Giáo trình Lý thuyết kế toán

Tại bất cứ một doanh nghiệp nào khi sử dụng tài sản để đạt được mục tiêu, doanh

nghiệp đều quan tâm tài sản đó được hình thành từ đâu, tài sản đó được sử dụng như thế

nào. Với chức năng cung cấp thông tin về sự hình thành và sử dụng tài sản của đơn vị, kế

toán có thể đáp ứng được yêu cầu này. Như vậy, đối tượng kế toán được nghiên cứu theo

những yêu cầu quản lý riêng. Cụ thể:

 Kế toán nghiên cứu tài sản trong mối quan hệ với nguồn hình thành tài sản của

đơn vị. Tài sản thể hiện nguồn lực kinh tế được sử dụng tại đơn vị và tình hình phân bổ

các nguồn lực đó. Nguồn hình thành tài sản thể hiện nguồn gốc tài sản của đơn vị. Vì vậy

kế toán nghiên cứu tài sản không thể tách rời với nguồn hình thành tài sản đó.

 Kế toán không chỉ nghiên cứu tài sản của đơn vị ở trạng thái tĩnh mà còn nghiên

cứu tài sản ở trạng thái động. Tài sản của đơn vị vận động thông qua các hoạt động sử

dụng tài sản để đạt được mục tiêu đã định. Như ta đã biết, mọi sự vật, hiện tượng luôn

vận động biến đổi. Trong kế toán, điều này thể hiện rõ ở đối tượng kế toán. Trong quá

trình hoạt động, tài sản và nguồn vốn của đơn vị không đứng im mà nó luôn vận động,

chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác trong quá trình tái sản xuất, kết thúc một chu kì

nó lại được bắt đầu bởi một chu kì với sự gia tăng quy mô, số lượng giúp doanh nghiệp

không những tồn tại mà còn phát triển mạnh. Do đó, để nghiên cứu sự vận động của tài

sản trong đơn vị, kế toán phải phản ánh kịp thời sự thay đổi về mặt hình thái vật chất và

giá trị của tài sản trong quá trình sử dụng tài sản cho hoạt động của đơn vị. Bên cạnh đó,

kế toán cần phải thu thập, đo lường, phản ánh và cung cấp thông tin về chi phí và doanh

thu phát sinh trong quá trình hoạt động của đơn vị để giúp người sử dụng thông tin kế

toán đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực kinh tế tại đơn vị.

pdf 129 trang kimcuc 6040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Lý thuyết kế toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Lý thuyết kế toán

