Giáo trình ngữ âm Tiếng Việt (Phần 2)

Ranh giới âm tiết

Nhìn chung, trong chuỗi âm thanh, ranh giới giữa các âm tiết luôn luôn được xác

định một cách dứt khoát, rõ ràng, tách bạch, nghĩa là có tính cố định. Ranh giới âm

tiết không bao giờ xê dịch so với ranh giới của những đơn vị mang nghĩa. Người

nói, dù phát âm nhanh hay chậm thì người nghe vẫn nhận ra từng khúc đoạn âm

thanh (âm tiết) được đánh dấu bằng những chỗ ngừng nghỉ rõ ràng. Chẳng hạn: cá

tươi không bao giờ phát âm thành cát ươi, cảm ơn không phát âm thành cả mơn,

mộ tổ không phát âm thanh một ổ, v.v. So sánh với các ngôn ngữ châu Âu, ta thấy

âm tiết trong các ngôn ngữ này không cố định về ranh giới âm tiết mà có sự xê

dịch. Chẳng hạn, tiếng Nga: cmoл (cái bàn), số ít - một âm tiết, nhưng cmoлы

(những cái bàn), số nhiều - phát âm thành hai âm tiết cmo - лы. Ta thấy, âm [л]

vốn là yếu tố của âm tiết cmoл nhưng lại tách ra (xê dịch) để tổ chức âm tiết mới.

Xét về mặt cấu âm, ở các âm tiết Việt, các âm tố mở đầu âm tiết có xu hướng mạnh

cuối, tức là gắn chặt với các yếu tố đi sau nó; còn các âm tố ở cuối âm tiết lại có xu

hướng mạnh đầu, nghĩa là gắn chặt với các yếu tố trước nó. Do đó, ranh giới giữa

các âm tiết luôn luôn cố định trong chuỗi âm thanh.

pdf 140 trang kimcuc 14620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình ngữ âm Tiếng Việt (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình ngữ âm Tiếng Việt (Phần 2)

