Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục - Chương 1: Tổng quan về phương pháp luận khoa học giáo dục

1.1. Khái niệm khoa học trong trường hợp này, có thể hiểu 1 cách đơn giản nhất là khái niệm chỉ một hệ thống tri thức nào đó, có thể là về tự nhiên, về xã hội hoặc về tư duy, trong đó phản ánh những quy luật phát triển có tính khách quan của tự nhiên, của xã hội và của tư duy đã được hình thành lâu dài trong lịch sử phát triển của khoa học được phát triển không ngừng trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người, trong một giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội nhất định.

Điều đó còn có ý nghĩa là: khoa học là kết quả của sự phát triển liên tục không ngừng, ngày càng cao của hoạt động nhận thức có tính chất đặc thù của con người nhằm mục đích cải tạo thế giới khách quan, phục vụ lợi ích của con người. Đó cũng chính là quá trình nhận thức ngày càng cao, càng sâu sắc về những quy luật vận động và bát triển của thế giới hiện thực, chúng giải thích đúng đắn nguồn gốc và sự phát triển của những sự kiện ấy, trong đó bao gồm cả sự giải thích đúng đắn những mối liên hệ bản chất của các sự kiện và hiện tượng, vũ trang cho con người những hiểu biết ngày càng mới mẻ, càng hiện đại về những quy luật khách quan của thế giới hiện thực.

Mặc dù đều phản ánh sự vận động và phát triển của tồn tại, kể cả những hình thức phản ánh những hình thái vận động ấy vào ý thức con người - các khoa học đều có điểm chung nhất là có nhiệm vụ nhận thức đúng đắn tính quy luật trong sự vận động và phát triển của thế giới khách quan, phát hiện các cách thức, con đường vận dụng những quy luật ấy vào hoạt động thực tiễn của con người.

pdf 14 trang thom 03/01/2024 1220
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục - Chương 1: Tổng quan về phương pháp luận khoa học giáo dục", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục - Chương 1: Tổng quan về phương pháp luận khoa học giáo dục

Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục - Chương 1: Tổng quan về phương pháp luận khoa học giáo dục
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM 
NGUYÊN VĂN HỘ 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC 
Thái Nguyên - 1993 
TỔNG QUAN VỀ PP LUẬN KHOA HỌC GIÁO DỤC 
1. Khoa học và PP luận khoa học. 
Muốn tận hiểu sâu về PPL khoa học, trước hết cần nghiên cứu (dù sơ lược) về bản 
thân các khoa học. 
1.1. Khái niệm khoa học trong trường hợp này, có thể hiểu 1 cách đơn giản nhất là 
khái niệm chỉ một hệ thống tri thức nào đó, có thể là về tự nhiên, về xã hội hoặc về tư 
duy, trong đó phản ánh những quy luật phát triển có tính khách quan của tự nhiên, của 
xã hội và của tư duy đã được hình thành lâu dài trong lịch sử phát triển của khoa học, 
được phát triển không ngừng trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người, trong một 
giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội nhất định. 
Điều đó còn có ý nghĩa là: khoa học là kết quả của sự phát triển liên tục không 
ngừng, ngày càng cao của hoạt động nhận thức có tính chất đặc thù của con người 
nhằm mục đích cải tạo thế giới khách quan, phục vụ lợi ích của con người. Đó cũng 
chính là quá trình nhận thức ngày càng cao, càng sâu sắc về những quy luật vận động 
và bát triển của thế giới hiện thực, chúng giải thích đúng đắn nguồn gốc và sự phát 
triển của những sự kiện ấy, trong đó bao gồm cả sự giải thích đúng đắn những mối liên 
hệ bản chất của các sự kiện và hiện tượng, vũ trang cho con người những hiểu biết 
ngày càng mới mẻ, càng hiện đại về những quy luật khách quan của thế giới hiện thực. 
Mặc dù đều phản ánh sự vận động và phát triển của tồn tại, kể cả những hình thức 
phản ánh những hình thái vận động ấy vào ý thức con người - các khoa học đều có 
điểm chung nhất là có nhiệm vụ nhận thức đúng đắn tính quy luật trong sự vận động 
và phát triển của thế giới khách quan, phát hiện các cách thức, con đường vận dụng 
những quy luật ấy vào hoạt động thực tiễn của con người. 
1.2. Trong khoa học, có các thành tố (một vấn đề có liên quan chặt chẽ với 
PPLKH) chúng ta nhận thấy rõ: 
Các tài liệu có thực con người tích luỹ được trong quá trình phát triển của khoa 
học, đó là những kết quả của những quá trình quan sát, thực nghiệm, thể nghiệm... 
Những nguyên lý khoa học được đúc kết (so sánh, phân tích, đối chiếu, tổng hợp, 
khái quát...) trên cơ sở khoa học - kể cả những giả thuyết khoa học còn cần phải chứng 
minh, kiểm nghiệm thêm trong thực tiễn. 
Những tài liệu khái quát hoá có tính chất khoa học - những kết quả này được biểu 
hiện trong các quy luật tương ứng và kể cả trong những lý thuyết riêng biệt. 