Giáo trình Lý thuyết kế toán
Trường 
Khoa.. 
 Bài Giảng 
 Lý thuyết kế toán 
 Chương I: Bản chất của Kế toán 
GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 1
Chương I 
BẢN CHẤT CỦA KẾ TOÁN 
1.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỊNH NGHĨA VỀ KẾ TOÁN 
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của kế toán: 
 Từ khi hình thành xã hội loài người, con người luôn muốn tồn tại và phát triển. Để 
có thể làm được điều đó, con người phải tham gia hoạt động sản xuất. Lúc đầu với công 
cụ lao động thô sơ, con người tiến hành những hoạt động sản xuất đơn giản như: hái 
lượm hoa quả, săn bắt để nuôi sống bản thân và cộng đồng. Do hoạt động sản xuất là 
hoạt động tự giác, có ý thức và có mục đích nên cùng với sự tiến bộ của xã hội loài 
người, hoạt động sản xuất được tiến hành với quy mô lớn hơn. Con người bắt đầu quan 
tâm đến hao phí phải bỏ ra và những kết quả đạt được. Chính sự quan tâm này đã đặt ra 
nhu cầu tất yếu phải thực hiện quản lý hoạt động sản xuất. Xã hội loài người càng phát 
triển thì mức độ quan tâm của con người đến hoạt động sản xuất càng tăng, do đó yêu cầu 
quản lý hoạt động sản xuất cũng được nâng lên. 
 Để quản lý hoạt động sản xuất (hoạt động kinh tế) cần phải có thông tin về quá 
trình hoạt động kinh tế nói trên. Thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc xác định 
mục tiêu, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra và kiểm soát. Để có được thông tin 
đòi hỏi phải thực hiện các hoạt động: quan sát, đo lường, ghi chép và cung cấp thông tin 
về các hoạt động kinh tế cho nhà quản lý. Kế toán là một trong các công cụ cung cấp 
thông tin về hoạt động kinh tế phục vụ cho công tác quản lý các quá trình kinh tế đó. 
 Quan sát là giai đoạn đầu tiên của việc phản ánh các quá trình và hiện tượng 
kinh tế phát sinh ở trong và ngoài tổ chức. Qua quá trình quan sát có thể nắm bắt được 
những vấn đề cơ bản về hình thức của đối tượng cần quản lý. 
 Đo lường là việc biểu hiện các đối tượng (các nguồn lực, tình hình sử dụng 
các nguồn lực theo những phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh riêng biệt và các kết 
quả tạo ra từ quá trình đó) bằng cách sử dụng các loại thước đo thích hợp. 
 Ghi chép là quá trình hệ thống hóa tình hình, kết quả các hoạt động kinh tế 
trong từng thời kì theo từng địa điểm phát sinh, làm cơ sở để cung cấp thông tin có liên 
quan cho nhà quản lý. 
 Mục đích: nhằm thông báo thường xuyên, chính xác, kịp thời các thông tin về tình 
hình kinh tế xã hội trên tầm vi mô. 
Trải qua lịch sử phát triển của nền sản xuất, kế toán có những đổi mới về phương 
thức quan sát, đo lường, ghi chép và cung cấp thông tin cho phù hợp với điều kiện kinh tế 
- xã hội. 
 Thời kì nguyên thủy: sản xuất tự cung tự cấp. Việc quan sát, đo lường và 
ghi chép được tiến hành bằng những phương thức đơn giản: đánh dấu trên thân cây, ghi 
chép lên vách đá, buộc nút trên dây thừng... nhằm ghi nhận những thông tin cần thiết 
phục vụ cho lợi ích của từng nhóm cộng đồng. 
 Thời kì chiếm hữu nô lệ: giai cấp chủ nô hình thành. Nhu cầu theo dõi, 
kiểm soát tình hình và kết quả sử dụng nô lệ, tài sản của chủ nô nhằm thu được nhiều sản 
phẩm thặng dư đã đặt ra những yêu cầu cao hơn trong việc quan sát, đo lường và ghi 
 Chương I: Bản chất của Kế toán 
GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 2
chép. Các kết quả nghiên cứu cho thấy các loại sổ sách đã được sử dụng để ghi chép thay 
cho cách ghi chép thời kì nguyên thủy. 
 Thời kì phong kiến: sự phát triển nông nghiệp đã làm xuất hiện địa tô phong 
kiến và chế độ cho vay nặng lãi đối với nông dân. Để có thể đáp ứng với những phát triển 
mạnh mẽ trong các quan hệ kinh tế trong cộng đồng, các loại sổ sách đã được cải tiến, 
phong phú hơn. Ngoài ra kế toán còn được sử dụng trong các phòng đổi tiền, các nhà thờ 
và trong lĩnh vực tài chính nhà nước để theo dõi các nghiệp vụ về thanh toán và buôn 
bán. 
 Mặc dù có những thay đổi về cách ghi chép và phản ánh các giao dịch nói trên qua 
các giai đoạn phát triển của xã hội nhưng kế toán vẫn chưa được xem là một khoa học 
độc lập cho đến khi xuất hiện phương pháp ghi kép. Phương pháp ghi kép trước tiên được 
xuất hiện ở nơi này nơi khác qua sự tìm tòi của những người trực tiếp làm kế toán trong 
lĩnh vực thương nghiệp, công nghiệp. 
 Năm 1494, Luca Pacioli, một thầy dòng thuộc dòng thánh Franciscain, trong tác 
