Giáo trình Lý thuyết kế toán
Tại bất cứ một doanh nghiệp nào khi sử dụng tài sản để đạt được mục tiêu, doanh
nghiệp đều quan tâm tài sản đó được hình thành từ đâu, tài sản đó được sử dụng như thế
nào. Với chức năng cung cấp thông tin về sự hình thành và sử dụng tài sản của đơn vị, kế
toán có thể đáp ứng được yêu cầu này. Như vậy, đối tượng kế toán được nghiên cứu theo
những yêu cầu quản lý riêng. Cụ thể:
Kế toán nghiên cứu tài sản trong mối quan hệ với nguồn hình thành tài sản của
đơn vị. Tài sản thể hiện nguồn lực kinh tế được sử dụng tại đơn vị và tình hình phân bổ
các nguồn lực đó. Nguồn hình thành tài sản thể hiện nguồn gốc tài sản của đơn vị. Vì vậy
kế toán nghiên cứu tài sản không thể tách rời với nguồn hình thành tài sản đó.
Kế toán không chỉ nghiên cứu tài sản của đơn vị ở trạng thái tĩnh mà còn nghiên
cứu tài sản ở trạng thái động. Tài sản của đơn vị vận động thông qua các hoạt động sử
dụng tài sản để đạt được mục tiêu đã định. Như ta đã biết, mọi sự vật, hiện tượng luôn
vận động biến đổi. Trong kế toán, điều này thể hiện rõ ở đối tượng kế toán. Trong quá
trình hoạt động, tài sản và nguồn vốn của đơn vị không đứng im mà nó luôn vận động,
chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác trong quá trình tái sản xuất, kết thúc một chu kì
nó lại được bắt đầu bởi một chu kì với sự gia tăng quy mô, số lượng giúp doanh nghiệp
không những tồn tại mà còn phát triển mạnh. Do đó, để nghiên cứu sự vận động của tài
sản trong đơn vị, kế toán phải phản ánh kịp thời sự thay đổi về mặt hình thái vật chất và
giá trị của tài sản trong quá trình sử dụng tài sản cho hoạt động của đơn vị. Bên cạnh đó,
kế toán cần phải thu thập, đo lường, phản ánh và cung cấp thông tin về chi phí và doanh
thu phát sinh trong quá trình hoạt động của đơn vị để giúp người sử dụng thông tin kế
toán đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực kinh tế tại đơn vị.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Lý thuyết kế toán
Trường Khoa.. Bài Giảng Lý thuyết kế toán Chương I: Bản chất của Kế toán GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 1 Chương I BẢN CHẤT CỦA KẾ TOÁN 1.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỊNH NGHĨA VỀ KẾ TOÁN 1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của kế toán: Từ khi hình thành xã hội loài người, con người luôn muốn tồn tại và phát triển. Để có thể làm được điều đó, con người phải tham gia hoạt động sản xuất. Lúc đầu với công cụ lao động thô sơ, con người tiến hành những hoạt động sản xuất đơn giản như: hái lượm hoa quả, săn bắt để nuôi sống bản thân và cộng đồng. Do hoạt động sản xuất là hoạt động tự giác, có ý thức và có mục đích nên cùng với sự tiến bộ của xã hội loài người, hoạt động sản xuất được tiến hành với quy mô lớn hơn. Con người bắt đầu quan tâm đến hao phí phải bỏ ra và những kết quả đạt được. Chính sự quan tâm này đã đặt ra nhu cầu tất yếu phải thực hiện quản lý hoạt động sản xuất. Xã hội loài người càng phát triển thì mức độ quan tâm của con người đến hoạt động sản xuất càng tăng, do đó yêu cầu quản lý hoạt động sản xuất cũng được nâng lên. Để quản lý hoạt động sản xuất (hoạt động kinh tế) cần phải có thông tin về quá trình hoạt động kinh tế nói trên. Thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mục tiêu, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra và kiểm soát. Để có được thông tin đòi hỏi phải thực hiện các hoạt động: quan sát, đo lường, ghi chép và cung cấp thông tin về các hoạt động kinh tế cho nhà quản lý. Kế toán là một trong các công cụ cung cấp thông tin về hoạt động kinh tế phục vụ cho công tác quản lý các quá trình kinh tế đó. Quan sát là giai đoạn đầu tiên của việc phản ánh các quá trình và hiện tượng kinh tế phát sinh ở trong và ngoài tổ chức. Qua quá trình quan sát có thể nắm bắt được những vấn đề cơ bản về hình thức của đối tượng cần quản lý. Đo lường là việc biểu hiện các đối tượng (các nguồn lực, tình hình sử dụng các nguồn lực theo những phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh riêng biệt và các kết quả tạo ra từ quá trình đó) bằng cách sử dụng các loại thước đo thích hợp. Ghi chép là quá trình hệ thống hóa tình hình, kết quả các hoạt động kinh tế trong từng thời kì theo từng địa điểm phát sinh, làm cơ sở để cung cấp thông tin có liên quan cho nhà quản lý. Mục đích: nhằm thông báo thường xuyên, chính xác, kịp thời các thông tin về tình hình kinh tế xã hội trên tầm vi mô. Trải qua lịch sử phát triển của nền sản xuất, kế toán có những đổi mới về phương thức quan sát, đo lường, ghi chép và cung