Giáo trình Sổ tay ô tô. Xe máy
Audi AG ra đời như thế nào?
Hiếm nhà sản xuất xe hơi nào lại có lịch sử phát triển hào hùng hay
sở hữu một bộ sưu tập những chiếc xe danh tiếng thế giới như Audi.
Không chỉ đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu, phát triển công nghệ
mới cho xe hơi, Audi còn xứng đáng là "bá chủ" trên các đường đua
đường trường.
Kỷ nguyên của Auto Union AG
Năm 1932, Audi sát nhập với Horch,
DKW và Wanderer thành lập nên Auto
Union AG. Bắt đầu một kỷ nguyên mới
của tập đoàn xe hơi hạng sang.
Năm 1933, lần đầu tiên Auto Union AG
tham gia German Automobile Exhibition.
Audi đã đem đến triển lãm một bất ngờ
lớn với một chiếc xe cỡ vừa dẫn động cầu
trước. Chiếc xe concept này đã được
phát triển và đến 1938, Audi 920 chính thức có mặt trên thị trường. Với thiết
kế hiện đại, động cơ OHC 75hp mạnh mẽ, chiếc xe có thể đạt vận tốc tối đa
140km/h. Audi 920 thực sự trở thành niềm mơ ước của những người năng
động, ưa mạo hiểm luôn khao khát có
một chiếc xe nhỏ nhưng mạnh mẽ.
Trong khi đó, DKW chủ yếu được biết
đến là một trong những nhà sản xuất xe
máy lớn nhất thế giới. Năm 1933, DKW
ra mắt mẫu xe mới sử dụng 8 động cơ
175-600cc và năm 1934, chiếc RT 100
xuất hiện trên thị trường và nhanh chóng
trở thành chiếc xe bán chạy nhất mọi
thời đại. Vị thế của DKW càng được củng
cố hơn với sự ra đời của 200 Class và NZ
(1938). Ô tô cỡ nhỏ của DKW được sản
xuất ở Berlin-Spandau và Zwickau. Các
mẫu xe 4WD của DKW, bao gồm các mẫu F2, F4, F5, F7 và F8, được phân
chia làm 2 hạng: hạng Reichsklasse (Rich class - động cơ 600cc 18hp) và
Meisterklasse (Master class - động cơ 700cc 20hp). Ngoài ra, DKW còn giới
thiệu mẫu xe mui xếp “Front Luxus”. Xe DKW Front vẫn tiếp tục dẫn đầu
trong số các xe cỡ nhỏ bán chạy nhất ở Đức: Vào những năm 1930, 250.000
chiếc DKW Front đã được tiêu thụ ở Đức.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Sổ tay ô tô. Xe máy
Sổ tay ô tô - xe máy Alfa Romeo ra đời như thế nào? Alfa Romeo là một công ty sản xuất xe hơi nổi tiếng của Italia, do Cavaliere Ugo Stella, một nhà quý tộc ở Milan liên kết với nhà sản xuất xe hơi Alexandre Darracq sáng lập vào năm 1907, lấy tên là "Darracq Italiana". Ban đầu, nhà máy sản xuất được đặt ở Naples nhưng sau đó, Stella đã dời xưởng về vùng ngoại ô Milan và đổi tên thành ALFA (Anonima Lombarda Fabbrica Automobili). Chiếc 1910 24HP do Giuseppe Merosi thiết kế là chiếc xe đầu tiên không còn mang nhãn hiệu Darracq. Sau đó Merosi cũng tiếp tục thiết kế nhiều mẫu xe ALFA mới được trang bị động cơ mạnh mẽ hơn (40-60hp). ALFA cũng tham gia vào các giải đua xe quốc tế tuy nhiên do ảnh hưởng của chiến tranh thế giới thứ nhất, ALFA đã phải ngưng sản xuất xe trong 3 năm. ALFA bắt đầu nằm dưới sự điều hành của Nicola Romeo từ năm 1916 và chuyển sang sản xuất vũ khí quân dụng hạng nặng cho quân đội Italia và các đồng minh của Italia. Trong suốt thời kỳ chiến tranh, ALFA đã sản xuất vũ khí và động cơ cho máy bay, máy phát điện và đầu máy xe lửa. Khi chiến tranh kết thúc, Nicola Romeo đã hoàn toàn tiếp quản ALFA và công ty tiếp tục sản xuất xe hơi trở lại. Năm 1920, ALFA đổi tên thành Alfa Romeo và mẫu xe đầu tiên ra mắt là chiếc Torpedo 20-30HP. Giuseppe Merosi vẫn là nhà thiết kế chính cho Alfa Romeo và công ty vẫn tiếp tục cho ra đời những mẫu xe hơi dân dụng và xe đua danh tiếng (trong đó có cả chiếc 40-60HP và RL Targa Florio). Năm 1923 Vittorio Jano bỏ Fiat đến đầu quân cho Alfa Romeo, thay thế vị trí thiết kế trưởng của Merosi, một phần là nhờ sự thuyết phục của tay đua trẻ tuổi Enzo Ferrari của đội Alfa Romeo. Chiếc xe đầu tiên do Jano thiết kế là chiếc P2 Grand Prix, chiếc xe giành giải vô địch thế giới năm 1925. Jano cũng đã phát triển hàng loạt những chiếc xe dân dụng, từ những chiếc xe có dung tích xi lanh lớn/nhỏ với động cơ I4, I6 hay I8 dựa trên động cơ P2. Năm 1928, sau khi hợp đồng vũ khí quốc phòng hết hiệu lực, Alfa Romeo gần như đứng bên bờ vực phá sản. Alfa Romeo bắt đầu nằm