phẩm của mình lần đầu tiên đã giới thiệu phương pháp ghi kép. Ông đã minh họa việc sử 
dụng khái niệm Nợ và Có để đảm bảo một lần ghi kép. Nhiều nhà khoa học cho rằng sự 
xuất hiện phương pháp ghi kép của kế toán dựa trên các điều kiện sau: 
 Có một nghệ thuật ghi chép riêng: Ghi chép là một kĩ thuật làm cho các giao 
dịch phát sinh được lưu lại bởi vì trí nhớ của con người là có giới hạn. 
 Sự xuất hiện của số học: Số học là một phương tiện tính toán để có thể cụ thể 
hóa các số liệu phát sinh dưới hình thức giá trị. 
 Việc tồn tại sở hữu tư nhân: Khả năng thay đổi quyền sở hữu, nó liên quan 
đến việc ghi chép các sự kiện liên quan đến tài sản và quyền sở hữu liên quan đến tài sản 
đó. 
 Việc hình thành tiền tệ: Tiền tệ là phương tiện thanh toán, xác định giá trị của 
những tài sản khác nhau. 
 Việc hình thành các quan hệ tín dụng. 
 Việc tồn tại các quan hệ mua bán: Sự trao đổi hàng hóa không chỉ giới hạn 
trong phạm vi địa phương đó mà đã mở ra phạm vi rộng hơn giữa các địa phương trong 
một nước và giữa các nước với nhau. 
 Sự dịch chuyển của đồng tiền. 
 Sự ra đời của phương pháp kế toán ghi kép đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của 
chủ nghĩa tư bản. Chính sự xuất hiện của phương pháp kế toán ghi kép đã hỗ trợ cho việc 
theo dõi, giám sát các quan hệ thương mại, quan hệ tín dụng giữa người mua và người 
bán, giữa người vay và người đi vay trong xu thế dịch chuyển của dòng tư bản ngày càng 
lớn giữa các vùng. Ngoài ra phương pháp ghi kép cho phép các nhà tư bản nắm bắt và đo 
lường ảnh hưởng của các giao dịch kinh tế, đồng thời tách biệt quan hệ giữa người chủ sở 
hữu với doanh nghiệp để thấy rõ sự phát triển của tổ chức kinh doanh. 
 Ở thời kì tư bản chủ nghĩa: Sự phát triển của khoa học công nghệ, sự phân 
công lao động ngày càng sâu sắc đã dẫn đến sự thay đổi về hình thái của các tổ chức kinh 
tế tài chính, đặc biệt là sự xuất hiện của các tổ chức tài chính trung gian, các định chế 
ngân hàng, và sự phổ biến mô hình doanh nghiệp cổ phần cách thức quản lý cũng như 
 Chương I: Bản chất của Kế toán 
GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 3
phương thức quản lý ở tầm vĩ mô. Chính những sự thay đổi đó đã làm sự dịch chuyển các 
dòng tiền trở nên thuận lợi và nhanh chóng hơn. Khái niệm chủ doanh nghiệp không hạn 
chế vào một số chủ tư bản mà mở rộng ra cho mọi tầng lớp dân cư có khả năng góp một 
phần của cải dôi thừa của mình vào doanh nghiệp qua hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu. 
Trong bối cảnh đó, kế toán không chỉ là sự ghi chép và cung cấp thông tin cho nhà quản 
lý ở doanh nghiệp mà còn cung cấp thông tin cho đối tượng bên ngoài như: cơ quan thuế, 
ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, nhà đầu tư, nhà cung cấp Việc công bố thông 
tin ra bên ngoài được xem như là một yêu cầu khách quan của thực tiễn để nhà nước vận 
hành nền kinh tế tốt hơn; để các tổ chức kinh tế và cá nhân liên quan có điều kiện đánh 
giá các khoản vốn đầu tư của mình hoặc tìm kiếm cơ hội kinh doanh tốt nhất. Vấn đề này 
đặt ra cho kế toán phải công bố những thông tin gì cho bên ngoài để vừa đảm bảo tính bí 
mật thông tin của từng doanh nghiệp, vừa đảm bảo nhu cầu thông tin của cộng đồng kinh 
doanh. Để đáp ứng những đòi hỏi đó, các hiệp hội nghề nghiệp về kế toán đã xây dựng 
những quy tắc chung trong ghi chép, phản ánh và công bố các thông tin kinh tế. Đây là 
một nhu cầu khách quan để người làm công việc kế toán có thể đạt được những thống 
nhất ở một chừng mực nhất định trong xử lý và cung cấp thông tin. 
 Những yêu cầu của thực tiễn đã thúc đẩy khoa học kế toán có những thay đổi về 
phương thức ghi chép và công bố thông tin; thể hiện là vào những thập niên đầu thế kỷ 
XX, kế toán đã dần dần tách biệt thành hai hệ thống: 
 Sự hình thành hệ thống kế toán nhằm cung cấp thông tin cho nhiều đối tượng 
bên ngoài thông qua các báo cáo tài chính được trình bày theo những tiêu chuẩn thống 
nhất. Hệ thống kế toán đó gọi là kế toán tài chính. 
 Cùng với sự phát triển ngày càng nhanh của khoa học công nghệ, áp lực cạnh 
tranh ngày càng tăng, để có thể đáp ứng được yêu cầu quản trị, nhu cầu cung cấp thông 
tin ngày càng đa dạng cho nhà quản lý trong tổ chức cũng như đảm bảo tính bảo mật của 
thông tin nội bộ đòi hỏi hệ thống kế toán có những cách ghi chép và xử lý thông tin riêng 
biệt. Hệ thống kế toán nhằm đảm bảo yêu cầu này là hệ thống kế toán quản trị. Với sự 