Giáo trình ngữ âm Tiếng Việt (Phần 2)
 ĐẠI HỌC VINH 
 KHOA SƯ PHẠM NGỮ VĂN 
 GIÁO TRÌNH 
NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT 
 (Dành cho sinh viên các ngành chuyên ngữ) 
 2. Vương Hữu Lễ, Hoàng Dũng, Ngữ âm tiếng Việt, Nxb Đại học sư phạm Hà 
Nội, H. 1994, từ tr.29 - 70. 
 3. Nguyễn Hoài Nguyên, Ngữ âm tiếng Việt, Đại học Vinh, Vinh 2007, từ tr.10 - 
21. 
 Chương 2. NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI 
 Bài 1. ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT 
 Phân phối thời gian 
 1. Học trên lớp: lí thuyết: 3 tiết; thảo luận, bài tập: 2 tiết 
 2. Tự học: 7 tiết 
1. Đặc điểm của âm tiết tiếng Việt 
 Trong tiếng Việt, âm tiết có cương vị ngôn ngữ học khác với âm tiết trong các 
ngôn ngữ châu Âu. Âm tiết tiếng Việt có những đặc điểm sau đây: 
1.1. Âm tiết tiếng Việt có tính đơn lập cao trong lời nói 
 Tiếng Việt là ngôn ngữ thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, dĩ nhiên, âm tiết có 
tính đơn lập nhưng mức độ cao. Trong chuỗi âm thanh của tiếng Việt, âm tiết là 
đơn vị ngữ âm có tính đơn lập cao, tức là có khả năng đứng riêng rẽ, độc lập, mức 
độ cao. Mỗi âm tiết chiếm giữ một khúc đoạn riêng biệt, tách bạch. Tính đơn lập 
mức độ cao của âm tiết tiếng Việt có thể lí giải trên những chứng cứ sau: 
 - Ranh giới âm tiết 
 Nhìn chung, trong chuỗi âm thanh, ranh giới giữa các âm tiết luôn luôn được xác 
định một cách dứt khoát, rõ ràng, tách bạch, nghĩa là có tính cố định. Ranh giới âm 
tiết không bao giờ xê dịch so với ranh giới của những đơn vị mang nghĩa. Người 
nói, dù phát âm nhanh hay chậm thì người nghe vẫn nhận ra từng khúc đoạn âm 
thanh (âm tiết) được đánh dấu bằng những chỗ ngừng nghỉ rõ ràng. Chẳng hạn: cá 
tươi không bao giờ phát âm thành cát ươi, cảm ơn không phát âm thành cả mơn, 
mộ tổ không phát âm thanh một ổ, v.v.. So sánh với các ngôn ngữ châu Âu, ta thấy 
âm tiết trong các ngôn ngữ này không cố định về ranh giới âm tiết mà có sự xê 
dịch. Chẳng hạn, tiếng Nga: cmoл (cái bàn), số ít - một âm tiết, nhưng cmoлы 
(những cái bàn), số nhiều - phát âm thành hai âm tiết cmo - лы. Ta thấy, âm [л] 
vốn là yếu tố của âm tiết cmoл nhưng lại tách ra (xê dịch) để tổ chức âm tiết mới. 
Xét về mặt cấu âm, ở các âm tiết Việt, các âm tố mở đầu âm tiết có xu hướng mạnh 
cuối, tức là gắn chặt với các yếu tố đi sau nó; còn các âm tố ở cuối âm tiết lại có xu 
hướng mạnh đầu, nghĩa là gắn chặt với các yếu tố trước nó. Do đó, ranh giới giữa 
các âm tiết luôn luôn cố định trong chuỗi âm thanh. 
 - Âm tiết và hình vị 
 Hình vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất mà có nghĩa, dùng để cấu tạo từ. Còn âm 
tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất trong chuỗi âm thanh (đơn vị ngữ âm). Ở các ngôn 
ngữ châu Âu, hình vị có thể nhỏ hơn hoặc lớn hơn âm tiết, nghĩa là giữa chúng 
không có mối tương quan. Trong tiếng Việt, ranh giới âm tiết và ranh giới hình vị 
phần lớn trùng khít nhau. Do đó, là đơn vị ngữ âm nhưng âm tiết lại tương ứng với 
đơn vị nhỏ nhất mà có nghĩa (tức hình vị). Chẳng hạn, các âm tiết: mẹ, về, nhà, bà, 
đồng thời cũng là những hình vị. Những trường hợp như đủng đỉnh, bù nhìn, cà 
phê, ra đi ô, v.v. ta thấy vài ba âm tiết mới tạo thành một đơn vị mang nghĩa. 
Nhưng trong hoạt động giao tiếp, người ta vẫn thường nói đủng đỉnh - đủng với 
đỉnh, cà phê - cà cà phê phê, cà phê cà pháo, v.v.. Trong những cách nói này, các 
âm tiết đủng, đỉnh trong đủng đỉnh, cà, phê trong cà phê được người nói cấp cho 
một nét nghĩa nào đấy, gọi là nghĩa lâm thời. Như vậy, âm tiết tiếng Việt (do trùng 
khít với hình vị) là những đơn vị mang nghĩa (cố định hoặc lâm thời), mà đã mang 
nghĩa, có nghĩa thì có khả năng đứng riêng rẽ, độc lập. 
 - Truyền thống ngữ văn của người Việt 
 Dựa vào đặc tính đơn lập của âm tiết, người Việt đã xác lập truyền thống ngữ 
văn gồm cách làm từ điển, chơi chữ, cách nói rút gọn, thể thơ. 
 + Làm từ điển 
 Lấy một âm tiết Hán - Việt đem đối chiếu với một âm tiết thuần Việt, dùng âm 
tiết thuần Việt để giải thích (ý nghĩa) cho âm tiết Hán - Việt theo kiểu: thiên - trời, 
địa - đất, cử - cất, tồn - còn, v.v.; hay Thiên/trời, địa/đất, vân/mây// Vũ/mưa, 
phong/gió, nhật/ngày, dạ/đêm, v.v.. Chẳng hạn, ta có thiên (nghĩa là trời) trong: 
thiên đình, thiên lôi, thiên binh, thiên tướng, thiên phú, thiên tạo, thiên nhiên, thiên 
thanh, v.v.. 
 + Cách nói rút gọn 