dưới sự kiểm soát của Chính phủ Italy vào năm 1933. Kể từ đó, Alfa Romeo còn nổi tiếng với những mẫu xe thiết kế dành riêng cho cảnh sát ("Panthers" Carabinieri, Giulia Super, hay 2600 Sprint GT). Sau Thế chiến II, Alfa Romeo cố gắng khôi phục sản xuất từ đống đổ nát do chiến tranh gây ra. Những chiếc xe hơi sang trọng và những chiếc xe cỡ nhỏ bắt đầu được sản xuất hàng loạt ở các nhà máy của Alfa Romeo. Trên đường đua, các xe Alfa Romeo đã giành được rất nhiều chiến thắng vinh quang trong nhiều giải đấu, từ giải Formula 1, Prototypes, Touring đến giải Fast Touring. Tuy nhiên, đầu những năm 1970, Alfa lại một lần nữa gặp khó khăn về tài chính. Chính phủ Italia buộc phải bán Alfa Romeo cho Fiat, tập đoàn Alfa Lancia Spa ra đời, mở đầu cho kỷ nguyên của Alfa và Lancia. Cho đến nay, Alfa Romeo vẫn thuộc sở hữu của Fiat. Audi AG ra đời như thế nào? Hiếm nhà sản xuất xe hơi nào lại có lịch sử phát triển hào hùng hay sở hữu một bộ sưu tập những chiếc xe danh tiếng thế giới như Audi. Không chỉ đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu, phát triển công nghệ mới cho xe hơi, Audi còn xứng đáng là "bá chủ" trên các đường đua đường trường. Kỷ nguyên của Auto Union AG Năm 1932, Audi sát nhập với Horch, DKW và Wanderer thành lập nên Auto Union AG. Bắt đầu một kỷ nguyên mới của tập đoàn xe hơi hạng sang. Năm 1933, lần đầu tiên Auto Union AG tham gia German Automobile Exhibition. Audi đã đem đến triển lãm một bất ngờ lớn với một chiếc xe cỡ vừa dẫn động cầu trước. Chiếc xe concept này đã được phát triển và đến 1938, Audi 920 chính thức có mặt trên thị trường. Với thiết kế hiện đại, động cơ OHC 75hp mạnh mẽ, chiếc xe có thể đạt vận tốc tối đa 140km/h. Audi 920 thực sự trở thành niềm mơ ước của những người năng động, ưa mạo hiểm luôn khao khát có một chiếc xe nhỏ nhưng mạnh mẽ. Trong khi đó, DKW chủ yếu được biết đến là một trong những nhà sản xuất xe máy lớn nhất thế giới. Năm 1933, DKW ra mắt mẫu xe mới sử dụng 8 động cơ 175-600cc và năm 1934, chiếc RT 100 xuất hiện trên thị trường và nhanh chóng trở thành chiếc xe bán chạy nhất mọi thời đại. Vị thế của DKW càng được củng cố hơn với sự ra đời của 200 Class và NZ (1938). Ô tô cỡ nhỏ của DKW được sản xuất ở Berlin-Spandau và Zwickau. Các mẫu xe 4WD của DKW, bao gồm các mẫu F2, F4, F5, F7 và F8, được phân chia làm 2 hạng: hạng Reichsklasse (Rich class - động cơ 600cc 18hp) và Meisterklasse (Master class - động cơ 700cc 20hp). Ngoài ra, DKW còn giới thiệu mẫu xe mui xếp “Front Luxus”. Xe DKW Front vẫn tiếp tục dẫn đầu trong số các xe cỡ nhỏ bán chạy nhất ở Đức: Vào những năm 1930, 250.000 chiếc DKW Front đã được tiêu thụ ở Đức. Năm 1933, Horch giới thiệu hàng loạt động cơ V8 với dung tích xi lanh 3,0L, 3,5L và 3,8L (công suất cực đại 70-92hp). Năm 1935, Horch giới thiệu chiếc Logo của Audi Audi 920 - Một trong những mẫu xe kinh điển xe thể thao mui xếp Type 853 sử dụng động cơ I8. Năm 1937, Horch chiếm tới hơn 50% thị phần xe trên 4.0L. Từ trước khi sát nhập với Audi, Horch và DKW thành Auto Union AG, Wanderer đã sử dụng động cơ OHC do Giáo sư Porsche thiết kế. Wanderer lần lượt giới thiệu model W21 và W22 (1933), W40, W45 và W50 (1935). Động cơ Horch V8 dần được thay thế bằng động cơ I6. Auto Union ngày càng đạt được nhiều tiến bộ vượt bậc trong việc phát triển hộp số tự động và tìm kiếm vật liệu mới để sản xuất thân xe. Hơn nữa, nhận thấy việc sản xuất khung gầm bằng gỗ và nội thất bọc da quá tốn kém, Auto Union AG hợp tác với Dynamit AG (Troisdorf) để nghiên cứu, phát triển thân xe bằng plastic. Lần đầu tiên trong lịch sử ngành công nghiệp ô tô Đức người ta đã tiến hành một chương trình kiểm tra độ cứng của gỗ, thép tấm và plastic. Auto Union AG mở rộng khá nhanh trong giai đoạn 1933-1939 với doanh thu tăng từ 65 triệu lên 276 triệu (Reichsmark) và 23,000 nhân công. Sản lượng hàng năm của Auto Union cũng tăng vọt: Xe máy từ 12,000 xe/năm lên 59.000 xe/năm và ô tô từ 17.000 xe/năm lên 67.000xe/năm. So với