thêm - A.A. Giakharopva. Những cơ sở của Giáo dục học mẫu giáo, tập 2, NXB - V.X. Mukhina. Tâm lý học Mẫu giáo tập 1 + 2. NXB Giáo dục, Hà nội, 1981 - V.X. Mukhina. Lớn lên thành người hoặc sự ra đời của nhân cách. NXB Giáo dục, Hà nội, 1984 - A.P. Uxova, Dạy học ở mẫu giáo. NXB Giáo dục 1979. - Nguyễn ánh Tuyết. Tâm lý học trẻ em lứa tuổi Mầm non. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1997 - Nguyễn ánh Tuyết, Chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi vào trường phổ thông, NXB GD, HN 1998 110 MỤC LỤC TT NỘI DUNG TRANG 1 CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI MẦM NON 1. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, Ý NGHĨA CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI MẦM NON. 2 2 2. CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRẺ EM. 5 3 3. CÁC YẾU TỐ CHI PHỐI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRẺ EM. 7 4 4. QUY LUẬT PHÁT TRIỂN KHÔNG ĐỒNG ĐỀU TRONG SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRẺ EM 8 5 CHƯƠNG II ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ TỪ 0-3 TUỔI 1. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ SƠ SINH (0 - 2 THÁNG). 23 6 ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ HÀI NHI (2 - 12 THÁNG). 30 7 3. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ Ở TUỔI ẤU NHI (1 - 3 TUỔI) 41 8 4. XUẤT HIỆN TIỀN ĐỀ CỦA SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH TRONG TUỔI ẤU NHI. 111 9 ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ MẪU GIÁO (3 - 6) TUỔI. 1. HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI CỦA TRẺ MẪU GIÁO. 66 10 CÁC DẠNG HOẠT ĐỘNG KHÁC CỦA TRẺ MẪU GIÁO. 73 11 .ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ CỦA TRẺ MẪU GIÁO. 80 12 SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CỦA TRẺ MẪU GIÁO 89 13 Bước ngoặt 6 tuổi. 106
File đính kèm:
- giao_trinh_tam_ly_hoc_mam_non_phan_2.pdf