 Một từ có hai ba âm tiết được rút gọn trong khi sử dụng. Chẳng hạn: cử nhân > 
(ông) cử, tú tài > (cậu) tú, hợp tác xã > hợp tác > hợp, v.v.. 
 + Chơi chữ 
 Dựa vào tính đơn lập của âm tiết, người Việt đã có nhiều kiểu chơi chữ độc đáo 
như chơi chữ Hán Việt - thuần Việt, chơi chữ đồng âm, chơi chữ nói lái - đồng 
âm, chơi chữ tách ghép từ, v.v.. Chẳng hạn, câu Da trắng vỗ bì bạch, theo cách 
hiểu thuần Việt thì bì bạch là từ láy tượng thanh (mô phỏng âm trầm đục khi vỗ 
vào da), còn hiểu theo Hán - Việt thì bì có nghĩa là "da", bạch nghĩa là "trắng" 
(đồng nghĩa với từ da trắng ở đầu câu). Hay trong câu: Cô gái Hơmông bên bếp 
lửa/ Chàng trai Mường Tè dưới gốc cây, ta có Hơmông (tộc người) và Mường Tè 
(một huyên thuộc tỉnh Lai Châu) là những tên riêng, nhưng còn có Cô gái Hơ / 
mông bên bếp lửa// Chàng trai Mường / tè dưới gốc cây (chơi chữ đồng âm). 
 + Thể thơ 
 Do âm tiết có tính đơn lập cao nên người Việt lấy âm tiết làm đơn vị đo lường 
để kiến tạo thể thơ 6/8 lục bát thể hiện hồn vía dân tộc. Chẳng hạn: Dù - cho - trăm 
- thứ - bùa - mê // Vẫn - không - bằng - được - nhà - quê - chúng - mình (Đồng Đức 
Bốn). 
1.2. Âm tiết tiếng Việt có cấu trúc chặt chẽ 
 Cấu trúc là cách tổ chức bên trong của một sự vật, là tổng thể những mối quan 
hệ giữa các yếu tố trong một chỉnh thể (sự vật). 
 Trong các ngôn ngữ châu Âu, âm tiết cũng có cấu trúc nhưng hết sức lỏng lẻo, 
gần như chỉ là sự lắp ghép cơ học các âm tố (âm vị) nguyên âm và phụ âm; diện 
mạo âm tiết dễ bị phá vỡ khi đi vào câu. Còn âm tiết tiếng Việt là một chỉnh thể có 
cấu trúc chặt chẽ. Trước hết, âm tiết dơ các yếu tố ngữ âm nhỏ hơn tạo thành, có sự 
cố định về số lượng yếu tố tham gia cấu tạo: tối đa là 5 yếu tố gồm âm đầu, âm 
đệm, âm chính, âm cuối và thanh điệu; tối thiểu gồm hai yếu tố: âm chính và thanh 
điệu. Các yếu tố trong cấu trúc âm tiết được tổ chức theo hai bậc quan hệ: bậc 1, là 
bậc của các bộ phận trực tiếp tạo thành âm tiết gôm âm đầu, vần và thanh điệu; bậc 
2, gồm các yếu tố tạo thành một bộ phận của âm tiết, tức phần vần gồm âm đệm, 
âm chính và âm cuối. Quan hệ giữa các yếu tố (trong hai bậc) cũng có tính cố định. 
Cách đánh vần và cách phân tích âm tiết của người Việt chứng tỏ điều đó. 
1.3. Âm tiết tiếng Việt là đơn vị đa chức năng 
 Ngoài chức năng ngữ âm (là đơn vị phát âm nhỏ nhất, đơn vị cơ sở để tạo nên 
chuỗi âm thanh), âm tiết tiếng Việt còn đảm nhận nhiều chức năng khác. Trước 
hết, âm tiếp là điểm xuất phát để phân tích âm vị học và xác lập các đơn vị ngôn 
ngữ khác. Ở các ngôn ngữ châu Âu, các âm vị được coi là những đơn vị ngữ âm cơ 
sở để tạo nên vỏ âm thanh của hình vị, nghĩa là mỗi âm vị có thể là vỏ tiếng của 
hình vị nên người ta xuất phát từ hình vị, lấy một số hình vị làm khung để phân 
xuất âm vị, có thể bỏ qua âm tiết. Nhưng trong tiếng Việt, âm tiết thường trùng 
khít hình vị, nghĩa là vỏ hình vị và âm tiết là một, vậy nên, xuất phát từ âm tiết ta 
có thể tiến hành phân xuất các âm vị, và cùng với âm vị là âm tố. Điều đó cho thấy 
âm tiết tiếng Việt có cương vị hết sức quan trọng, được coi là đơn vị ngữ âm cơ 
bản trong ngôn ngữ. Còn nữa, do âm tiết đồng thời là hình vị nên từ âm tiết ta có 
thể xác lập các đơn vị lớn hơn như từ (đơn tiết) trong tiếng Việt. 
 Âm tiết tiếng Việt có chức năng thi ca. Âm tiết là đơn vị đo lường để tổ chức thể 
thơ lục bát dân tộc và các thể thơ mô phỏng thơ ca Trung Quốc như thơ ba chữ, 
bốn chữ, năm chữ, bảy chữ, tám chữ, v.v.. Các bộ phận của âm tiết như phần vần 
và thanh điệu tham gia tổ chức câu thơ, bài thơ. Phần vần tổ chức hiệp vần trong 
thơ nhằm liên kết các câu thơ (dòng thơ), khổ thơ, đoạn thơ thành một chỉnh thể; 
góp phần tạo tiết tấu, nhạc điệu cho thơ. Thanh điệu trong âm tiết tham gia phối 
hợp bằng trắc, tổ chức luật bằng trắc trong từng thể thơ hết sức chặt chẽ. 
2. Cấu trúc âm tiết 
2.1. Khả năng chia tách âm tiết 
 Âm tiết tiếng Việt không phải là một khối đông kín mà là một chỉnh thể được 
cấu tạo từ các yếu tố nhỏ hơn. Có nhiều sự kiện ngôn ngữ chứng tỏ âm tiết tiếng 
Việt tự mình chia tách ra thành các yếu tố nhỏ hơn. 
2.1.1. Tách âm đầu, vần và thanh điệu 
 - Tách âm đầu và vần 
 Các sự kiện sau đây chứng tỏ âm tiết được lắp ghép bở hai bộ phận đoạn tính là 
âm đầu và phần còn lại, gọi là vần. Cứ liệu đáng tin cậy nhất là cách cấu tạo từ láy: 
l/ập loè () sách s/iếc, 
(th/i >) thi th/iếc, v.v.; nói lái: đ/ồng h/ương > đ/ường h/ông, th/i đ/ua > th/ua đ/i, 