- Ngoài ra sự lý giải về mặt lý thuyết chung những quy luật do khoa học phát hiện, 
những phương pháp chung dùng để nghiên cứu hiện thực (tức là PPL khoa học-thế 
giới quan của khoa học. Kinh nghiệm hoạt động thực tiễn trong khoa học cho thấy 
rằng-nếu thiếu nó (PPLKH)) khó lòng có thể định hướng đúng trong việc tìm tòi bất cứ 
một tri thức nào. Vì lẽ ấy, PPL cũng được xem là một thành phần của khoa học. Thực 
tế cũng cho thấy trong nghiên cứu, cũng khó lòng phân biệt PPL với các tri thức khoa 
học vì mối liên hệ giữa chúng rất chặt chẽ, rất thống nhất mối liên hệ này luôn luôn 
gắn bó, hài hoà với nhau. 
1.3. Khoa học nghiên cứu, thực hiện các nhiệm vụ đề ra cho nó thông qua quá trình 
tư duy khoa học, đặc biệt là khái quát hoá về mặt lý luận (từ các sự kiện riêng lẻ của 
khoa học), bằng thực nghiệm và thường là phải khảo sát trong thực tiễn tìm ra sự phù 
hợp giữa những nguyên lý, lý luận tương ứng. 
Do vậy, trong thực tế của mọi hoạt động khoa học chúng ta phải coi trọng cả hai 
mặt nghiên cứu từ các sự kiện rời rạc riêng lẻ và tư duy khoa học để phát hiện ra các 
mối liên hệ biện chứng giữa các yếu tố trong nghiên cứu, có như vậy mới tránh được 
lối làm việc tự biện, suy lý một cách chủ quan, không phản ánh đúng bản chất của hiện 
thực . 
Sự kiện khoa học được xem là cơ sở tất yếu của khoa học, là cội nguồn và điều 
kiện. Xuất phát từ các sự kiện, khoa học mới có thể phát triển. 
Trong tác phẩm "Phép biện chứng của tự nhiên" Ph. Ănghen đã nhận xét: "Trong 
bất cứ địa hạt khoa học nào - trong địa hạt tự nhiên cũng như trong địa hạt lịch sử - 
phải xuất phát các sự kiện mà chúng ta biết được... không thể bịa ra những mối liên hệ 
và đem những mối liên hệ ấy gắn vào sự kiện mà phải rút ra những mối liên hệ ấy từ 
các sự kiện và nếu có thể phải chứng minh chúng bằng thực nghiệm. Mặc dù vậy, 
trong khoa học sự kiện cúng mới là "nguyên liệu của khoa học chứ chưa hẳn là khoa 
học thật sự. Nhờ có tư duy lý luận (khoa học) có sự trìu tượng hoá, chúng ta mới gạt 
bỏ được những yếu tố ngẫu nhiên trong các quan hệ, các hiện tượng, đi sâu vào các 
mối liên hệ, quan hệ sâu xa, phát hiện được các quy luật khách quan, luôn luôn chi 
phối và là cơ sở của các quá trình vận động của tự nhiên, của đời sống xã hội và của tư 
duy. Sự kiện thường xuất hiện rời rạc, gắn liền với các yếu tố ngẫu nhiên (trong nhận 
thức, trong hoạt động) và hàng loạt các sự kiện xuất hiện, vận động và phát triển 
tuân theo các quy luật có tính chất khách quan muốn nhận thức được chúng, chúng ta 
phải nghiên cứu một cách công phu, nghiêm túc (trong từng lĩnh vực chuyên môn, 
khoa học). 
Trong phạm vi phương pháp luận khoa học, chúng ta vừa coi trọng cái ngẫu nhiên 
vừa coi trọng những yếu tố mang tính tất yếu, bởi vì theo lôgíc phát triển của nhận 
thức khoa học, cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên luôn luôn đan xen vào nhau và thường 
thì cái ngẫu nhiên chính là một dạng hoặc một hình thức vận động và phát triển của cái 
tất yếu, có quy luật. Chúng ta có thể khảo sát, nhận ra đặc điểm trên trong bất cứ lĩnh 
vực nhận thức khoa học nào. 
Động lực thúc đẩy sự phát triển của bất cứ khoa học nào, cơ sở của tri thức khoa 
học, tiêu chuẩn để đánh giá sự chính xác của các nguyên lý trong các khoa học chính 
là thực tiễn (thực tiễn vận động và phát triển của giới tự nhiên, của xã hội, của hoạt 
động có ý thức của con người...). 
1.4. Lịch sử phát triển của các khoa học đã chỉ ra rằng sự phát triển của các khoa 
học gắn liền với việc nêu lên được những nguyên lý, những quy luật mới (trong nội 
dung của các khoa học): tính chất mới mẻ của sự sáng tạo này vượt lên, phong phú, 
sâu sắc hơn hẳn mức độ, phạm vi của các hệ thống lý luận vốn có (trong khoa học nào 
đó) làm cơ sở cho việc nghiên cứu tiếp tục, làm tiền đề cho sự nghiên cứu, phát hiện, 
hình thành những phát hiện, sáng tạo mới. Hơn thế nữa, sự phát triển của khoa học còn 
góp phần tạo ra các phương pháp trên tòi, nghiên cứu mới, sáng tạo nên những lôgíc 
mới thích ứng với từng inh vực khoa học - người ta thường nói gọn là sáng tạo ra lôgíc 
mới trong nhận thức, trong phương pháp nghiên cứu vượt xa các tư duy lôgíc thông 
thường. 