năm 1932 (năm thành lập Auto Union), năm 1938, sản lượng của Horch tăng gấp đôi, Wanderer tăng gấp 5 lần còn DKW tăng tới 10 lần. Sự tạm dừng và bước khởi đầu mới Sau khi chiến tranh kết thúc, toàn bộ nhà xưởng, thiết bị sản xuất của Auto Union AG bị quân đội Liên Xô cũ tiếp quản. Năm 1949, Ban Giám đốc của Auto Union AG đã dời công ty về Bavaria và thành lập trụ sở mới tại Ingolstadt. Năm 1954, công ty đạt được mức siêu lợi nhuận (400.000 DM) nhưng tháng 08/1954 ở Bavaria đã nổ ra một cuộc đình công lớn và Auto Union đã phải chi khoảng 920.000 DM cho vụ này. Cũng trong năm này, Friedrich Flick, cổ đông lớn nhất của tập đoàn Sắt thép Maxhutte, đầu tư vào Auto Union. Năm 1957, Daimler-Benz tỏ ý muốn thâu tóm Auto Union để mở rộng sản xuất và tăng thị phần. Kế hoạch này được Flick hoàn toàn ủng hộ. Khi đó, Flick nắm giữ trong tay 41% cổ phần của Auto Union và 25% cổ phần của Daimler-Benz. Ngoài ra, Flick còn được nhà tư bản người Thuỵ Sỹ Ernst Göhner, người cũng nắm giữ tới 41% cổ phần của Auto Union, hậu thuẫn. Thiết kế tinh tế Nội thất sang trọng Ngày 24/04/1958, Daimler-Benz mua vào 88% cổ phần của Auto Union chỉ với giá 41 triệu DM. Chưa đầy một năm sau, Daimler-Benz đã thâu tóm toàn bộ Auto Union. Một nhà máy mới được xây dựng ở Ettinger Strasse và bắt đầu đi vào sản xuất vào tháng 07/1958. Lực lượng lao động sản xuất của Auto Union ở Ingolstadt tăng lên 3.700 người (1958) và 5.700 người (1959). Năm 1962, doanh thu của Auto Union bắt đầu giảm sút, trong khi Daimler-Benz ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đến năm 1964, Auto Union đối mặt với khó khăn nghiêm trọng về tài chính. Daimler-Benz nhận thấy không thể tiếp tục gánh vác thua lỗ cho Auto Union bèn tìm cách bán công ty này cho Volkswagen. Kỷ nguyên mới của Audi Sự chuyển giao quyền sở hữu Auto Union đặt dấu chấm hết cho kỷ nguyên động cơ hai kỳ. Gần 30.000 chiếc ô tô mang nhãn hiệu DKW bị tiêu huỷ. Nhà máy của Auto Union được dùng làm nơi lắp ráp VW Beetle. Cuối năm 1965, Auto Union phục hồi đôi chút nhờ có sự ra đời của những chiếc xe Audi bốn kỳ mới. Ngày 10/03/1969, Auto Union GmbH sát nhập với NSU Motorenwerke AG, và ngày 01/01/1969đổi tên là Audi NSU Union AG. Sản lượng của cả NSU và Audi tăng đều đặn đến cuối 1973 nhưng đến năm 1974, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng dầu mỏ, sản lượng của Audi NSU Union AG giảm mạnh, từ 400.000 xe (1973) xuống còn 330.000 xe (1974). Cuối năm 1975, ngành công nghiệp ô tô Đức bắt đầu hồi phục trở lại. Tháng 3/1977, chiếc xe mang nhãn hiệu NSU cuối cùng xuất xưởng. Kể từ đó, mọi chiếc xe do công ty sản xuất đều mang nhãn hiệu “Audi”. Sự ra đời của chiếc xe thể thao 4WD Audi Quattro năm 1980 thực sự làm chấn động ngành sản xuất ô tô thế giới, đưa Audi lên vị trí hàng đầu về công Động cơ mạnh mẽ Xứng danh ông hoàng xe hơi nghệ. Đây là chiếc xe thương mại đầu tiên được trang bị hệ thống dẫn động chủ động bốn bánh. Ngày 01/01/1985, Audi NSU Union AG được đổi tên thành AUDI AG. Trụ sở của công ty đồng thời cũng được chuyển về Ingolstadt. Cũng trong năm 1985, lần đầu tiên công ty dạt tổng vốn đầu tư lên tới 1 tỉ DM. Mùa thu năm 1986, Audi giới thiệu Audi 80 mới với thân xe mạ kẽm. Đến năm 1986, khi Audi 80 trở nên lạc hậu, Audi cho ra mắt chiếc Audi 89 và mẫu xe này nhanh chóng được ưa chuộng rộng rãi. Năm 1987, Audi giới thiệu Audi 90 mới và trang nhã với hàng loạt những tính năng mới. Năm 1988, Audi tung ra thị trường chiếc xe hạng sang đầu tiên, chiếc Audi V8 trang bị động cơ V8 3,6L - 4 van. Năm 1992, chiếc xe Audi 80 TDI du hành một vòng quanh thế giới, vượt qua quãng đường 40.273km với vận tốc trung bình 85,8km/h và mức tiêu hao nhiên liệu 3,78L/100km (74,7mpg). Năm 1991, Audi đạt mức doanh thu kỷ lục 14,8 tỉ DM. Sự ra đời của Audi A4 đã đem lại thành công rực rỡ cho Audi: Năm 1995, 120.000 chiếc Audi A4 được tiêu thụ ở Đức. Cuối năm 1995, danh tiếng của Audi càng được củng cố hơn khi hai chiếc concept TT Coupé và TT