v.v.; mô phỏng ngữ âm: ép, tẹp, bẹp, xẹp, hẹp, lép, v.v.; hiệp vần trong thơ: s/ương 
- đ/ường (Nửa đời tóc ngả màu sương/ Nhớ quê anh lại tìm đường thăm quê). 
 Quan sát các hiện tượng ngôn ngữ (cấu tạo từ láy, iếc hoá, mô phỏng ngữ âm) và 
việc sử dụng ngôn ngữ (nói lái, hiệp vần thơ), ta thấy hàng loạt các sự kiện chứng 
tỏ âm tiết tiếng Việt không phải là một khối bất khả phân mà là một chỉnh thể có 
cấu trúc. Tính phân lập của các bộ phân âm tiết, trước hết là âm đầu và vần được 
thể hiện rõ ràng. 
 - Tách thanh điệu 
 Trong những từ láy kiểu đo đỏ (< đỏ đỏ < đỏ), tim tím (< tím tím < tím), v.v., 
thanh hỏi trong âm tiết đỏ, thanh sắc trong âm tiết tím đã tách khỏi phần còn lại của 
âm tiết để có thể được thay bằng thanh ngang trong các âm tiết đo (đo đỏ), tim (tim 
tím). Thêm nữa, những kiểu nói lái như: đầu tiên > tiền đâu, đấu tranh > tránh 
đâu, chống lầy > lấy chồng, v.v. cho thấy bộ phận hoán đổi giữa các âm tiết không 
phải phần vần mà là thanh điệu. Những sự kiện này cho phép ta có thể phân xuất 
thanh điệu ra khổi phần còn lại của âm tiết. 
2.1.2. Tách các yếu tố trong phần vần 
 Phần vần, ở dạng đầy đủ gồm ba yếu tố: âm đệm, âm chính và âm cuối. Dựa vào 
một số sự kiện ngôn ngữ ta cũng có thể phân xuất phần phần thành các yếu tố độc 
lập nhỏ hơn. Dĩ nhiên, việc phân xuất các yếu tố trong phần vần không hiển nhiên 
như phân xuất âm đầu, vần và thanh điệu. 
 - Tách âm đệm 
 Những biến thể từ láy vần như lay hoay (< loay hoay), lẩn quẩn (< luẩn quẩn), 
lanh quanh (< loanh quanh), v.v. ta thấy âm đệm bị lược bỏ ở âm tiết thứ nhất (lay, 
lẩn, lanh). Kiểu lái như: l/iên h/oan > l/an hu/yên (1), l/iên h/oan > l/an h/iên (2), 
ta thấy, âm đệm bị âm đầu giữ lại (ở trường hợp 1), bị lược bỏ (ở trường hợp 2). 
Trong hiệp vần thơ, âm đệm không tham gia hiệp vần, chẳng hạn: xu/ân - th/ân 
(Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân/ Bâng khuâng nhớ cụ thương thân nàng Kiều). 
Các cứ liệu trên chứng tỏ âm đệm có thể tách khỏi phần còn lại của vần. 
 - Tách âm chính và âm cuối 
 Các biến thể từ láy như xô/m xốp (< xốp xốp), đè/m đẹp (< đẹp đẹp), nhà/n nhạt 
(< nhạt nhạt), v.v., ta thấy, âm chính và âm cuối vẫn có một đường ranh giới phân 
lập, vì ở các biến thể này, âm cuối /p/ được thay bằng âm cuối /m/ (xôm xốp, đèm 
đẹp), âm cuối /t/ được thay bằng âm cuối /n/ (nhàn nhạt) trong các âm tiết thứ nhất. 
 Trong nói lái, đôi khi ta bắt gặp những kiểu nói lái như gắ/ng sứ/c > gứ/ng sắ/c, 
co/n vị/t > vi/n cọ/t, v.v.. Trong cách lái này, âm cuối của phần vần giữ nguyên, chỉ 
hoán đổi âm chính giữa các âm tiết. Ngoài ra, những tương ứng ngữ âm kiểu: nác - 
nước, đàng - đường, náng - nướng, rọt - ruột, rọng - ruộng, hun - hôn, chủi - chổi, 
v.v. cho thấy sự chuyển đổi ngữ âm chỉ thể hiện ở âm chính cũng góp phần chứng 
tỏ khả năng phân lập giữa âm chính và âm cuối trong phần vần. 
 Từ sự phân tích trên, ta thấy, các yếu tố tham gia cấu tạo âm tiết có hai mức độ 
đối lập tuỳ thuộc vào khả năng độc lập của các yếu tố, từ đó ta có thể xác định theo 
các bậc sau đây: 
 Ở bậc thứ nhất, các sự kiên cấu tạo từ láy, iếc hoá, mô phỏng ngữ âm có liên 
quan đến hình thái học hay hình âm vị học (cấu tạo từ), cho phép ta có thể phân 
xuất âm tiết ra thành ba bộ phận: âm đầu, vần và thanh điệu. 
 Ở bậc thứ hai, các sự kiện biến thể từ láy, nói lái, v.v. chỉ có tính chất ngữ âm 
thuần tuý, cho phép ta vạch ra các đường ranh giới ngữ âm học giữa các yếu tố 
trong phần vần gồm âm đệm, âm chính và âm cuối. Có thể hình dung cấu trúc âm 
tiết tiếng Việt theo hai bậc sau đây: 
 Âm tiết 
 Bậc 1. Âm đầu vần thanh điệu 
 Bậc 2. âm đệm âm chính âm cuối 
2.2. Lược đồ âm tiết tiếng Việt 
 Lược đồ là sơ đồ, là mô hình chung của âm tiết tiếng Việt. Từ trước đến nay, các 
nhà Việt ngữ học đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về lược đồ âm tiết tiếng 
Việt. Lê Văn Lí (1948), chịu ảnh hưởng các kết quả nghiên cứu của ngữ âm học 
châu Âu nên cho rằng tiếng Việt có những yếu tố tương tự như nguyên âm, phụ âm 
trong các ngôn ngữ châu Âu. Do đó, lược đồ của ông là phụ âm + nguyên âm + 
phụ âm, trong đó, phụ âm đầu và cuối có thể vắng mặt, còn nguyên âm bao giờ 
cũng có mặt. Ông viết: Một kí hiệu thanh tính đơn trong tiếng Việt có thể tồn tại 
theo bốn kiểu khác nhau: kiểu 1: một mình nguyên âm; kiểu 2: nguyên âm + phụ 
âm; kiểu 3: phụ âm + nguyên âm; kiểu 4: phụ âm + nguyên âm + phụ âm. 