ứng dụng công nghệ kĩ thuật trong việc xử lý số liệu, hệ thống kế toán quản trị dần dần 
tách biệt với hệ thống kế toán tài chính. 
 Tóm lại, sự ra đời, phát triển của kế toán gắn liền với sự phát triển các hoạt động 
kinh tế và nhu cầu sử dụng thông tin kế toán. Ở mỗi quốc gia, sự phát triển của kế toán 
phụ thuộc vào các điều kiện về kinh tế, chính trị văn hóa và những tập quán riêng. Tuy 
nhiên khoa học kế toán ngày nay không giới hạn trong biên giới của mỗi nước mà đã có 
những biểu hiện có tính toàn cầu hóa. 
1.1.2. Định nghĩa về kế toán: 
Có nhiều cách tiếp cận định nghĩa kế toán. 
 Theo giáo trình Lý thuyết hạch toán kế toán ở Việt Nam (1991) định nghĩa: kế toán 
là một hệ thống thông tin và kiểm tra về tài sản trong các tổ chức bằng hệ thống các 
phương pháp khoa học. Kế toán nghiên cứu tài sản trong quan hệ với nguồn hình thành 
và quá trình vận động của tài sản trong các tổ chức, đơn vị. Với định nghĩa trên ta thấy tài 
sản, nguồn hình tài sản cùng với quá trình sử dụng nguồn lực đó theo mục đích của tổ 
chức là đối tượng để kế toán theo dõi, phản ánh, ghi chép và công bố thông tin. 
 Theo luật kế toán nước CHXHCN Việt Nam, kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm 
tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và 
 Chương I: Bản chất của Kế toán 
GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 4
thời gian lao động. Với định nghĩa này thì công việc kế toán được cụ thể bao gồm: giai 
đoạn thu thập dữ liệu ban đầu đến việc xử lý và cung cấp các thông tin kinh tế tài chính. 
Để phản ánh các thông tin kinh tế tài chính, kế toán sử dụng nhiều thước đo trong đó 
thước đo giá trị là thước đo chủ yếu và bắt buộc. 
 Theo Viện Kế toán công Hoa Kỳ (1953) định nghĩa: kế toán là một nghệ thuật ghi 
nhận, phân loại và tổng hợp các sự kiện kinh tế dưới hình thức tiền tệ theo một phương 
thức có ý nghĩa và giải thích các kết quả đó. 
 Theo hiệp hội Kế toán Hoa Kỳ (1966) thì kế toán là quá trình xác định, đo lường 
và cung cấp những thông tin hữu ích cho việc phán đoán và ra quyết định. 
 Hai định nghĩa trên đều có điểm chung là không chỉ nhấn mạnh kế toán là một quá 
trình với các công việc ghi chép, đo lường và phản ánh thông tin mà còn hướng đến tính 
hữu ích của thông tin trong việc ra quyết định. Ngoài ra các sự kiện kinh tế chính là đối 
tượng để kế toán thu thập và xử lý thông tin. Về bản chất các sự kiện kinh tế tài chính là 
quá trình huy động và sử dụng các tài sản của một tổ chức. 
Từ những định nghĩa trên có thể rút ra một số điểm chung như sau: 
 Kế toán nghiên cứu tài sản, nguồn hình thành tài sản và sự vận động của tài 
sản trong các tổ chức. Đó là các quan hệ kinh tế tài chính phát sinh ở các tổ chức có sử 
dụng tài sản để thực hiện mục tiêu hoạt động của mình. 
 Kế toán sử dụng ba loại thước đo đó là thước đo giá trị, thước đo hiện vật và 
thước đo thời gian lao động, trong đó thước đo giá trị là bắt buộc để có thể tổng hợp toàn 
bộ các hoạt động kinh tế ở các tổ chức. 
 Kế toán được xem là một hệ thống thông tin ở mỗi tổ chức. Hệ thống đó 
được vận hành qua một quá trình thu nhập, đo lường ghi chép và cung cấp thông tin bằng 
các phương pháp riêng có của kế toán. 
 Chức năng của kế toán là thông tin và kiểm tra về quá trình hình thành và vận 
động của tài sản. 
Tóm lại, kế toán là một khoa học thu thập, xử lý và cung cấp thông tin về tài sản, nguồn 
hình tài sản và sự vận động của tài sản trong các tổ chức. 
1.2. QUY TRÌNH KẾ TOÁN TRONG MỘT ĐƠN VỊ KẾ TOÁN 
1.2.1 Thu thập 
Hoạt động 
kinh tế 
Ra quyết định 
Thu thập 
Lập chứng từ 
Xử lý Thông tin 
Lập báo cáo 
Phân tích và 
giải trình Đo lường Xác định giá 
đối tượng KT 
Ghi nhận 
Ghi chép 
Phân loại 
Tổng hợp
 Đây là giai đoạn đầu tiên của quy trình kế toán, là việc phản ánh các nghiệp vụ 
kinh tế phát sinh gắn liền với hoạt động của một đơn vị kế toán, hay nói cách khác giai 
đoạn này liên quan đến thu thập các bằng chứng của những hoạt động kinh doanh trong 
 Chương I: Bản chất của Kế toán 
GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 5
một tổ chức cụ thể. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được chia làm hai loại: bên trong và 
bên ngoài doanh nghiệp. 
 Các nghiệp vụ kinh tế liên quan đến các giao dịch giữa doanh nghiệp với các 
chủ thể độc lập bên ngoài doanh nghiệp như: nhà cung cấp, ngân hàng, các tổ chức Nhà 
Nước 
 Các nghiệp vụ kinh tế bên trong là các quá trình hoạt động kinh doanh diễn 