Roadster ra đời. Tiếp đó, Audi giới thiệu chiếc compact 2 cửa Audi A3 (1996) và Audi A6 (1997). Hiện nay, doanh số xe bán ra của Audi trên thị trường châu Âu liên tục tăng nhanh. Năm 2004, 779,441 chiếc Audi đã được tiêu thụ trên toàn thế giới, trong đó, doanh số xe bán ra của Audi tăng mạnh nhất ở Trung Đông (tăng 58,5%), Đông Âu (tăng 19,3%) và ở châu Phi (tăng 17,2%). Mặc dù không thông dụng như xe của Mercedes-Benz hay BMW, nhưng ô tô của Audi vẫn luôn là biểu tượng của công nghệ cao và thiết kế tinh tế. Audi Quattro - mẫu xe huyền thoại Thương hiệu Toyota ra đời như thế nào? Những người ưa thích tìm hiểu lịch sử các nhà sản xuất xe hơi hẳn đã quá biết về người sáng lập ra tập đoàn sản xuất xe hơi hàng đầu hiện nay Toyota Motors Company chính là người thợ mộc tài hoa Sakichi Toyoda. Không chỉ có vậy, khi mới được thành lập, nhà sản xuất xe hơi này lại mang tên Toyoda Automatic Loom Works Ltd. Vậy thì cái tên Toyota thực chất có từ bao giờ? Quay ngược thời gian trở về với năm 1936, để chón chào sự kiện chiếc xe du lịch đầu tiên ra đời, Toyoda Automatic Loom Works Ltd. đã tổ chức một cuộc thi thiết kế biểu trưng nhằm quảng bá hình ảnh của công ty. Yêu cầu đặt ra đối với biểu trưng này đó là phải khơi gợi cảm giác hưng phấn giống như đang ngồi trên một chiếc xe chạy với vận tốc cao. 27.000 thí sinh đã hưởng ứng cuộc thi này. Người thắng cuộc là một chàng trai đã sáng tạo và mạnh dạn đề xuất ý tưởng đổi tên công ty và những chiếc xe hơi này thành "Toyota". Con trai của Sakichi Toyoda - Kichiro Toyoda gần như ngay lập tức bị ấn tượng bởi cái tên mới này và tuyên bố đổi tên Toyoda thành Toyota."Toyota" trong tiếng Nhật rõ ràng có cách viết bay bướm hơn rất nhiều so với từ "Toyoda". Hơn nữa, để viết được từ "Toyota", người ta phải viết 8 nét – con số này trong văn hoá Nhật vốn là một biểu tượng cho sự may mắn và thịnh vượng. Cách phát âm của Toyota cũng rắn rỏi và mạnh mẽ hơn hẳn so với Toyoda. Tháng 4/1937, Toyota chính thức được đăng ký bản quyền thương mại. Mẫu xe Model AA, chiếc xe du lịch đầu tiên của Toyota cũng chính là chiếc xe đầu tiên mang thương hiệu Toyota . Tuy nhiên, đây vẫn chưa thể coi là thành công thực sự của Toyota. Do chưa thể định hướng được thương hiệu cũng như cách quảng bá thương hiệu một cách hiệu quả, rộng khắp, thương hiệu Toyota được mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ hiểu theo một cách khác nhau. Điều đó có nghĩa là, cùng một thương hiệu nhưng lại mang quá nhiều cách diễn đạt, khiến cho hình ảnh và thông điệp của công ty không nhất quán. Năm 1989, nhằm tạo ra một hình ảnh và một thông điệp nhất quán về thương hiệu Toyota, và cũng để tách biệt Toyota khỏi thương hiệu xe hơi hạng sang Lexus, Toyota đã thiết kế mẫu logo mới – chính là logo hiện nay của Toyota. Logo mới này gồm 3 hình elíp lồng vào nhau. Hai hình elíp nhỏ ở giữa, lồng vuông góc với nhau tượng trưng cho mối quan hệ gắn kết, sự tin tưởng lẫn nhau giữa khách hàng và Toyota, đồng thời tạo thành chữ T trong từ "Toyota". Hình elíp thứ ba tạo thành nền của logo, hàm ý sự phát triển không ngừng của Toyota trong lĩnh vực công nghệ xe hơi cũng như sự phát triển vượt bậc của công ty trong tương lai. Không chỉ có vậy, ngày nay, khi thương hiệu Toyota đã trở nên nổi tiếng toàn thế giới và là lựa chọn hàng đầu của người tiêu dùng, 3 hình elíp này còn biểu hiện những đặc tính rất riêng của Toyota. Đó là chất lượng, sự tin cậy và tinh thần không ngừng đổi mới. BMW có lịch sử phát triển như thế nào? Tòa nhà "tổng hành dinh" của BMW được xây dựng mô phỏng theo hình dáng của bốn chiếc xi-lanh Trước Thế chiến II BMW được Karl Friedrich Rapp thành lập vào tháng 10/1913. Ban đầu, thực chất đây là một nhà máy sản xuất động cơ máy bay (Bayerische Flugzeug- Werke) có trụ sở tại Milbertshofen, Munich. Do gặp khó khăn về tài chính, Rapp phải cầu viện trợ giúp từ Camillo Castiglioni và Max Friz và công ty được cơ cấu lại thành Bayerische Motoren Werke GmbH (BMW GmbH). Năm 