 Emeneau (1951) cũng có cách nhìn nhận về cấu tạo âm tiết Việt Nam như Lê 
Văn Lí. Tuy có nói đến thanh điệu và trọng âm trong âm tiết nhưng chủ yếu tác giả 
cho rằng hạt nhân căn bản của từ tiếng Việt là nguyên âm; đứng trước và sau hạt 
nhân nguyên âm có thể là một phụ âm. Vậy là, lược đồ của ông cũng chỉ là một tổ 
hợp âm đoạn gồm phụ âm + nguyên âm + phụ âm, một tổng số của những đơn vị 
bình đẳng. 
 Cách miêu tả âm tiết tiếng Việt như trên còn bắt gặp ở tác giả Hoàng Tuệ 
(1962). Theo Hoàng Tuệ, lược đồ âm tiết tiếng Việt sẽ là C1VC2, trong đó, C1 là 
thuỷ âm (âm đầu), C2 là chung âm (âm cuối), V là nguyên âm. Như vậy, rõ ràng là, 
đối với Lê Văn Lí, M.B. Emeneau và cả Hoàng Tuệ, cái nổi bật trong hệ thống ngữ 
âm tiếng Việt là nguyên âm và phụ âm. 
 Tiếp thu thành tựu của Âm vận học Trung Hoa, tác giả Nguyễn Quang Hồng 
(1994) khẳng định, âm tiết tiếng Việt một mặt giữ chặt biên giới của mình trong 
ngữ lưu nhưng mặt khác lại khẳng định cấu trúc đoạn tính của chỉnh thể âm tiết và 
có thể phân xuất từ âm tiết ra thành các đại lượng ngữ âm khác nhau. Dựa vào các 
cứ liệu như cấu tạo từ láy, iếc hoá, nói lái... tác giả tiến hành phân xuất hai đại 
lượng âm thanh đoạn tính trong thành phần cấu trúc âm tiết là âm đầu và vần cái, 
và cùng với hai thành phần như cái khung âm điệu của âm tiết, hai đại lượng âm 
thanh siêu đoạn tính là âm đệm và thanh điệu. Lược đồ âm tiết của tác giả Nguyễn 
Quang Hồng được hình dung như sau: 
 thanh điệu 
 âm đệm 
 âm đầu vần cái 
 Tác giả tiến hành tính đếm số lượng các đơn vị âm thanh (âm vị) gồm âm đầu là 
21 đơn vị (phụ âm), vần cái 124, trong đó có 12 vần đơn (vần mở) và 112 vần phức 
(bao gồm vần nửa mở, vần nửa khép và vần khép). 
 Tiếp thu các quan điểm của các nhà Đông phương học Xô Viết như 
E.Polivanov, A.Dragunov, E.N.Dragunova, M.V.Gordina, v.v., các nhà Việt ngữ 
học đã không xây dựng hệ thống ngữ âm tiếng Việt thành hệ thống nguên âm và 
phụ âm, cũng không nhìn nhận theo cách mô tả của Âm vận học Trung Hoa mà 
tiến hành xác lập hệ thống bốn thành tố cấu trúc âm tiết gồm âm đầu, âm đệm, âm 
chính và âm cuối. Công thức xác lập bốn thành tố này gọi là công thức Polivanov. 
Bởi lẽ, năm 1930, kh ... 
thì thầm (tiếng~) vocal murmur 
thiết chế institution; institutional 
thính giác hearing 
thoả đáng (sự~) adequacy 
thổ ngữ patois; subdialect 
thống kê ngữ âm học phonometry 
thời điểm khởi thanh voice onset time 
thời gian khởi phát tiếng nói voice onset time 
thời hiện tại present 
thời lượng duration 
thủ pháp phân tích analytic procedure 
thủ pháp trắc nghiệm cloze testing procedure 
thụ đắc (quá trình~) acquisition 
thụ đắc ngôn ngữ (quá trình~) language acquisition 
thuật ngữ term 
thuật ngữ chuyên mon special term; technical term 
thuộc tính cố hữu inherent attribute 
thuộc tính của đối tượng PA; picture aider 
thuộc tính không cố hữu non-inherent attribute 
thuỷ âm initial 
thuỷ âm zero null initial; zero initial 
thuyết minh interpretation 
thuyết mô phỏng imitation theory 
thuyết phục (sức~) persuasion; persuasive (adj) 
thư pháp calligraphy 
thứ tự (số~) ordinative 
thứ yếu secondary 
thực hiện (sự/ cách~) realization 
thực tại reality 
thực thể entity 
thường tồn permanent 
thường xuyên permanent 
thượng thanh (nh. thanh cộng hưởng) overtone 
tiền âm tiết presyllable 
tiền bật hơi preaspiration 
tiền giả định tiêu điểm focus presupposition 
tiền khẩu mạc (âm~) prevelar 
tiền mũi hoá prenasalized 
tiền thanh hầu hoá preglottalizer 
tiền tố prefix; prefixal 
tiếng (nh. âm tiết) syllable 
tiếng (nh. ngôn ngữ) language 
tiếng bật ra outburst 
tiếng buông mũi nasal release; nasal plosion 
tiếng chuẩn standard language 
tiếng lóng argot; slang 
tiếng mẹ đẻ (bản ngữ) mother tongue; first language 
tiếng ồn noise 
tiếng thanh voice 
tiếng thanh (nh. nhạc thanh) musical tone 
tiếng thanh (thuộc~) vocal 
tiếng thều thào/ thì thầm breathy voice; murmur 
tiếng xát friction 
tiếp xúc chặt close contact 
tiết tấu rhythm 
tiêu chí (nh.chuẩn tắc) criterion 
tiêu chí hình thức formal criterion 
tiêu chuẩn norm 
tiêu chuẩn hoá standardization 
tiêu điểm focalization 
tiêu thể (nh. tha âm chuẩn) standard allophone 
tiểu âm vị microphoneme 
tiểu chiết đoạn microsegment 
tín hiệu signal 
thông điệp message 
tình huống circumstant; circumstantial (adj) 
tình thái modality 
tĩnh (khí quan cấu âm~) stationary 
tổ hợp group 
tổ hợp âm cluster 
tổ hợp phụ âm consonant cluster 