Các quy luật khoa học như trên đã nhận xét, luôn luôn mang tính chất khách quan, 
tính chân lý, trong từng giai đoạn phát triển của bản thân khoa học chúng mang tính ổn 
định, ít thay đổi. Trong quá trình phát triển của một khoa học, chức năng của các quy 
luật rất đa dạng: trước hết đó là các quy tắc của các hệ thống tri thức xác thực tức là 
nội dung của một inh vực khoa học. Trong khoa học, các khái niệm, quy tắc, quy luật 
đôi khi dùng với nội hàm tương tự với nhau. Quy luật được coi như tương đồng với 
quy tắc khi nó thể hiện chức năng của logíc khoa học trong việc hệ thống hoá tri thức, 
với tư cách là nguyên lý khởi đầu trong việc xây dựng lý thuyết khi hình thành một lý 
thuyết mới, hệ thống tri thức mới. Các quy luật hình thành "nòng cốt" của các hệ thống 
lý luận, việc khám phá ra các quy luật là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của bất cứ 
quá trình NCKH nào. 
1.5. Trong điều kiện cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, khoa học với tính 
cách là một hệ thống đang được xây dựng lại một cách mới về căn bản. Muốn làm cho 
khoa học có thể đáp ứng được những nhu cầu của sự phát triển xã hội và nền sản xuất 
hiện đại, các tri thức khoa học phải trở thành tài sản của một đội ngũ đông đảo những 
chuyên gia, kỹ sư, những người tổ chức sản xuất và công nhân. Ngày nay người công 
nhân, người công dân bình thường cũng cần có tầm nhìn khoa học - kỹ thuật sâu rộng, 
phải nắm rằng những cơ sở của tri thức khoa học, khoa học đang biến thành một lực 
lượng sản xuất trực tiếp. Trong khoa học hiện đại có những đặc trưng mới, nó không 
đơn thuần chỉ đi theo sự phát triển của kỹ thuật, mà vượt qua kỹ thuật, nó trở thành lực 
lượng chủ chết của tiến bộ sản xuất vật chất - với tư cách là một chỉnh thể. Toàn bộ inh 
Vực nghiên cứu của khoa học (cả KHTN và KHXH) đã có tác dụng thúc đẩy sản xuất 
xã hội. Nếu trước đây khoa học đã phát triển như một thể chế xã hội bị cô lập hoá thì 
ngày nay nó bắt đầu thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội bằng tri thức, 
quan điểm khoa học rất cần thiết trong sản xuất vật chất, trong hoạt động chính trị, 
kinh tế trong inh vực quản lý và trong hệ thống giáo dục. Do vậy ngày nay khoa học 
đang phát triển với một nhịp độ nhanh chóng khác thường, hơn hẳn sự phát triển của 
các inh vực khác 
• Các khái niệm cơ bản của khoa học. 
Những cơ sở, những quy luật của khoa học tồn tại dưới hình thức các khái niệm 
khoa học, dưới dạng hệ thống các khái niệm. Khoa học nhằm phản ánh đối tượng của 
mình (qua các khái niệm); không có các khái niệm thì cũng không thể có hệ thống lý 
thuyết khoa học nào. Nếu xét ở cấp độ vị trí và ý nghĩa thì các khái niệm khoa học 
không hoàn toàn giống nhau. Có những khái niệm là cơ sở của một khoa học - những 
khái niệm này phản ánh những quy luật chung của đối tượng được khoa học được 
nghiên cứu và về thực chất, có quan hệ chặt chẽ với toàn bộ hệ thống lý thuyết của một 
khoa học nào đó. 
Ví dụ trong triết học, các khái niêm (phạm trù) như vật chất, tồn tại, ý thức... là các 
khái niệm cơ bản; trong giáo dục học các phạm trù quá trình sư phạm, các nguyên tắc 
giáo dục  là các phạm trùn cơ bản  
Nhưng trên thực tế, ngoài các khái niệm cơ bản còn có những khái niệm chỉ có 
quan hệ với hệ thống lý thuyết riêng biệt của ngành khoa học, không phản ánh những 
quy luật chung của khoa học đó mà chỉ phản ánh các nhân tố, các khía cạnh riêng biệt 
nào đó. 
Sự phân tích và xác định tính chất của các khái niệm khoa học có ý nghĩa thực tiễn 
rõ rệt đối với các hoạt động khoa học. Lịch sử khoa học đã từng chứng minh rằng sự 
phân tích và xem xét lại các khái niệm mở đầu của các khoa học, đôi khi lại dẫn đến 
những phát hiện mới, có tính chất cách mạng trong một lĩnh vực khoa học. Trong bất 
cứ ngành khoa học nào, khái niệm khoa học đều biểu hiện, được trình bày dưới dạng 
hệ thống, hệ thống này chính là lý thuyết của một khoa học. 