1918, Franz Josef Popp, một nhà tư bản người Áo, chính thức tiếp quản BMW từ năm 1917 và đổi tên công ty thành BMW AG. Sau Thế chiến I, Hiệp ướcVersailles (1919) nghiêm cấm sản xuất máy bay tại Đức. Otto đóng cửa nhà máy và chuyển sang sản xuất phanh hơi cho tàu hoả. Chiếc ô tô đầu tiên do BMW chế tạo là chiếc BMW 3/15 (1928) song mãi đến tận 1933 chiếc xe thực sự "BMW", trang bị động cơ I6, mới ra đời. Trước Thế chiến II, cả hai chiếc sedan 327 và chiếc roadster 328 của BMW đều đã hiện đại và tân tiến hơn rất nhiều so với những chiếc xe cùng thời khác. Thế chiến II BMW là nhà cung cấp chính về động cơ cho Luftwaffe và Wehrmacht, trong đó có cả động cơ 801. BMW cũng sản xuất cả động cơ máy bay phản lực, động cơ BMW 003 và vũ khí tên lửa. Cuối Thế chiến II, nhà máy BMW ở Munich bị bom tàn phá nặng nề còn các nhà máy ở Eisenach, Dürrerhof, Basdorf và Zühlsdorf thì bị Liên Xô cũ chiếm đóng. Sau Thế chiến II, BMW bị quân Đồng Minh cấm mọi hoạt đ ... c bị rách (hở) do sử dụng lâu ngày, “phớt” dầu lão hóa gây nên hiện tượng chảy dầu giảm xóc. Lượng dầu giảm xóc bị thiếu hụt, khi xe đi qua chỗ xóc sẽ nghe thấy những tiếng lục cục khó chịu. Để khắc phục hiện tượng này cần thay “phớt”, bổ xung hoặc thay mới dầu giảm xóc. Khi thay mới hay bổ xung dầu giảm xóc cần chú ý chọn đúng chủng loại dầu và đổ đúng quy định của nhà sản xuất. Giảm xóc có nhiệm vụ hấp thu chấn động từ mặt đường Vết dầu trên thân giảm xóc Sau khi thay dầu mà giảm xóc vẫn cứng, xe vận hành không êm ái có nghĩa là lượng dầu đã vượt quá mức quy định, cần xả bớt dầu qua ốc xả ở cuối giảm xóc. Thông thường, chu kỳ thay dầu của giảm xóc trước từ 10.000 – 20.000 km. Kiểm tra bộ giảm xóc trước bằng cách bóp chặt phanh trước và nhún mạnh, giảm xóc còn tốt là mặt pít-tông phải sáng bóng suốt chiều dài, pít-tông và xi- lanh không được có độ “rơ”. Khi hoạt động, giảm xóc không được có màng dầu bám trên bề mặt. Cần chuẩn bị những gì trước khi đi xa? Chuẩn bị cho một chuyến đi xa - Các giấy tờ cần thiết trên xe: Giấy phép lái xe hợp lệ, đăng kiểm và bảo hiểm còn hiệu lực, đăng ký xe, các giấy phép đặc biệt khác tùy loại xe, hàng hoá và cung đường của xe. - Các vật dụng cần thiết: Túi cứu thương, đèn pin, bản đồ, bộ đồ sửa xe, lốp dự phòng, bình cứu hoả, tiền, giấy bút, nước uống, giấy vệ sinh. Điện thoại phải lưu các số của Bảo hiểm, Cứu hộ, Tư vấn kỹ thuật - Các dụng cụ kỹ thuật: Dây câu điện, bộ kích điện ắc-quy; dụng cụ vá săm xe; bóng đèn pha và đèn tín hiệu dự phòng; một chai dầu máy 1 lít; đèn pin, hộp đựng dụng cụ thông dụng (tuốc-nơ-vít, kìm, búa...) Kiểm tra xe trước khi đi xa - Kiểm tra dầu máy: Rất nhiều động cơ gặp sự cố do thiếu dầu bôi trơn hay dầu không được thay kịp thời. Kể cả khi mới thay dầu, bạn cũng cần có bước kiểm tra này. Để đo mức dầu động cơ, trước hết, bạn đưa xe tới vùng rộng, bằng phẳng và để máy nguội. Sau khi tắt động cơ vài phút bạn mới đo mức dầu bởi nếu đo ngay, dầu chưa về các-te hết khiến kết quả không chính xác. - Kiểm tra nước làm mát: Mực nước trong két nước làm mát có thể nhìn được từ bên ngoài. Mức nước này phải luôn ở giữa mức thấp nhất và mức cao nhất. Không nên tháo nắp bộ sưởi lúc đang nóng. Nếu mức nước còn ít quá thì có thể có rò rỉ, kiểm tra kỹ, nếu có thì phải đi sửa ngay. - Ắc-quy: Bạn hãy kiểm tra xem có rò rỉ, vết nứt hay có dấu hiệu nào của sự ăn mòn hay không. Nếu có bạn nên thay bình mới. Kiểm tra lại các đầu điện cực, nếu các đầu cực bị ăn mòn thì ắc quy sẽ rất dễ bị hỏng, nhất khi đi trên đường. - Đảm bảo đủ áp suất lốp: Khi đi xa, lốp không đủ độ căng tạo nên sóng cơ học mài mòn lốp và gây nguy hiểm khi điều khiển xe do không thể tăng tốc như ý muốn. Hơn nữa, độ căng không đồng đều giữa các bánh sẽ làm mất cân bằng và không an toàn khi lái. Kiểm tra dầu máy - Bộ phận treo và tay lái: Khi đi xa, hành trình của bạn phải phụ thuộc rất nhiều vào bộ phận treo và tay lái. Nhưng để kiểm tra các bộ phận này một cách chính xác, bạn phải đem xe ra ngoài