ra trong doanh nghiệp như: ở các doanh nghiệp sản xuất, đó là quá trình sử dụng các máy 
móc thiết bị trên cơ sở nguồn nhân lực sẵn có để chuyển đổi các loại vật liệu thành sản 
phẩm. 
 Như vậy, các nghiệp vụ kinh tế chính là dữ liệu đầu vào của quy trình kế toán. Để 
có thể biết thông tin ban đầu về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, kế toán sử dụng phương 
pháp chứng từ kế toán. Đó là phương pháp "sao chụp" các nghiệp vụ kinh tế tài chính 
hình thành tại đơn vị và là cơ sở cho quá trình xử lý thông tin ở bước tiếp theo. 
1.2.2. Xử lý 
 Là giai đoạn tiếp theo của quá trình kế toán bao gồm hai công việc là đo lường và 
ghi nhận. Trong đó: 
 Đo lường: diễn ra trước khi ảnh hưởng của các nghiệp vụ kinh tế được ghi 
nhận. Như đã biết, mỗi nghiệp vụ kinh tế phát sinh được đo lường cho bằng nhiều thước 
đo khác nhau: 
 Thước đo hiện vật (vật liệu mua 50 cái, xăng 100 lit, vải 3 m,  ) sử dụng thước 
đo hiện vật giúp kiểm soát chặt chẽ về mặt số lượng. Tuy nhiên, thước đo hiện vật chỉ 
tổng hợp số lượng liên quan đến từng đối tượng cụ thể, không thể tổng hợp thông tin từ 
nhiều đối tượng khác nhau thành một chỉ tiêu tổng quát được. 
 Thước đo thời gian lao động ( may cái áo mất 7 giờ,) sử dụng thước đo thời 
gian lao động chúng ta biết được năng suất lao động, giúp ích cho việc tính tiền công lao 
động hoặc phân phối thu nhập giữa các cá nhân. Tuy nhiên thước đo thời gian cũng có 
nhược điểm: không thể tổng hợp toàn bộ thời gian lao động của tất cả các cá nhân, tập 
thể vì tính chất lao động của mỗi cá nhân là khác nhau. 
 Để thông tin kế toán có ích đối với người sử dụng, thông tin đó phải thể hiện bằng 
một thước đo chung nhất nhằm tổng hợp ảnh hưởng của tất cả các nghiệp vụ kinh tế. Vì 
tất cả các giao dịch kinh tế phát sinh đều được thể hiện dưới hình thái tiền tệ, tiền tệ còn 
là phương tiện thanh toán và xác định giá trị nên việc sử dụng thước đo tiền tệ có thể giúp 
chúng ta so sánh, tổng hợp giá trị của những tài sản khác nhau, cũng như loại trừ ảnh 
hưởng của các sự kiện kinh tế phát sinh vượt mức. 
 Ghi nhận: là quá trình sử dụng các sổ sách kế toán kết hợp với nguyên tắc ghi 
chép n ... 0 x 19%) 
 CT TK 622 – B 53.200 (280.000 x 19%) 
Nợ TK 627 17.784 (93.600 x 19%) 
 Có TK 338 150.784 
 5. Nợ TK 627 80.000 
 Có TK 214 80.000 
GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 112
 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu 
 6. Nợ TK 627 38.616 
 Có TK 111 38.616 
Phản ánh vào các tài khoản tập hợp chi phí: 
TK 621 
(1) 500.000 
(2) 110.000 
610.000 (7a) 
 610.000 610.000 
TK 621 – A 
(1) 300.000 
(2) 66.000 
366.000 (7a) 
 366.000 366.000 
TK 621 – B 
(1) 200.000 
(2) 44.000 
244.000 (7a) 
 244.000 244.000 
TK 622 
(3) 700.000 
(4) 133.000 
833.000 (7b) 
 833.000 833.000 
TK 622 – A 
(3) 420.000 
(4) 79.800 
499.800 (7b) 
 499.800 499.800 
TK 622 – B 
(3) 280.000 
(4) 53.200 
333.200 (7b) 
 333.200 333.200 
TK 627 
(3) 93.600 
(4) 17.784 
(5) 80.000 
(6) 38.616 
230.000 (7c) 
 230.000 230.000 
TK 154 
 410.200 
(7a) 610.000 
(7b) 833.000 
(7c) 230.000 
1.881.000 (8) 
1.673.000 
 202.200 
1.881.000 
1.003.800 
 110.000 
TK 154 – A 
 241.200 
(7a) 366.000 
(7b) 499.800 
(7c) 138.000
1.135.000 (8) 
1.135.000 
TK 154 – B 
 169.000 
(7a) 244.000 
(7b) 333.200 
(7c) 92.000 
746.000 (8) 
 669.200 
 92.200 
746.000 
Phân bổ chi phí sản xuất chung: 
230.000 Chi phí SXC phân 
bổ cho SP A: 700.000 x 420.000 = 138.000 
230.000 Chi phí SXC phân 
bổ cho SP B: 700.000 X 280.000 = 92.000 
Bút toán kết chuyển chi phí và tính giá thành sản phẩm: 
 7a. Nợ TK 154 610.000 
 Có TK 621 610.000 
 CT TK 621 – A 366.000 
 CT TK 621 – B 244.000 
GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 113
 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu 
 7b. Nợ TK 154 833.000 
 Có TK 622 833.000 
 CT TK 622 – A 499.800 
 CT TK 622 – B 333.200 
 7c. Nợ TK 154 230.000 
 Có TK 627 230.000 
 CT TK 627 – A 138.000 
 CT TK 627 – B 92.000 
 8. Nợ TK 155 1.881.000 
 CT TK 155 – A 1.135.000 
 CT TK 155 – B 746.000 
 Có TK 154 1.881.000 
Bảng tính giá thành: 
BẢNG TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM A 
Số lượng thành phẩm: 1.000 
CPSXDD 
đầu kì 
CPSXPS 
trong kì 
CPSX DD 
cuối kì 
Tổng giá 
thành SX 
Giá thành 
đơn vị SPKhoản mục chi phí 
(1) (2) (3) (4) (5) 
1. CP NVL trực tiếp 150.000 366.000 76.000 440.000 440