Lý thuyết thể hiện trình độ hiểu biết của con người trong một phạm vi nhận thức 
nhất định. Trong lý thuyết, tri thức đạt đến trình độ hoàn thiện nhất định nào đó vì vậy 
người ta xem lý thuyết là hình thức đặc biệt của nhận thức. Trong từng inh vực khoa 
học, lý thuyết được cấu trúc theo những phong cách nhất định, cách thức trình bày, lập 
luận, chứng minh, giải trình phù hợp với nội dung, đặc điểm của từng khoa học. Tính 
chân lý của lý thuyết mang tính chất khách quan và tính lịch sử cụ thể của từng giai 
đoạn phát triển của một inh Vực khoa học. 
Nhưng không phải bất cứ hệ thống khái niệm nào cũng tự nó trở thành lý thuyết. 
Sự lập luận, trình bày, lập luận, tóm lại là sự sắp xếp thành các cấu trúc, lập luận như 
thế nào đó để từ việc trình bày các hiện tượng, sự kiện qua đó phản ánh được tính quy 
luật của một inh Vực nhận thức khoa học - qua việc vận dụng chúng vào việc cải tạo 
thực tiễn. 
Các phán đoán cũng như các khái niệm trong một hệ thống lý thuyết hợp thành 
một chỉnh thể thống nhất, phản ánh sinh động mối liên hệ quan trọng nhất của các 
phạm trù khoa học. 
Từ nhận xét trên, có thể rút ra kết luận sau đây: lý thuyết là hệ thống tri thức khoa 
học mô tả, lập luận và giải thích được một tổng thể nào đó của các sự vật, sự việc, hiện 
tượng, cung cấp cho chúng ta những tri thức về các cơ sở hiện thực của các nguyên lý 
đã được nêu lên, gắn liền mối liên hệ có tính quy luật đã được phát hiện trong một inh 
Vực hoạt động khoa học nhất định. Xét về bản chất, lý thuyết luôn luôn mang tính chất 
gợi mở, luôn luôn tạo ra tiền đề cho sự tìm tòi, phát hiện những sự kiện và những tri 
thức, những quy luật mới trong quá trình nghiên cứu khoa học. Những thống kê trong 
lĩnh vực khoa học gần đây cho thấy rằng 2/3 những tri thức khoa học và 95% lượng 
thông tin khoa học về các thành tựu khoa học-kỹ thuật của loài người mới được phát 
hiện, sáng tạo nên trong thế kỉ XX. Như thế cũng có nghĩa là những hệ thống tri thức 
với những phát hiện mới về lý thuyết ngày càng phát triển theo những đường lối, 
phương pháp mới. Hiện nay, hàng năm trên thế giới có tới hàng trăm triệu công trình 
nghiên cứu lớn nhỏ, trong đó có quãng 30 triệu sách và ấn phẩm mới, có tới 13 triệu 
phát minh mới được đăng tải và giới thiệu; ngoài ra hàng năm cũng còn có quãng 4 
triệu bài báo về KHKT được c ông bố. . . 
2. Về phương pháp luận của nhận thức khoa học. 
2.1. Trong đời sống hàng ngày con người vẫn nhận thức được thế giới hiện thực 
cách nhận thức thông thường này diễn ra ở dạng: phỏng đoán, giả định (các tình huống 
của sự vật, sự việc), nhưng nhìn chung thường dựa trên kinh nghiệm sống của con 
người và thường không cần kiểm tra bằng các phương tiện kỹ thuật hoặc bằng các 
phương pháp có tính khoa học chặt chẽ. Chính vì vậy, trong quan niệm, người ta coi 
nhận thức thông thường mang tính chủ quan, tự phát nhằm giải quyết các nhiệm vụ 
thực tiễn trong một phạm vi hẹp, chưa cần đến các lý thuyết trừu tượng, những mô 
hình có tính khái quát, thường chỉ đạt đến trình độ diễn dịch, quy nạp giản đơn. Tuy 
vậy, trong thực tế, nhận thức thông thường là trình độ nhận thức phổ biến, hợp với 
trình độ nhận thức chung của toàn xã hội, gắn liền với đời sống hàng ngày (thường thể 
hiện trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ mà ta vẫn nghe, vẫn áp dụng). 
2.2. Nhận thức khoa học là dạng nhận thức thế giới hiện thực bằng phương pháp 
khoa học, xét về mặt chất lượng cao hơn hẳn so với trình độ nhận thức thông thường. 
Ví như trong những năm trước mắt, muốn giải quyết tết, chính xác các vấn đề do thực 
tiễn cách mạng Việt Nam đề ra chúng ta phải: "... Vận dụng sáng tạo và phát triển học 
thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu những vấn đề cơ sở lý luận để 
hoàn thiện và triển khai thực hiện cương lĩnh xây dựng CNXH, chiến lược ổn định và 
phát triền kinh tế - xã hội ở nước ta; tập trung sức nghiên cứu các vấn đề về thời đại, 
về cuộc cách mạng KHKT hiện đại, về CNXH, về CNTBHĐ về thời kỳ quá độ lên 
CNXH ở nước ta, phù hợp với đặc điểm dân tộc và xu hướng cơ bản của thời đại". 
Điều nói trên càng làm rõ: kiến thức kinh nghiệm dù phong phú đến đâu vẫn không thể 
giúp ta giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn cách mạng, muốn giải quyết 
đúng đắn, có cơ sở khoa học, chúng cần được nghiên cứu bằng phương pháp khoa học, 
để có được nhận thức khoa học. 