tốc độ tempo 
tộc âm tố (D.Jones) famili of sounds 
tối thiểu (nh. nhỏ nhất) minimal 
trạng thái state; static (adj) 
trắc nghiệm giao hoán commutation test 
trắc nghiệm thay thế replacement test; substitution test 
trắc nghiệm đảo vị permutation test; inversion test 
trắc nghiệm lược bỏ deletion test 
trầm grave 
trật tự order 
tri giác perceptual; perception 
tri giác lời nói (cách~) speech perception 
tri giác ngôn ngữ (cách/việc~) language apprehension 
tri nhận (nh. nhận thức) cognition; cognitive 
tri thức (thuộc~) epistemic 
tri thức ẩn mặc tacit knowledge 
trình hiện/biểu hiện âmvị (cách~) phonemic/phonologic(al) representation 
tròn môi (âm~) rounded 
tròn môi (cấu âm~) rounding 
tròn môi (tư thế/động tác~) lip rounding 
trọng âm stress; tonic accent 
trọng âm (từ/câu) accent (word/ sentence~) 
trọng âm câu nuclear stress; sentence stress 
trọng âm từ lexical stress; word stress 
trục đối vị paradigmatic axis 
trục kết hợp syntâgmtic 
trung hoà (1) mid/ middle; neutral 
trung hoà (2) neuter 
trung hoà hoá (hiện tượng~) neutralization; syncretism 
trùng ngôn tautological; tautologous 
trước (hàng~) front 
trước ngạc (âm~) prepalatal 
trường độ quantity; length 
trường khái niệm conceptual field 
trường liên tưởng associative field 
trừu xuất abstraction; abstract 
tu từ học rhetoric 
Trường Kazan Kazan School 
Trường Praha Prague School; Praguian 
trường phái tự nhiên natural school 
tuần hoàn cycle 
tuyến đẳng âm isophone 
tuyến đồng ngữ âm isophonic line 
tuyến tính linear; linearity 
tư thế môi lip position 
từ chìa khoá keyword 
từ (đa) âm tiết polysyllable 
từ đồng âm homonym 
từ đơn single word 
từ đơn tiết monosyllable 
từ láy reduplicative 
từ nguyên học etymology 
từ nguyên học dân gian folk etymology 
từ nguyên học đồng đại synchronic etymology 
từ ngữ cổ archaism 
từ ngữ hội thoại colloquialism 
từ ngữ mới xuất hiện neologism 
từ (ngữ) ngoại lai foreignism 
từ ngữ xưng hô address form/term; form/term of address 
từ phức complex word; compound word 
từ rút ngắn telescoped word 
từ song tiết bisyllable; dissyllable 
từ tượng thanh onomatopoeia 
tứ giác nguyên âm (hình~) quadrilateral of vowels 
Tự mãu ngữ âm quốc tê International Phonetic Alphabet 
tự vị grapheme 
tự vị học graphemics 
tương cận (sự~) affinity 
tương đồng similar; similarity 
tương đồng về ngữ âm phonetic similarity 
tương đương về chức năng functional equivalence 
tương liên correlative 
tương liên (thế~) correlation 
tương liên bật hơi (thế~) correlation of aspiration 
tương liên môi mạc hoá (thế~) correlation of labiovelarization 
tương liên ngạc hoá (thế~) correlation of palatalization 
tương liên phụ âm điệp (thế~) correlation of gemination 
tương liên về độ căng (thế~) correlation of tension 
tương liên về lượng (thế~) correlation of quantity 
tương liên về quan hệ (thế~) correlation of relation 
tương liên về thanh (thế~) correlation of voice 
tương liên về tiếp xúc (thế~) correlation of contact 
tương liên về tính mũi (thế~) correlation of nasality 
tương liên về tính tắc (thế~) correlation of occclusion 
tương liên về trọng âm (thế~) correlation of accent 
tương phản (trong kết hợp) contrast (in praesentia) 
tương tác (hoạt động~) interaction 
tương thuộc (quan hệ~) interdependence 
tương tự similar; similarity 
tương ứng (sự~) correspondence 
tương ứng một đối một one-to-one correspondence 
ưng ứng một đối một (sự~) one(-to)- one correspondence 
tương ứng một đối một (trong âm vị học) biuniqueness 
u-umlaut u umlat (tức chữ ǜ đọc [y] hay [Y] 
uốn lưỡi cacuminal; retroflex 
uốn lưỡi (sự~) retroflexion 
uyển âm (nh. mĩ âm pháp) euphony 
ứng xử (cách~) behabitive 
V 
vạch nghiêng (hai bên kí hiệu âm vị học) bars; slants; solidi 
vành lợi alveolar ridge; alveolum 
vành lưỡi rim 
văn bản text 
văn cảnh context; co-text 
văn tự script 
văn tự âm tiết tính syllabary; syllabic script 
văn tự ABC alphabetic writing 
văn tự ghi âm phonetic writing 
văn tự ghi âm tiết syllabary; syllabic script 
văn tự ghi âm tố alphabetic writing 
văn tự ghi ý ideographic script 
văn tự ngữ âm phonographic script; cenemic script 
vế hứu trưng của một thế đối lập marked term of an opposition 
vế không đánh dấu (nh. vế vô trưng) unmarked term 
vế vô trưng unmarked term 
vĩ âm (nh. kết âm) coda 
vĩ âm zero null coda; zero coda 
vị trí cấu âm place/ point of articulation 
vị trí giữa hai phụ âm interconsonantal (position) 