2. CP nhân công trực tiếp 71.400 499.800 23.800 547.400 547,4
3. CP sản xuất chung 19.800 138.000 10.200 147.600 147,6
Tổng cộng 241.200 1.003.800 110.000 1.135.000 1.135
BẢNG TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM B 
 Số lượng thành phẩm: 500 Đơn vị tính: 1.000 đồng 
CPSXDD 
đầu kì 
CPSXPS 
trong kì 
CPSXDD 
cuối kì 
Tổng giá
thành SX 
Giá thành 
đơn vị SP Khoản mục chi phí 
(1) (2) (3) (4) (5) 
1. CP NVL trực tiếp 100.000 244.000 48.000 296.000 592
2. CP nhân công trực tiếp 59.500 333.200 14.500 378.200 756,4
3. CP sản xuất chung 9.500 92.000 29.700 71.800 143,6
Tổng cộng 169.000 669.200 92.200 746.000 1.492
GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 114
 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu 
8.4. KẾ TOÁN QUÁ TRÌNH TIÊU THỤ 
8.4.1. Đặc điểm quá trình tiêu thụ và nhiệm vụ của kế toán quá trình tiêu thụ. 
 Tiêu thụ là khâu cuối cùng của chu kì kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là quá trình 
đưa các loại thành phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp vào lĩnh vực lưu thông, thông thường 
qua các phương thức bán hàng. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì đó là quá trình bán ra các 
thành phẩm do doanh nghiệp tạo ra, còn doanh nghiệp thương mại thì bán hàng hóa đã được 
mua ở quá trình cung cấp và thu tiền. 
Trong quá trình bán hàng sẽ phát sinh các nghiệp vụ: giao hàng, thu tiền và các khoản 
thuế phải nộp cho Nhà Nước. Các khoản thuế phát sinh trong quá trình bán hàng hiện nay có 
thể là thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu . Đối với những sản phẩm hàng 
hóa thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì trên hóa đơn bán hàng 
kế toán phải ghi riêng: 
Giá bán chưa có thuế. 
Khoản phụ thu hay phí thu thêm nếu có. 
Thuế GTGT phải nộp. 
Tổng giá thanh toán. 
Khoản thuế GTGT phải nộp khi bán hàng ra gọi là thuế GTGT đầu ra phải nộp. Trong 
từng kì kế toán, khoản thuế GTGT đầu vào và đầu ra sẽ được khấu trừ với nhau để xác định 
thuế mà doanh nghiệp thực sự phải nộp cho Nhà Nước. 
Mặt khác, liên quan đến quá trình bán hàng, doanh nghiệp còn phải bỏ ra một số chi 
phí nhằm mục đích đưa sản phẩm vào lưu thông trên thị trường như: chi phí nhân viên bán 
hàng, chi phí quảng cáo, chi phí bảo hành, chi phí khấu hao tài sản cố định dùng ở bộ phận 
bán hàng. Đó chính là chi phí bán hàng, hoặc các chi phí liên quan đến hoạt động quản lý 
hành chính và quản lý chung toàn doanh nghiệp: chi phí nhân viên quản lý doanh nghiệp, chi 
phí công cụ dụng cụ dùng cho quản lý, chi phí khấu hao TSCĐ dùng cho quản lý và dùng 
chung cho toàn doanh nghiệp, chi phí điện nước dùng chung toàn doanh nghiệp đó là chi 
phí quản lý doanh nghiệp. Những chi phí này không được tính vào giá thành sản xuất của 
sản phẩm mà được khấu trừ vào doanh thu thuần về bán hàng trong kì mà nó phát sinh để 
tính kết quả kinh doanh trong kì. 
Khi bán hàng, giá gốc của thành phẩm, hàng hóa bán ra trong kì được ghi nhận là chi 
phí để xác định lợi nhuận trong kì và gọi là giá vốn hàng bán. Giá bán của thành phẩm, hàng 
hóa bán ra trong kì tương ứng được ghi nhận là doanh thu bán hàng trong kì. 
Nhiệm vụ của kế toán quá trình tiêu thụ: 
 Đo lường và phản ánh kịp thời, chính xác giá vốn và doanh thu của sản phẩm và 
hàng hóa bán ra. 
 Tập hợp đúng, đủ và kịp thời chi phí bán hàng phát sinh trong kì. 
 Xác định chính xác kết quả hoạt động tiêu thụ trong kì. 
 Lập các báo cáo tiêu thụ và kết quả tiêu thụ theo yêu cầu quản lý. 
8.4.2. Vận dụng phương pháp kế toán trong kế toán quá trình tiêu thụ. 
GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 115
 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu 
Chứng từ sử dụng: nghiệp vụ xuất kho thành phẩm, hàng hóa được phản ánh trên 
phiếu xuất kho, nghiệp vụ bán hàng được phản ánh trên hóa đơn bán hàng (hóa đơn GTGT), 
nghiệp vụ thu tiền được phản ánh trên phiếu thu hoặc giấy báo Có của ngân hàngNgoài ra 
các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ cũng phải có chứng từ kế toán chứng minh chi 
phí đó thực tế phát sinh. 
Kế toán quá trình tiêu thụ phải tuân thủ nguyên tắc ghi nhận doanh thu và nguyên tắc 
phù hợp. 
Nguyên tắc ghi nhận doanh thu: quy định thời điểm ghi nhận doanh thu bán hàng. Đó 
là khi quyền sở hữu hàng bán được chuyển giao. Trong thực tế, quyền sở hữu hàng hóa được 
chuyển giao khi người bán đã hoàn thành việc giao hàng cho người mua, người mua đã 
thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Tuy nhiên, tùy theo phương thức bán hàng mà thời 
điểm tiêu thụ được xác định đúng đắn. Trường hợp bán hàng trực tiếp, sản phẩm được tiêu 
thụ ngay khi khách hàng nhận hàng tại cửa hàng hay tại kho của đơn vị. Trường hợp bán 
hàng theo phương thức chuyển hàng, đơn vị có trách nhiệm vận chuyển hàng đến địa điểm 
quy định cho khách hàng. Do đó, hàng đang trong quá trình vận chuyển vẫn thuộc quyền sở 
hữu của người bán và được phản ánh trên TK hàng gửi đi bán. Hàng gửi đi bán xác định là 
tiêu thụ khi khách hàng thông báo đã nhận được hàng và thanh toán hoặc chấp nhận thanh 
toán. 
Nguyên tắc phù hợp: khi ghi nhận một khoản doanh thu thì đồng thời phải ghi nhận 
một khoản chi phí tạo ra doanh thu đó. Như vậy, khi ghi nhận doanh thu của thành phẩm, 
hàng hóa đã được tiêu thụ thì đồng thời kế toán phải ghi nhận giá vốn của số thành phẩm, 
hàng hóa đó và các khoản chi phí bán hàng có liên quan. 
Tài khoản sử dụng: 
 Tài khoản ghi nhận doanh thu: TK 511 – Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ. 
 TK phán ánh chi phí: TK 632 – Giá vốn hàng bán, TK 641 – Chi phí bán hàng, TK 
642 – Chi phí quản lý doanh nghiệp. 
 TK tiền: TK 111 – tiền mặt, TK 112 – Tiền gửi ngân hàng. 
 TK thanh toán: TK 131 – Phải thu khách hàng. 
 Tài khoản hàng tồn kho: TK 155 – Thành phẩm, TK 156 – Hàng hóa, TK 157 – Hàng 
gửi đi bán. 
 TK 333 – Thuế và các khoản phải nộp Nhà Nước: phản ánh thuế GTGT đầu ra của 
thành phẩm, hàng hóa đã tiêu thụ trong trường hợp sản phẩm thuộc đối tượng chịu thuế 
GTGT theo phương pháp khấu trừ. 
Định khoản một số nghiệp vụ kinh tế phát sinh chủ yếu: 
Khi xuất kho thành phẩm, hàng hóa bán trực tiếp cho khách hàng: 
 Ghi nhận doanh thu: 
 Nếu thành phẩm, hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu 
trừ thì doanh thu bán hàng là giá bán chưa có thuế GTGT. 
 Nợ TK 111, 112: nếu đã thanh toán (giá thanh toán) 
 Nợ TK 131: nếu khách hàng chưa thanh toán (giá thanh toán) 
GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 116
 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu 
 Có TK 511: giá bán chưa có thuế GTGT 
 Có TK 333: thuế GTGT 
 Nếu thành phẩm, hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp trực 
tiếp hoặc không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì doanh thu 
bán hàng là giá thanh toán. 
 Nợ TK 111, 112, 131 (ghi nhận theo giá thanh toán) 
 Có TK 511 (ghi nhận theo giá thanh toán) 
 Ghi nhận giá vốn: 
 Nợ TK 632 
 Có TK 155, 156 
Khi bán hàng theo phương thức chuyển hàng: 
 Khi xuất kho thành phẩm gửi đi bán: 
 Nợ TK 157 
 Có TK 156 
 Khi khách hàng thông báo đã nhận được hàng, thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán: 
 Ghi nhận doanh thu: tương tự như trường hợp bán hàng trực tiếp 
 Ghi nhận giá vốn: 
 Nợ TK 632 
 Có TK 157 
Chi phí bán hàng phát sinh trong kì: 
 Nợ TK 641 
 Có TK 334 
 Có TK 338 
 Có TK 214 
 Có TK 152, 111, 112, 331 
Chi phí quản lý phát sinh trong kì: 
 Nợ TK 642 
 Có TK 334 
 Có TK 338 
 Có TK 214 
 Có TK 152, 111, 112, 331 
Cuối kì, các khoản doanh thu và chi phí liên quan đến kết quả tiêu thụ trong kì được kết 
chuyển vào tài khoản 911 – Xác định kết quả kinh doanh trong kì để xác định kết quả tiêu 
thụ trong kì. 
 Kết chuyển doanh thu thuần bán hàng: 
GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 117
 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu 
Nợ TK 511 
 Có TK 911 
 Kết chuyển chi phí: 
 Nợ TK 911 
 Có TK 632 
 Có TK 641 
 Có TK 642 
 Căn cứ vào số liệu được phản ánh trên tài khoản 911, kế toán xác định lợi nhuận kế 
toán trong kì bằng chênh lệch giữa tổng doanh thu ở bên Có TK 911 và tổng chi phí ở bên 
Nợ TK 911. Lợi nhuận kế toán trong kì được kết chuyển vào tài khoản 421 – Lợi nhuận 
chưa phân phối. 
 Nếu lãi: khoản lãi làm tăng vốn chủ sở hữu nên được ghi bên Có TK 421 
 Nợ TK 911 
 Có TK 421 
 Nếu lỗ: khoản lỗ làm giảm vốn chủ sở hữu nên được ghi bên Nợ TK 421 
 Nợ TK 421 
 Có TK 911 
SƠ ĐỒ KẾ TOÁN QUÁ TRÌNH TIÊU THỤ 
TK 155, 156 TK 632 
Giá vốn hàng xuất bán 
trực tiếp 
TK 157 
Giá vốn 
hàng xuất 
gửi bán 
Giá vốn 
hàng gửi 
bán đã 
tiêu thụ 
TK 641 
TK 642 
 TK 911 TK 511 TK 111, 112, 131 
Doanh thu 
bán hàng 
TK 333 
Thuế GTGT 
(nếu có) 
TK 334, 338, 152, 
153, 242, 142, 111.. 
Tập hợp CP 
bán hàng 
Tập hợp CP 
QLDN 
Kết chuyển 
giá vốn 
Kết chuyển 
CP BH 
Kết chuyển 
CP QLDN 
Kết chuyển 