Tri thức thu nhận được bằng con đường nhận thức khoa học là những tri thức đáng 
tin cậy, rất phong phú, thường có những đặc điểm sau: 
- Là hệ thống những tri thức (về tự nhiên, về xã hội, về tư duy) có cấu trúc hệ 
thống chặt chẽ, lôgíc. 
Các hệ thống này tồn tại, được trình bày dưới dạng các định luật, các khái niệm, 
các lý thuyết... làm cơ sở cho các ho ... .. quan niệm này được cụ thể hoá ở illu~ độ đâu tư rất thấp cho giáo dục. 
Do vậy, cùng với sự khủng hoảng nhiều mặt, sự nghiệp giáo dục trong nhiều năm 
nay rời vào tình trạng suy thoái (trong bối cảnh kinh tế-xã hội suy thoái nói chung). 
Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển với quy mô lớn, nâng cao chất lượng giáo dục với 
khả năng đầu tư ít ỏi cho giáo dục ngày càng trở nên gay gắt. Mặc dù bản thân ngành 
giáo dục đã có rất nhiều cố gắng lớn nhưng nhiều mục tiêu về CCGD không đạt được, 
chất lượng giảm sút, nhiều giáo viên không yên tâm làm việc đời sống quá khó khăn; 
cơ sở vật chất của công tác đào tạo quá nghèo nàn, tổ chức quản lý giáo dục quá xơ 
cứng, máy móc; sự huy động nhân dân hỗ trợ cho công tác giáo dục rất hạn chế. . . 
Từ Đại hội lần thứ VI, cùng với đường lối đổi mới, công tác giáo dục cũng đã có 
sự chuyển biến mới từ quan điểm chỉ đạo (có tính PPL) cho đến việc thay đổi cơ chế tổ 
chức - quản lý cụ thể đã bước đầu tạo ra những chuyển biến, những tiến độ nhất định ở 
một số lĩnh vực, chúng ta đã thấy được lối thoát ra khỏi các bế tắc, làm xuất hiện 
những nhân tố mới... Đại hội VII vừa qua xuất phát từ những tiền đề trên đã nêu lên 
quan điểm mới về vị trí, tác dụng của giáo dục đối với nhân tố con người "sự nghiệp 
giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố 
con người, động lực trực tiếp của sự phát triển". 
Quan điểm trên chính là một trong những quan điểm cơ bản về giáo dục có tính 
cách mạng mạnh mẽ vừa có cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc (ví dụ kinh nghiệm 
của các nước công nghiệp mới NIC đã làm rõ). Nếu những quan điểm của Đảng được 
quán triệt vào các công trình nghiên cứu về giáo dục và thực hiện đầy đủ đúng đắn 
trong toàn xã hội sẽ là một đảm bảo vững chắc cho sự thành công trong nghiên cứu 
KHGD và thực hiện đổi mới trong công tác giáo dục ở nước ta. Trong nghiên cứu 
khoa học, nhất là về KHGD, chúng ta phải coi trọng việc vận dụng và quán triệt 
phương pháp biện chứng, coi đó là cơ sở để lựa chọn các con đường, các phương pháp 
trên tòi, sáng tạo trong công việc (lao động khoa học). Phép biện chứng giúp chúng ta 
nhận thức được mối liên quan tương hỗ giữa các sự vật và hiện tượng-đó là một thể 
thống nhất, trong đó mọi yếu tố đều liên quan với nhau, phụ thuộc vào nhau và là điều 
kiện của nhau. Nếu ta xét cô lập, hoặc tách rời một sự vật nào đó khỏi môi trường, 
hoàn cảnh hoặc điều kiện xung quanh nó thì về căn bản không thể xem xét được sự vật 
đó. Trong quá trình vận động và phát triển không ngừng của sự vật luôn luôn có những 
yếu tố mới nảy sinh, lớn lên bên cạnh một cái gì đó đang tàn lụi dần. Do vậy phép biện 
chứng còn cho phép ta xem xét sự vật và hiện tượng trong quá trình vận động và phát 
triển. Sự phát triển này thường bắt đầu từ những thay đổi về số lượng, trải qua những 
biến đổi căn bản, tạo ra bước nhảy vọt, đột biến dẫn đến sự thay đổi về chất lượng 
v.v... Theo Lê nin "biện chứng, theo đúng ý nghĩa của nó là sự nghiện cứu những mâu 
thuẫn trong chính bản chất của các sự vật". Thật ra trong mọi sự vật đều có mâu thuẫn. 
Tất cả các sự vật đều bao gồm sự đấu tranh lẫn nhau, nương tựa vào nhau trong mâu 
thuẫn, chính mâu thuẫn quyết định sự tồn tại của mọi sự vật và làm cho mọi sự vật có 
thể phát triển được . . . 
Áp dụng luận điểm trên vào quá trình NCGD đòi hỏi chúng ta phải xét giáo dục 
một cách tổng thể, toàn diện, trong các mối liên hệ phức tạp đã làm nảy sinh ra nó. 