vị trí mang trọng âm position of stress 
vị trí ưu thế dominant position 
vị trí yếu weak position 
viết nhịu lapsus calami 
viết tắt abbreviation 
võ đoán (tính~) arbitrariness 
vô thanh unvoiced; voiceless; breathed; surd 
vô thanh hoá (hiện tượng~) devoiced; devoicing 
vô thanh hoá âm cuối final devoicing; finalli devoiced, adj 
vô thanh hoá âm đầu (hiện tượng~) initial devoicing; initially devoiced 
vô thanh hoá bộ phận (hiện tượng~) partial devoicing; partially devoiced 
vô trưng (nh. không đánh dấu) unmarked (unmarkedness, n) 
vốn ngữ liệu corpus 
vùng cấu âm articulatory region 
vùng chuyển tiếp (nh. vùng giáp ranh) transition area 
vùng cộng hưởng formant 
vùng tiêu điểm focal area 
X 
xã hội học ngôn ngữ sociolinguistics 
xác lập một kiểu tạo âm (cách~) phonatory setting 
xác suất của thanh điệu tone frequecy 
xác tín conviction 
xát hoá (hiện tượng~) spirantization 
xu hướng chuyển biến (chung của một ngôn ngữ) drift 
xuất hiện (sự~) occurrence 
xuất xứ source 
xung đột giữa từ đồng âm (sự) homonymic conflict 
xuýt hoá assibilation 
xử lí dữ liệu tự động (cách~) automatic data processing 
xử lí theo trật tự tuyến tính (cách~) linear processing 
xử lí tự động (cách) automatic processing 
xử lí văn bản (cách/việc~) text processing 
xưng hô (cách~) address form/term; form/term of address 
xương sụn hình chóp arytenoid cartilage 
xương sụn hình nhẫn cricoid cartilage 
Y - Z 
ý nghĩa meaning; sense; importance 
ý nghĩa liên nhân interpersonal meaning 
yết hầu pharynx 
yết hầu (âm~) pharyngeal 
yết hầu (phụ âm~) faucal (consonant) 
yết hầu hoá pharyngealization 
tiết hầu mũi (âm~) pharyngonasal 
yếu (phụ âm~) lenis; weak 
yếu tố luân phiên alternant 
yếu tố năng biểu significant 
yếu tố thay thế substitute 
yếu tố zero null element; zero element 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đào Duy Anh, Chữ Nôm, nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, Nxb Khoa học xã hội, 
H. 1975. 
 2. Nguyễn Phan Cảnh, Bản chất cấu trúc âm tiết tính: Dẫn luận vào một miêu tả 
không phân lập đối với âm vị học Việt Nam, Ngôn ngữ, 1978, số 2. 
 3 Nguyễn Phan Cảnh, Bản chất cấu trúc âm tiết của ngôn ngữ, trong cuốn "Một số 
vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam", Nxb ĐH và THCN, H. 1981. 
 4. Nguyễn Phan Cảnh, Âm vị học các ngôn ngữ có thanh điệu, Ngôn ngữ, 1989, số 
1+2. 
 5. Nguyễn Tài Cẩn, Ngữ pháp tiếng Việt, tiếng, từ ghép, đoản ngữ, Nxb Đại học 
quốc gia Hà Nội, H. 2004. 
 6. Nguyễn Tài Cẩn, Nguồn gốc và quá trình hình thành các đọc Hán Việt, Nxb 
Khoa học xã hội, H. 1979. 
 7. Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo), Nxb Giáo dục, 
H. 1995 
 8. Hoàng Thị Châu, Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, H. 
2004. 
 9. Hoàng Cao Cương, Về khái niệm ngôn điệu, Ngôn ngữ, 1984, số 4. 
 10. Hoàng Cao Cương, Suy nghĩ thêm về thanh điệu tiếng Việt, Ngôn ngữ, 1986, 
số 3. 
 11. Trần Trí Dõi, Về các âm tiền thanh hầu hoá trong Proto Việt-Mường, Ngôn 
ngữ, 1991, số 2. 
 12. Trần trí Dõi, Giáo trình lịch sử tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, H. 
2005. 
 13. Phạm Đức Dương, Thanh phổ các nguyên âm đơn tiếngLào, trong cuốn "Ngôn 
ngữ và văn hoá Lào trong bối cảnh Đông Nam Á", Nxb Chính trị quốc gia, H. 
1998. 
 14. Efimov, Về nguồn gốc các thanh điệu tiếng Việt, Chu Bích Thu dịch, Ngôn 
ngữ, 1991, số 1. 
 15. M.V.Gordina, Bàn thêm về vấn đề âm vị trong tiếng Việt, trong "Những vấn đề 
ngôn ngữ học", Trường ĐHTH Hà Nội, 1972. 
 16. Hồng Giao, Thử tìm hiểu một số đặc điểm của tiếng Việt, Ngôn ngữ, 1974, số 
1. 
 17. Cao Xuân Hạo, Bàn về cách giải thuyết âm vị học một số vận mẫu có nguyên 
âm ngắn trong tiếng Việt, Thông báo khoa học, tập 1, ĐHTH Hà Nội 
 18. Cao Xuân Hạo, Vấn đề âm vị học trong tiếng Việt, trong cuốn "Tiếng Việt mấy 
vấn đề ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp", Nxb Giáo dục, H. 1974. 
 19. Cao Xuân Hạo, Hai cách miêu tả hệ thống thanh điệu tiếng Việt, trong cuốn 
"Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp", Nxb Giáo dục, H. 1974. 
 20. Cao Xuân Hạo, Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng, Ngôn ngữ, 1985, số 2. 
 21. Cao Xuân Hạo, Hoàng Dũng, Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học đối chiếu Anh - 
Việt, Việt - Anh, Nxb Khoa học xã hội, 2005. 
 22. A.G.Haudricourt, Về nguồn gốc các thanh điệu tiếng Việt, Hoàng Tuệ dịch, 