gara. Kiểm tra bằng mắt thường bốn thanh giảm xóc (ở gần các bánh xe), nếu như có vết dầu rỉ ra, bạn nên thay. Nếu giảm xóc bị thiếu dầu, chiếc xe rất khó khăn khi đi qua những đoạn đường xấu. - Lốp “sơ cua”, kích: Kiểm tra áp suất của lốp xe dự phòng khi bạn kiểm tra áp suất của các lốp xe khác (đảm bảo chúng có cùng áp suất và phải đúng theo quy định của nhà sản xuất), bạn có thể xem trong sách hướng dẫn sử dụng xe hoặc có thể tìm trên thành lốp. Kiểm tra xem kích nâng có còn tốt không, nếu bạn có lắp khóa bánh xe, nhớ là phải luôn có chìa khóa và cờ-lê để tháo con ốc đó ra. - Kiểm tra đèn và các thiết bị khác: Ngoài những chi tiết trên, hoạt động của đèn pha, cần gạt nước cũng quan trọng không kém. Bạn nên thử độ sáng của đèn pha để có thể thay nếu thấy cần thiết. Cần gạt nước phải hoạt động tốt, không bị mòn, bình nước rửa phải đầy. Hệ thống điện ổn định, còi hoạt động tốt là những yêu cầu khác cần chuẩn bị cho một chuyến đi thật an toàn và suôn sẻ. Một số kinh nghiệm khi lái xe - Lái xe trên đường đèo dốc: Kiểm tra xe cẩn thận trước khi lên và xuống đèo: nhiệt độ máy, áp suất dầu bôi trơn, áp suất khí nén, phanh, dầu phanh, các-đăng, vật chèn lốp. Chất lượng phanh và lái tốt là điều kiện an toàn bắt buộc khi qua đèo, ghi nhớ nguyên tắc lên đèo số nào thì xuống đèo bằng số ấy. Nên hãm tốc bằng số và động cơ, không lạm dụng phanh, chú ý đồng hồ vòng tua và nhiệt độ máy. Chú ý các biển báo, gương cầu khi xe vào các khúc cua, con dốc - đó luôn là cạm bẫy, hạn chế vượt, chỉ vượt khi thật an toàn. Bóp còi trước khi vào cua, luôn phải đi đúng phần đường. - Lái xe khi mưa - gió: Khi có mưa luôn phải bật đèn và giảm tốc độ, nên chạy ở tốc độ bằng một nửa so với bình thường. Đường mới ướt sẽ trơn hơn nên phải xử lý: phanh, lái, xi-nhan sớm hơn. Luôn giữ khoảng cách lớn hơn với xe cùng chiều, sử dụng gạt mưa, sấy kính đúng chế độ để có tầm nhìn tốt nhất. Nếu mưa to, không được chạy quá 90 km/h vì hiệu ứng trượt lướt sẽ xảy ra, nếu thấy xe tròng trành, phải giữ lái và giảm ga, tuyệt đối không phanh. Không cho xe chạy nhanh qua những vũng nước vì xe sẽ bị lệch hướng đáng kể. Khi bị ướt các má phanh sẽ ăn lệch hoặc không ăn sẽ rất nguy hiểm nếu phanh gấp, nên tì nhẹ vào chân phanh để sấy chúng khô trở Kiểm tra các thiết bị điện Chú ý biển báo, gương cầu khi xe vào cua lại. Nếu trời bão hoặc gió to tốt nhất tìm chỗ trú vì sẽ có nhiều cây đổ, dây điện chùng võng, tai nạn bất ngờ rình rập. - Lái xe đêm: Lái xe đêm nguy hiểm hơn ban ngày rất nhiều bởi tầm nhìn bị thu hẹp. Ban đêm, dùng tín hiệu đèn là chính khi tránh, vượt, gặp xe ngược chiều. Không đi nếu hệ thống đèn pha, đèn tín hiệu không đảm bảo. Khi gặp xe ngược chiều, bật đèn cốt, không nhìn trực tiếp vào đèn pha xe đó, mà nhìn chéo sang phải vào cạnh đường, vạch sơn trắng hoặc hàng cọc tiêu để căn lái, khi đến ngang nhau bật ngay đèn pha để quan sát đường (khắc phục khoảng "mù" của mắt người). Chỉ dừng xe khi thật cần thiết, nhớ tắt đèn pha, chỉ để đèn đăng-téc và xi-nhan đi thẳng. - Lái xe khi bị nắng chói: Nắng chói thường gặp khi sáng sớm hoặc chiều muộn. Cần lau kính trước sạch, dùng kính râm, chắn nắng. Nếu xe ngược chiều hoặc xe sau bạn bị chói nắng thì cẩn thận trước khi rẽ vì họ khó phát hiện ra bạn đang bật đèn xi-nhan. Nên đi với tốc độ vừa phải vì tầm nhìn bị hạn chế. - Lái xe trong sương mù: Trong sương mù kinh nghiệm tốt nhất là không lái, nếu phải lái nên bật cả đèn cốt, đăng-téc, đèn sương mù, xi- nhan đi thẳng. Nên đi theo đoàn, cách nhau một tầm nhìn, kiên nhẫn và đi với tốc độ chậm, không dùng radio, điện thoại. Dùng gạt mưa, sấy kính đúng chế độ để có tầm nhìn tốt nhất. Nếu xe bị hỏng, cố gắng đưa xe vào bên phải lề đường, cùng mọi người rời xe càng sớm càng tốt để tránh nguy hiểm, chỉ đến khi trời quang hãy sửa xe. Chú ý với những quãng đường sương mù hoặc khói xuất hiện theo từng đoạn cách nhau, phải giảm tốc ngay vì sẽ cực kỳ nguy hiểm nếu trong đám mù là chướng ngại vật, người đi bộ hoặc