doanh thu BH 
TK 421 
Kết chuyển lỗ 
Kết chuyển lãi 
Tình hình tiêu thụ thành phẩm của doanh nghiệp X trong tháng 6/X được tổng hợp 
như sau: (đơn vị tính: nghìn đồng). 
1. Doanh nghiệp Y ứng trước tiền mua hàng cho doanh nghiệp bằng chuyển khoản 
110.000.000đ 
GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 118
 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu 
2. Xuất kho hàng hóa gửi đi bán cho doanh nghiệp Y theo phương thức chuyển hàng 
giá bán 80.000.000đ, giá bán 100.000.000đ, thuế GTGT 10% trên giá bán. 
3. Xuất kho một số hàng hóa bán trực tiếp cho khách hàng X, giá xuất kho 
40.000.000đ, giá bán 60.000.000đ, thuế GTGT 10% trên giá bán, khách hàng chưa trả tiền. 
4. Nhận được giấy báo doanh nghiệp Y đã nhận được hàng (ở nghiệp vụ 1) và tiền 
hàng được trừ vào số tiền đã ứng ở nghiệp vụ 1. 
5. chi phí sản xuất kinh doanh khác cho bởi bảng sau: 
Chỉ tiêu Chi phí bán hàng Chi phí quản lý doanh nghiệp
Tiền lương 5.000.000đ 10.000.000 
Trích BHXH, BHYT, KPCĐ Theo quy định tính vào CP Theo quy định tính vào CP 
Khấu hao TSCĐ 500.000 1.000.000 
Chi phí khác bằng tiền mặt (bao 
gồm cả thuế GTGT 10%) 55.000 110.000 
Yêu cầu: 
1. định khoản các nghiệp vụ kinh tế nói trên. 
2. phản ánh vào các tài khoản liên quan đến việc xác định kết quả kinh doanh. 
3. lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. 
Cho biết: 
Doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. 
Trong tháng 6/X, không phát sinh các khoản doanh thu và chi phí tài chính và hoạt 
động khác. Thuế suất thuế thu nhập 28%. 
Định khoản: 
 1. Nợ TK 112 110.000.000 
 Có TK 131 110.000.000 
 CT TK 131 – Y 110.000.000 
 2. Nợ TK 157 80.000.000 
 Có TK 155 80.000.000 
 3a. Nợ TK 131 66.000.000đ 
CT TK 131 – X 66.000.000 
 Có TK 511 60.000.000 
 Có TK 333 6.000.000 
 3b. Nợ TK 632 40.000.000 
 Có TK 156 40.000.000 
 4a. Nợ TK 131 110.000.000 
CT TK 131 – Y 110.000.000 
 Có TK 511 100.000.000 
 Có TK 333 10.000.000 
 4b. Nợ TK 632 80.000.000 
 Có TK 157 80.000.000 
 5a. Nợ TK 641 5.000.000 
Nợ TK 642 10.000.000 
 Có TK 334 15.000.000 
 5b. Nợ TK 641 950.000 (19% x 5.000.000) 
Nợ TK 642 1.900.000 (19% x 10.000.000) 
 Có TK 338 2.850.000 
GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 119
 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu 
GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 120
 5c. Nợ TK 641 500.000 
Nợ TK 642 1.000.000 
 Có TK 214 1.500.000 
5d. Nợ TK 641 50.000 
Nợ TK 642 100.000 
Nợ TK 133 15.000 
 Có TK 111 165.00 
Phản ánh vào các tài khoản liên quan đến xác định kết quả kinh doanh: 
TK 511 TK 632 
(6a)160.000.000 60.000.000(3a)
100.000.000(4a)
(3b)40.000.000
(4b)80.000.000
120.000.000(6b) 
160.000.000 160.000.000 120.000.000 120.000.000 
TK 641 TK 642 TK 911 
(5a)5.000.000 
(5b) 950.000 
(5c) 500.000 
(5d) 50.000 
6.500.000(6c) (5a)10.000.000
(5b) 1.900.000 
(5c) 1.000.000 
(5d) 100.000 
13.000.000(6d) 120.000.000(6b) 
 6.500.000(6c) 
 13.000.000(6d) 
 20.500.000(6e) 
160.000.000(6a)
6.500.000 6.500.000 13.000.000 13.000.000 160.000.000 160.000.000 
BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH 
Tháng 6 năm N 
Đơn vị tính: nghìn đồng 
CHỈ TIÊU MÃ SỐ KỲ NÀY 
1. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ 01 160.000 
2. Các khoản giảm trừ 03 
3. Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch 
vụ (10 = 01 – 03 ) 
10 160.000 
4. Giá vốn hàng bán 11 120.000 
5. Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ 
( 20 = 10 – 11 ) 
20 40.000 
6. Doanh thu hoạt động tài chính 21 
7. Chi phí tài chính 22 
8. Chi phí bán hàng 24 6.500 
9. Chi phí quản lý doanh nghiệp 25 13.000 
10. Lợi nhuần thuần từ hoạt động kinh doanh 
30 = 20 + ( 21 – 22 ) - ( 24 + 25) 
30 20.500 
11. Thu nhập khác 31 
12. Chi phí khác 32 
13. Lợi nhuận khác ( 40 = 31 – 32 ) 40 
14. Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế (50=30+40) 50 20.500 
15. Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp 51 5.740 
16. Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp 
( 60 = 50 – 51 ) 
60 14.760 
 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 Giáo trình Nguyên lý kế toán 
 Ts. Trần Đình Khôi Nguyên (chủ biên), Ts. Hoàng Tùng, Ths.Đoàn Ngọc Phi Anh, Ths. 
Phạm Hoài Hương. 
 Nhà xuất bản giáo dục. 
 Giáo trình Nguyên lý kế toán 
 PGS - Ts. Võ Văn Nhị. 
 Nhà xuất bản tổng hợp TP. Hồ Chí Minh 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_ly_thuyet_ke_toan.pdf