Ngôn ngữ, 1991, số 1. 
 23. Nguyễn Quang Hồng, Các bài giảng Ngữ âm tiếng Việt cho sinh viên khoa 
Ngữ văn, Trường ĐHSP Vinh những năm 1978 - 1982. 
 24. Nguyễn Quang Hồng, Âm tiết tiếng Việt chức năng và cấu trúc của nó, Ngôn 
ngữ, 1976, số 3. 
 25. Nguyễn Quang Hồng, Tương phản âm thanh và khả năng phân lập đoạn tính 
trong lòng âm tiết tiếng Việt so với tiếng Hán, Ngôn ngữ, 1982, số 1. 
 26. Nguyễn Quang Hồng, Âm tiết và loại hình các ngôn ngữ, Nxb Khoa học xã 
hội, H. 1994. 
 27. Vũ Bá Hùng, Vấn đề âm tiết tiếng Việt, Ngôn ngữ, 1976, số 3. 
 28. Vũ bá Hùng, Thanh điệu- âm vị tuyền điệu của tiếng Việt, Ngôn ngữ, 1978, số 
1. 
 29. Vũ Bá Hùng, Hiện tượng tắc họng và thanh điệu tiếng Việt, Ngôn ngữ, 1988, 
số 2. 
 30. Vũ Bá Hùng, Về đặc trưng cơ bản của thanh điệu tiếng Việt ở trạng thái tĩnh, 
Ngôn ngữ, 1999, số 6. 
 31. V.B.Kasêvich, Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, Nxb Giáo 
dục, H. 1998. 
 32. Hồ Lê, Vị trí của âm tiết, nguyên vị và từ tiếng Việt, Ngôn ngữ, 1985, số 2. 
 33. Vương Hữu Lễ, Hoàng Dũng, Ngữ âm tiếng Việt, Nxb Đại học sư phạm hà 
Nội, H. 1994. 
 34. Nguyễn Văn Lợi, Về quá trình hình thành sự đối lập âm vực thanh điệu trong 
các ngôn ngữ Việt-Mường, Ngôn ngữ, 1991, số 1. 
 35. Nguyễn Văn Lợi, Thanh điệu và chất giọng trong tiếng Việt hiện đại, Ngôn 
ngữ, 1997, số 1. 
 36. J.Lyons, Nhập môn ngôn ngữ học lí thuyết, Vương Hữu Lễ dịch, Nxb Giáo 
dục, H. 1996. 
 37. Vương Lộc, Hệ thống âm đầu tiếng Việt thế kỉ XV-XVI qua cứ liệu An Nam 
dịch ngữ, Ngôn ngữ, 1989, số 1+2. 
 38. Lê Văn Lí, Le Parler Vietnamien, Sài Gòn, Bộ quốc gia giáo dục, 1960. 
 39. Lê Văn Lí, Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam, Trung tâm học liệu Sài Gòn, 1972. 
 40. Nguyễn Tri Niên, Nguyễn Phan Cảnh, Sơ lược về tình hình phát âm phân biệt 
d, gi hiện nay, Nghiên cứu văn học, 1961, số 8. 
 41. Đái Xuân Ninh, Ngữ âm học và âm vị học, trong cuốn "Ngôn ngữ học, khuynh 
hướng, lĩnh vực, khái niệm", Nxb Khoa học xã hội, H. 1986. 
 42. Hoàng Phê, Một số ý kiến về vấn đề thống nhất và tiêu chuẩn hoá tiếng Việt, 
Nghiên cứu văn học, 1963, số 3. 
 43. Hoàng Phê, Từ điển vần, Nxb Đà Nẵng-Trung tâm từ điển học, H. 1996. 
 44. Hoàng Phê, Chính tả tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, H. 
1998. 
 45. Trần Thị Minh Phương, Dùng lí thuyết tâm biên cho nghiên cứu âm vị học 
tiếng Việt, Luận án tiến sĩ ngữ văn, Viện ngôn ngữ học, H. 1993. 
 46. Hữu Quỳnh, Vương Lộc, Khái quát về lịch sử tiếng Việt và ngữ âm tiếng Việt 
hiện đại, Nxb Giáo dục, H.1980. 
 47. Hữu Quỳnh, Tiếng Việt hiện đại, Trung tâm biên soạn từ điển bách khoá Việt 
Nam, H. 1994. 
 48. Nguyễn Ngọc San, Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội, 
H. 2003. 
 49. Nguyễn Văn Tài, Tìm hiểu thêm về sự hình thành thanh điệu tiếng Việt, Ngôn 
ngữ, 1980, số4. 
 50. Nguyễn Kim Thản, Hệ thống âm vị tiếng Mường và phương án phiên âm tiếng 
Mường, Ngôn ngữ, 1971, số 1. 
 51. Nguyễn Kim Thản, Một số cơ sở ngôn ngữ học của vấn đề chữ viết, Ngôn ngữ, 
1979, số 3+4. 
 52. Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Quang Ninh, Tiếng Việt trên 
đường phát triển, Nxb Khoa học xã hội, H. 1982. 
 53. Đinh Lê Thư, Bàn về âm tắc thanh hầu mở đầu tiếng Việt, Ngôn ngữ, 1982, số 
3. 
 54. Đinh Lê Thư, Sự hiện thực hoá về mặt ngữ âm của thế đối lập hữu thanh- vô 
thanh của phụ âm đầu tiếng Việt, Ngôn ngữ, 1985, số 2. 
 55. Đinh Lê Thư, Nguyễn Văn Huệ, Cơ cấu ngữ âm tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H. 
1998. 
 56. Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, H. 2004. 
 57. Nguyễn Khánh Toàn, Về lịch sử tiếng Việt, Ngôn ngữ 1987, số 4. 
 58. Nguyễn Phương Trang, Hệ thống vần cái tiếng Việt trong sự phát triển và hoạt 
động chức năng của chúng, Luận án tiến sĩ ngữ văn, Đại học quốc gia Hà Nội, 
1998. 
 59. N.S.Trubetskoy, Nguyên lí âm vị học, Phòng tư liệu Viện ngôn ngữ học, bản 
đành vitính, H. 1975. 
 60. Cù Đình Tú, Hoàng Văn Thung, Nguyễn Nguyên Trứ, Giáo trình ngữ âm 
tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục, H. 1972, 1978. 
 61. Hoàng Tuệ, Lê Cận, Cù Đình Tú, Giáo trình về Việt ngữ, tập 1, Nxb Giáo dục, 
H. 1962. 
 62. Nguyễn Bạt Tuỵ, Cữ và vần Viêd khwa họk, Sài Gòn, Hoạt Hoá, 1950. 
 63. L.R. Zinder, Ngữ âm học đại cương, Tổ ngôn ngữ Trường ĐHTH Hà Nội 
dịch, Nxb GIáo dục, H. 1960. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_ngu_am_tieng_viet_phan_2.pdf