Ngay cả khi muốn lập luận, giải trình về nguyên nguyên của một hành động nào đó 
của đối tượng (học sinh, trẻ em, người lớn...). Chúng ta sẽ không thể nào có sự trình 
bày chính xác, vạch ra bản chất của hành động đó, tất nhiên cũng không thể rút ra kết 
luận đúng đắn về mặt giáo dục, nếu chúng ta chỉ xem xét nghiên cứu nó một cách cô 
lập, riêng rẽ, tách rời khỏi cuộc sống, điều kiện xã hội mà con người nào đó đang sống 
và làm việc. 
Chính là với quan điểm trên, các nhà giáo dục học, khi nghiên cứu về quá trình 
giáo dục, đều quan niệm đó là một quá trình xã hội "mang tất cả các đặc trưng của một 
quá trình xã hội, QTGD là một trình tự kế tiếp các trạng thái (giáo dục, học tập, phát 
triển) biểu hiện thông qua những hoạt động và những quan hệ (của người giáo dục và 
người được giáo dục)" có độ dài về thời gian, hướng vào những mục đích mà xã hội 
yêu cầu, vận động và phát triển do "các nhân tố bên trong và bên ngoài và tuân theo 
những quy luật khách quan vốn có của nó". Đó còn là một quá trình "mang tính toàn 
vẹn, tổng thể, được tổ chức và lãnh đạo một cách có ý thức, có kế hoạch". 
Áp dụng vào việc nghiên cứu giáo dục, chúng ta cũng thấy rằng, sự đấu tranh giữa 
các mặt đối lập chính là nội dung bên trong của quá trình phát triển. Ví như ở trẻ em, 
quá trình phát triển ở mỗi em đều diễn ra rất phức tạp-đó là cuộc đấu tranh giữa những 
cái mới và cái cũ; cái hợp lý và bất hợp lý - như trong việc giáo dục đạo đức chẳng 
hạn. Theo Nguyễn Khắc Viện thì đổi mới đối tượng nào, đạo đức vẫn là "một tổng hoá 
xây dựng" với: 
- Những nếp sống, những thói quen hình thành từ bé, trong một quá trình được hay 
bị rèn luyện, uốn nắn trong nhiều năm; 
Sự tôn trọng những quy tắc của xã hội. 
- Ý thức về những giá trị do chính bản thân nhận thấy là hay, là đẹp, là thiêng liêng 
nên tự nguyện cố gắng làm theo. (Gọi chung là lý tưởng). 
Ở tuổi nào cũng cần phải chú ý cả 3 mặt. Nhưng ở mỗi lứa tuổi, cần đặt trọng tâm 
vào những điểm riêng biệt. Nói một cách khái quát, ở nhà trẻ mẫu giáo chủ yếu là tạo 
ra những nếp sống, những thói quen ở trường phổ thông cơ sở chủ yếu đưa học sinh 
vào kỉ luật tổ chức, biết tôn trọng quy tắc của xã hội và bắt đầu gợi lên lý tưởng; đến 
tuổi thanh niên, tập trung vào vấn đề lý tưởng". Phép biện chứng duy vật vạch ra rằng 
sự đấu tranh giữa các mặt đối lập cũng chính là nội dung bên trong của quá trình phát 
triển. Áp dụng vào lĩnh vực giáo dục, chúng ta sẽ phát hiện ra rằng sự phát triển ở mỗi 
học sinh là một quá trình phát triển phức tạp, cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ-đối 
với nhà nghiên cứu, việc phát hiện ra những nhân tố mới là cực kỳ quan trọng, có phát 
hiện được như vậy, nhà nghiên cứu mới có cơ sở để phát triển các tư tưởng, quan điểm 
tiến bộ, vươn tới sự sáng tạo. Điều đó cũng giúp chúng ta nhận thức rõ ràng: trong lịch 
sử xã hội việc giáo dục con người luôn luôn tồn tại nhưng chúng cũng luôn luôn phát 
triển. Nội dung và hình thức, phương pháp giáo dục cũng luôn luôn phát triển, biến đổi 
theo quy luật phủ định của phủ định-cái mới sẽ dần dần thay thế những yếu tố đã lạc 
hậu, lỗi thời song song với việc tiếp nối kế thừa những yếu tố hợp lý trong nội dung, 
hình thức và phương pháp cũ. 
- Vai trò của thực tiễn và khả năng nhận thức của con người. 
Đối với các nhà khoa học, dù muốn hay không, chúng ta luôn luôn gặp phải các 
vấn đề có liên quan đến các phạm trù thực tiễn và khả năng nhận thức của con người. 
Đặc biệt đối với các nhà nghiên cứu về KHXH, nhất là KHGD thì vấn đề này lại càng 
có ý nghĩa thực tế rõ rệt. 