hướng đi thay đổi, đáng sợ nhất là một vụ tai nạn đã nằm đó từ trước. - Lái xe trên đường trơn lầy: Chuyển về số thấp, giữ vô-lăng thẳng, đi ga nhẹ, tránh làm bánh xe bị trượt (patine), cho xe di chuyển đều càng xa càng tốt. Nếu bị trượt thì nhẹ nhàng lùi lại một quãng đến chỗ đường bám tốt rồi lại tiến lên, lùi lại, tiến lên đến khi xe vượt qua được chỗ lầy. Dùng các mảnh ván, cành cây, cát lót dưới bánh xe bị trượt để tăng ma sát hoặc dùng sợi xích, thừng quấn vào lốp để vượt qua quãng lầy. Nếu không được thì tìm xe khác kéo hoặc nhờ người hỗ trợ. Ngoài ra để đảm bảo an toàn bạn cần chú ý: tư thế lái đúng, chỉnh ghế lái phù hợp, điều chỉnh gương chuẩn và hiểu biết về chiếc xe mình đang lái. Lái xe trong sương mù vô cùng nguy hiểm Chuyển số thấp khi đi qua lầy Không lái xe khi sức khoẻ yếu, đang dùng thuốc an thần, xúc động hay cơ thể đang bị ảnh hưởng của rượu cho dù từ ngày hôm trước. Chọn mua xe máy cũ như thế nào? Thực tế, việc chọn mua một chiếc xe cũ vừa ý không dễ. Thông thường người mua chỉ nhìn vào giá cả theo chủng loại, cũ hay mới, căn cứ theo công-tơ-mét, biển số, giấy đăng ký, nhưng trên thực tế những thông số này thường không chính xác. Tốt nhất, chỉ nên mua xe đã sử dụng không quá 3 năm, bởi với thời gian này, động cơ của xe vẫn còn hoạt động tốt. Thuận lợi nhất trong việc mua xe máy cũ là biết rõ chiếc xe cũng như người sử dụng, qua đó cũng biết được ưu và nhược điểm của chiếc xe để tiện lợi cho việc vận hành, chăm sóc bảo dưỡng sau này. Nếu bắt buộc phải mua một chiếc xe lạ, người tiêu dùng nên lưu ý một số điểm sau: Kinh nghiệm chọn mua xe máy cũ - Tổng thể chiếc xe: Để đánh giá chính xác tổng thể một chiếc xe đã qua sử dụng, cách chính xác nhất là chiếc xe phải được rửa sạch sẽ và quan sát dưới ánh sáng ban ngày. Theo kinh nghiệm chọn xe cũ, một chiếc xe còn tốt là phải “đều xe”, nghĩa là tất cả các chi tiết, phụ tùng trên xe có độ mới/cũ đồng đều nhau. Một chiếc xe vận hành bình thường, ổn định không thể có những chi tiết quá mới hoặc quá cũ so với tổng thể chiếc xe. - Giấy tờ: Cần kiểm tra đăng ký của xe và đối chiếu với biển kiểm soát. Kiểm tra rõ ràng số khung, số máy, đây là công đoạn mà rất nhiều người mua xe ngại làm bởi những hàng số này dài và đôi khi nằm ở những khu vực rất khó nhìn. Chỉ một nhầm lẫn nhỏ trên giấy tờ với những con số cũng đã đủ đem lại rất nhiều điều phiền toái cho người sử dụng. - Sơn xe: Quan sát màu sắc của sơn ở những chỗ khuất rồi so sánh với những nơi khác, nhìn theo chiều nghiêng của thân xe để có thể dễ dàng nhìn thấy những khu đã vực được “tút” lại bởi màu sơn và độ bóng sẽ không đều nhau. Nước sơn “gin”, được sản xuất trên dây chuyền công nghiệp thường không thể bị bong tróc, theo thời gian sử dụng, bề mặt sơn chỉ mòn dần đi. - Động cơ: Động cơ là phần quan trọng nhất của chiếc xe và cũng là nơi khó kiểm tra nhất, động cơ xe còn tốt sẽ có những đặc điểm sau: Những con số trên công-tơ-mét thường không chính xác Kiểm tra rõ ràng số máy, số khung + Bề mặt, hình dạng những con ốc trên động cơ không móp méo hay trầy xước. + Dễ khởi động, tiếng nổ chậm, đều (khi để garanti) và ổn định. Bất cứ một trục trặc nào của các bộ phận trong động cơ (ly hợp, xích cam, xúp-páp, tay biên) đều có những tiếng động khác lạ đặc trưng khi động cơ vận hành. + Vặn hết ga mà không thấy khói ở ống xả + Sang số nhẹ nhàng (xe số). Động cơ hoạt động ngay khi kéo ga (xe ga). + Kiểm tra dầu bôi trơn sau khi động cơ làm việc (không được quá ít so với quy định, không được có ánh kim loại trong dầu) - Điện, ắc quy: Nên yêu cầu người bán tháo cốp, mở yên để kiểm tra kỹ hệ thống điện, ắc quy, IC, đi-ốt nạp. Một chiếc ắc-qui còn tốt thể hiện ở việc khởi động xe dễ dàng, đèn xi-nhan/còi hoạt động ổn định khi xe không nổ máy. - Giảm xóc: Để kiểm tra giảm xóc trước cần bóp chặt phanh trước rồi nhún mạnh nếu thấy tiếng kêu lục cục là giảm xóc đã kém hoặc bị chảy dầu, giảm xóc trước còn tốt có độ nhún sâu và êm ái, bề mặt ống nhún bóng sáng không có tỳ vết hay vệt dầu loang. Với giảm xóc sau, có thể kiểm tra bằng cách tải nặng (2 - 3 người) nếu không có tiếng kêu lạ, xe cân bằng, êm ái chứng tỏ chất lượng còn tốt. - Cảm giác khi lái: Một chiếc xe tốt phải tạo cảm giác an toàn, êm ái khi vận hành. Máy xe hoạt động ổn định khi tải nặng, xe đi qua chỗ xóc không có tiếng kêu lạ. Nên kiểm tra hệ thống lái tại những đoạn đường thật phẳng để đánh giá độ cân bằng của xe. Những chiếc xe đã từng bị đâm mạnh hay có lỗi kỹ thuật sẽ không thể có độ cân chuẩn của xe. Tìm mua một chiếc xe cũ còn tốt và giá cả hợp lý là việc làm rất khó. Nhưng nếu biết được chính xác chất lượng của chiếc xe, từ đó ta có thể định giá xe một cách chuẩn nhất. Nước sơn tốt không thể bị bong, tróc như thế này Mô-tô, xe máy có cấu tạo như thế nào? Sự phát triển của mô-tô 2 bánh Năm 1885, lịch sử thế giới ghi nhận chiếc mô-tô đầu tiên ra đời do Gotthieb Daimler (1834 - 1900 ) sáng chế, thời gian đầu xe mô-tô 2 bánh phát triển chậm do điều khiển khó khăn và tốc độ quá chậm. Đến thế kỷ XX mô-tô 2 bánh mới được sử dụng rộng rãi ở châu Âu. Thời kỳ đầu, động cơ của xe được đặt ngay trục bánh xe, xe không có giảm xóc. Dần dần, sau nhiều cải tiến, động cơ được đưa vào giữa khung xe để đảm bảo cân bằng. Các bộ phận khác như khung, li hợp (côn), hộp số, phanh, giảm xóc cũng phát triển và hoàn thiện để xe dễ điều khiển và có tốc độ tối ưu. Phân loại mô-tô, xe máy: Mô-tô, xe máy được phân loại chủ yếu dựa vào động cơ: - Nguyên lý hoạt động: 2 kỳ hoặc 4 kỳ. - Kết cấu và cách lắp đặt động cơ: + Động cơ đặt đứng + Động cơ đặt ngang + Động cơ hình chữ V - Dung tích xi-lanh: Có nhiều loại với dung tích xi-lanh thông thường từ 50 – 1500 cm3 Ngoài ra, mô-tô/xe máy còn được phân loại theo năm sản xuất, hệ thống đánh lửa, xe nam/nữ/tay ga hay các xe chuyên dùng như: thể thao, việt dã, địa hình... Cấu tạo cơ bản của mô-tô/xe máy - Động cơ: Là bộ máy gồm nhiều chi tiết, liên quan mật thiết với nhau. Đây là nơi đốt cháy nhiên liệu, nhiệt năng biến thành cơ năng và sinh ra động lực truyền sang hệ thống truyền động làm cho xe chạy. Động cơ gồm có các hệ thống chính: + Hệ thống trục khuỷu, thanh truyền + Hệ thống nhiên liệu + Hệ thống đánh lửa + Hệ thống bôi trơn, làm mát hình ảnh của chiếc mô-tô đầu tiên (1885) Động cơ hình chữ V + Hệ thống phân phối khí - Hệ thống điện: Tùy theo loại xe hệ thống điện có thể là hệ thống đánh lửa điện từ hay hệ thống đánh lửa bán dẫn. Hệ thống điện trên mô-tô/xe máy có nhiệm vụ sau: + Tạo tia lửa điện cao áp vào đúng thời điểm nhất định để đốt cháy hỗn hợp nhiên liệu trong xi-lanh động cơ. + Cung cấp điện năng có điện áp ổn định cho hệ thống đèn, còi tín hiệu. + Khởi động động cơ (đề) + Theo dõi mức nhiên liệu ở bình chứa - Hệ thống truyền động: Có nhiệm vụ truyền chuyển động từ động cơ đến bánh xe chủ động, thay đổi mô-men cho phù hợp với tải trọng và hệ thống đường sá. Hệ thống này gồm: Bộ li hợp, hộp số, nhông trước, nhông sau và xích. Ở một số loại xe dùng trục các-đăng hoặc dây cu-roa (Vespa) để truyền động. - Hệ thống chuyển động: Có tác dụng biến chuyển động quay của hệ truyền động thành chuyển động tịnh tiến của xe, nó còn có tác dụng làm cho xe chuyển động êm hơn trên mặt đường không bằng phẳng. Hệ thống này gồm: bánh trước, bánh sau và giảm xóc. - Hệ thống điều khiển: Hệ thống này có tác dụng thay đổi hướng chuyển động của xe, cho xe chạy chậm hay dừng hẳn. Hệ thống này gồm tay lái, các cần điều khiển và hệ thống phanh. - Hệ thống chiếu sáng và tín hiệu: Hệ thống này có tác dụng chiếu sáng, tạo tín hiệu còi hay đèn khi phanh xe, khi quay xe để đảm bảo an toàn giao thông cho người sử dụng. Hệ thống này gồm: các đèn pha, cốt, đèn phanh, đèn xi-nhan, các đèn báo số và còi. Ngoài những hệ thống trên, mô-tô/xe máy còn có những bộ phận khác như ống xả để giảm tiếng ồn, cần khởi động, bàn đạp phanh, tay phanh, cần số, yên xe... Hệ thống đánh lửa bán dẫn Giảm xóc
File đính kèm:
- giao_trinh_so_tay_o_to_xe_may.pdf