Mọi vấn đề nghiên cứu của nhà KHGD đều xuất phát từ các hoạt động của hệ 
thống giáo dục quốc dân nhằm đáp ứng các yêu cầu của xã hội. Thực tiễn là cơ sở của 
mọi dạng hoạt động nhận thức. Nguyên lý này rất quan trọng đối với chúng ta vì nó 
vạch ra hướng đi và cách hoạt động đúng đắn của nhà KHGD chân chính - để nghiên 
cứu KHGD về căn bản, con đường chủ yếu là phải đi sâu vào thực tiễn giáo dục, phải 
tham gia, hoà mình vào các hoạt động ấy. Các lý thuyết giáo dục không thể được "sáng 
tạo" trong các phòng thí nghiệm hoặc bằng cách tự biện. Vận dụng các lý thuyết, các 
quan điểm, tổ chức kiểm chứng qua các công trình nghiên cứu thể nghiệm, thực 
nghiệm với cả một hệ thống phương pháp phong phú đáng tin cậy, biến các quan điểm, 
giả thuyết thành các lý thuyết đáng tin cậy v.v.. là con đường hoạt động sáng tạo hợp 
lý. Nó vừa là mục đích, vừa là tiêu chuẩn để giám định, đánh giá chất lượng của một 
công trình nghiên cứu về KHGD. Như vậy cũng có nghĩa là các quy luật về giáo dục là 
có thực, nó tồn tại khách quan ngay trong các quá trình giáo dục, các quá trình hoạt 
động và phát triển của trẻ, của học sinh. KHGD hoàn toàn có khả năng nhận thức được 
các quy luật ấy miễn là đảm bảo đủ các điều kiện và có được các nỗ lực hoạt động tìm 
tòi, sáng tạo hộp với quy luật nhận thức khoa học. 
Trong thực tiễn phát triển giáo dục ở nước ta, gần đây cũng thấy có những dấu 
hiệu phát triển của giáo dục và KHGD. Nhiều nhân tố mới đã phát triển, đối lúc khá 
căng thẳng, cực đoan. 
Ví dụ: Chỉ mới cách đây mươi năm về trước, hệ thống giáo dục quốc dân của ta chỉ 
tồn tại, duy trì một hệ thống nhà trường quốc lập, hoạt động theo cơ chế bao cấp. Có 
lúc sức ép của xã hội đối với nhà trường trở nên gay gắt, nhất là ở bậc trung học. 
Trường cấp III không sao thu hút hết số học sinh thi vào, trong lúc Nhà nước cũng 
không bao giờ có đủ kinh phí để chi cho giáo dục. Nhưng rồi học sinh cấp III học xong 
lại "thất nghiệp" vì không thi vào được đại học, mà ngay cả số học xong đại học rồi 
cũng chẳng kiếm nổi công ăn việc làm. 
Từ khi có đổi mới, chúng ta bình tĩnh xem xét lại cũng cách làm ăn của mình, tham 
khảo kinh nghiệm của các nước trong khu vực, chúng ta mới nhận ra rằng: cách làm 
giáo dục của ta chưa xuất phát từ tình hình thực tế của xã hội ta, vì thế các giải pháp 
trong mục tiêu, nội dung, phương thức đào tạo còn quá gò bó, không thoát ra khỏi cái 
vòng luẩn quẩn của một đất nước nghèo, chậm phát triển. 
Đến Đại hội VII vừa qua, chúng ta mới nhận thức lại vị trí đích thực của giáo dục, 
mới xác định rõ: muốn tiếp tục phát triển được giáo dục, làm cho giáo dục từng bước 
đáp ứng các yêu cầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa thì phải định hướng lại mục tiêu 
giáo dục, xác định lại quy mô, cơ cấu, kể cả nội dung và phương thức đào tạo. Đặc biệt 
là phải có các chính sách mới về giáo dục mà lâu nay ít được tìm hiểu để vận dụng như 
xã hội hoá, đa dạng hoá giáo dục; dân chủ hoá quá trình giáo dục, hiện đại hoá và mềm 
(linh hoạt) hoá giáo dục; đảm bảo thường xuyên hoá giáo dục đồng thời đảm bảo tính 
chất nhân văn của các quá trình giáo dục và đào tạo... Nói một cách khác, để giáo dục 
thoát ra khỏi các bế tắc hiện có, để nâng dần từng bước chất lượng giáo dục thì phải 
thực hiện đúng các chính sách, các định hướng kể trên trên cơ sở đầu tư đúng mức cho 
công tác giáo dục và nâng cao địa vị, cải thiện đời sống của đội ngũ cán bộ - giáo viên 
trực tiếp làm công tác giáo dục. Hàng loạt các vấn đề đòi hỏi khoa học phải nghiên cứu 
và nhiều vấn đề mới mẻ, mới được thực tiễn đặt ra, đang được nghiên cứu giải quyết 
như vấn đề "bảo đảm tính liên thông" giữa hệ thống GDPT và hệ thống trường dạy 
nghề "trong tình hình mới hiện nay, đảm bảo cho việc giáo dục thích ứng và bắt kịp xu 
thế phân bố nguồn lực và bồi dưỡng nhân tài" trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước 
ta. 
3. Nói một cách tóm tắt: Trong hoạt động thực tiễn, giáo dục cũng như trong nhận 
thức lý luận (nghiên cứu KHGD) luôn luôn đòi hỏi chúng ta vân dụng một cách trực 
tiếp hoặc gián tiếp các quan điểm có tính chất PPL khoa học giáo dục. Đó là một yêu 
cầu thường xuyên, gắn bó chặt chẽ với mọi quá trình phát triển của KHGD. 
3.1. Phương pháp luận KHGD luôn luôn có các chức năng sau đây: 
- Chức năng thế giới quan 
- Chức năng PPL (hiểu theo ý nghĩa cụ thể của từ này). Nắm vững 2 chức năng này 
sẽ giúp chúng ta tiếp cận tổng quát đối với thế giới hiện thực (đối với KHGD là các 
đối tượng thuộc lĩnh vực giáo dục) và định hướng nhà nghiên cứu vào việc lựa chọn 
các con đường, các cách thức để nhận thức đúng đắn hiện thực. Như vậy phạm vi bao 
quát của PPLKHGD rất rộng, bao hàm từ việc lựa chọn các quan điểm xuất phát, các 
quy luật cơ bản, các nguyên lý tổng quát về giáo dục, các nguyên tắc tiếp cận hiện thực 
và kể cả mọi hoạt động nhận thức, tổ chức, tiến hành việc giáo dục và nghiên cứu nó 
trong thực tiễn. 
Hai chức năng này luôn luôn gắn bó với nhau, hoà nhập với nhau, thống nhất trong 
một chỉnh thể với tư cách là PPL tổng quát về nhận thức KH của KHGD. 
3.2. Về mặt cấu trúc, theo nhiều nhà nghiên cứu, PPL KHGD bao gồm các bộ phận 
sau đây: 
- Thứ nhất: Cơ sở triết học của KHGD (có người gọi là cơ sở triết lý của giáo dục), 
những cơ sở này thường được nghiên cứu, xem xét trong mối quan hệ thống nhất hữu 
cơ với các vấn đề kinh tế-chính trị học và xã hội học. Nó đòi hỏi nhà nghiên cứu phải 
xem xét giải quyết các vấn đề giáo dục trong những điều kiện kinh tế - xã hội, trong 
điều kiện lịch sử cụ thể, phù hợp với xu thế phát triển của KHGD hiện tại. 
- Thứ hai: Bao gồm các tri thức khoa học về giáo dục-lĩnh vực hiện thực mà chúng 
ta đang nghiên cứu. Giáo dục ở đây được hiểu với tư cách là một hiện tượng xã hội, 
tồn tại khách quan, một dạng hoạt động xã hội có tính tất yếu trong xã hội loài người, 
một chức năng sinh tồn của xã hội... 
Những tri thức về đối tượng nghiên cứu, là một mặt quan trọng của inh Vực nghiên 
cứu, là một nội dung quan trọng trong PPL khoa học giáo dục. Đương nhiên những tri 
thức về lĩnh vực nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu kể trên luôn luôn được định 
hướng bởi những quan điểm triết học chân chính về giáo dục. 
- Thứ ba: Là hệ thống (còn gọi là bộ máy) các phạm trù và các khái niệm cơ bản 
của khoa học giáo dục, được hình thành trên cơ sở khái quát các hiện tượng giáo dục. 
Những hệ thống khái niệm này được trình bày kỹ càng trong phần "Lý luận chung" 
trong các giáo trình về KHGD nói chung cũng như trong Giáo dục học nói riêng. Trình 
độ khái quát của các khái niệm, phạm trù KHGD càng cao, càng sâu sắc bao nhiêu thì 
việc vận dụng chúng để đi sâu vào bản chất và các quy luật của hiện tượng giáo dục 
càng cao bấy nhiêu. Cũng như trong các khoa học khác, hệ thống bộ máy, phạm trù và 
khái niệm trong KHGD càng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện thêm để đáp ứng 
các yêu cầu thực tiễn trong quá trình phát triển của KHGD. 
- Thứ tư là hệ thống những tri thức khoa học và kết cấu lôgíc của các ngành hẹp 
(bộ môn) trong hệ thống khoa học giáo dục; trong đó các nội dung chủ yếu, các mối 
liên hệ nội tại trong từng bộ môn cùng được định hướng bởi những quan điểm 
PPLKH, được trình bày và phát triển trong mối liên quan mật thiết với các ngành khoa 
học có liên quan (xã hội học, khoa học lịch sử, tâm lý học sư phạm 
Thứ năm là hệ thống những tri thức về lôgíc của quá trình nghiên cứu về khoa học 
giáo dục; các nguyên tắc về việc lựa chọn và ứng dụng các phương pháp nghiên cứu 
cụ thể trong lĩnh vực KHGD kể cả việc ứng dụng đưa những tiến bộ về khoa học kỹ 
thuật vào nghiên cứu KHGD, các con đường ứng dụng chúng vào hoạt động thực tiễn 
giáo dục... 
Những điều tổng quan được trình bày trên đây chính là nội dung và cấu trúc của 
PPL KHGD. Nó thể hiện sự vận dụng và quán triệt những nguyên lý cơ bản của triết 
học duy vật biện chứng vào việc định hướng cho mọi hoạt động, mọi quá trình nghiên 
cứu về KHGD. 
Tất nhiên, cũng giống như trong các khoa học khác, các nguyên lý cơ bản này 
không thể thay thế hoàn toàn những nguyên tắc, những phương pháp nghiên cứu cụ 
thể trong KHGD. Để có thể thực hiện một công trình nghiên cứu, một mặt cần nắm 
vững PPLKHGD nhưng đồng thời phải có những tri thức và kỹ năng vận dụng các 
phương pháp nghiên cứu, sáng tạo cụ thể. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_phuong_phap_nghien_cuu_khoa_hoc_giao_duc_chuong_1.pdf