cấp thông tin cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội. Thời kì nguyên thủy: sản xuất tự cung tự cấp. Việc quan sát, đo lường và ghi chép được tiến hành bằng những phương thức đơn giản: đánh dấu trên thân cây, ghi chép lên vách đá, buộc nút trên dây thừng... nhằm ghi nhận những thông tin cần thiết phục vụ cho lợi ích của từng nhóm cộng đồng. Thời kì chiếm hữu nô lệ: giai cấp chủ nô hình thành. Nhu cầu theo dõi, kiểm soát tình hình và kết quả sử dụng nô lệ, tài sản của chủ nô nhằm thu được nhiều sản phẩm thặng dư đã đặt ra những yêu cầu cao hơn trong việc quan sát, đo lường và ghi Chương I: Bản chất của Kế toán GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 2 chép. Các kết quả nghiên cứu cho thấy các loại sổ sách đã được sử dụng để ghi chép thay cho cách ghi chép thời kì nguyên thủy. Thời kì phong kiến: sự phát triển nông nghiệp đã làm xuất hiện địa tô phong kiến và chế độ cho vay nặng lãi đối với nông dân. Để có thể đáp ứng với những phát triển mạnh mẽ trong các quan hệ kinh tế trong cộng đồng, các loại sổ sách đã được cải tiến, phong phú hơn. Ngoài ra kế toán còn được sử dụng trong các phòng đổi tiền, các nhà thờ và trong lĩnh vực tài chính nhà nước để theo dõi các nghiệp vụ về thanh toán và buôn bán. Mặc dù có những thay đổi về cách ghi chép và phản ánh các giao dịch nói trên qua các giai đoạn phát triển của xã hội nhưng kế toán vẫn chưa được xem là một khoa học độc lập cho đến khi xuất hiện phương pháp ghi kép. Phương pháp ghi kép trước tiên được xuất hiện ở nơi này nơi khác qua sự tìm tòi của những người trực tiếp làm kế toán trong lĩnh vực thương nghiệp, công nghiệp. Năm 1494, Luca Pacioli, một thầy dòng thuộc dòng thánh Franciscain, trong tác phẩm của mình lần đầu tiên đã giới thiệu phương pháp ghi kép. Ông đã minh họa việc sử dụng khái niệm Nợ và Có để đảm bảo một lần ghi kép. Nhiều nhà khoa học cho rằng sự xuất hiện phương pháp ghi kép của kế toán dựa trên các điều kiện sau: Có một nghệ thuật ghi chép riêng: Ghi chép là một kĩ thuật làm cho các giao dịch phát sinh được lưu lại bởi vì trí nhớ của con người là có giới hạn. Sự xuất hiện của số học: Số học là một phương tiện tính toán để có thể cụ thể hóa các số liệu phát sinh dưới hình thức giá trị. Việc tồn tại sở hữu tư nhân: Khả năng thay đổi quyền sở hữu, nó liên quan đến việc ghi chép các sự kiện liên quan đến tài sản và quyền sở hữu liên quan đến tài sản đó. Việc hình thành tiền tệ: Tiền tệ là phương tiện thanh toán, xác định giá trị của những tài sản khác nhau. Việc hình thành các quan hệ tín dụng. Việc tồn tại các quan hệ mua bán: Sự trao đổi hàng hóa không chỉ giới hạn trong phạm vi địa phương đó mà đã mở ra phạm vi rộng hơn giữa các địa phương trong một nước và giữa các nước với nhau. Sự dịch chuyển của đồng tiền. Sự ra đời của phương pháp kế toán ghi kép đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chính sự xuất hiện của phương pháp kế toán ghi kép đã hỗ trợ cho việc theo dõi, giám sát các quan hệ thương mại, quan hệ tín dụng giữa người mua và người bán, giữa người vay và người đi vay trong xu thế dịch chuyển của dòng tư bản ngày càng lớn giữa các vùng. Ngoài ra phương pháp ghi kép cho phép các nhà tư bản nắm bắt và đo lường ảnh hưởng của các giao dịch kinh tế, đồng thời tách biệt quan hệ giữa người chủ sở hữu với doanh nghiệp để thấy rõ sự phát triển của tổ chức kinh doanh. Ở thời kì tư bản chủ nghĩa: Sự phát triển của khoa học công nghệ, sự phân công lao động ngày càng sâu sắc đã dẫn đến sự thay đổi về hình thái của các tổ chức kinh tế tài chính, đặc biệt là sự xuất hiện của các tổ chức tài chính trung gian, các định chế ngân hàng, và sự phổ biến mô hình doanh nghiệp cổ phần cách thức quản lý cũng như Chương I: Bản chất của Kế toán GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 3 phương thức quản lý ở tầm vĩ mô. Chính những sự thay đổi đó đã làm sự dịch chuyển các dòng tiền trở nên thuận lợi và nhanh chóng hơn. Khái niệm chủ doanh nghiệp không hạn chế vào một số chủ tư bản mà mở rộng ra cho mọi tầng lớp dân cư có khả năng góp một phần của cải dôi thừa của mình vào doanh nghiệp qua hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu. Trong bối cảnh đó, kế toán không chỉ là sự ghi chép và cung cấp thông tin cho nhà quản lý ở doanh nghiệp mà còn cung cấp thông tin cho đối tượng bên ngoài như: cơ quan thuế, ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, nhà đầu tư, nhà cung cấp Việc công bố thông tin ra bên ngoài được xem như là một yêu cầu khách quan của thực tiễn để nhà nước vận hành nền kinh tế tốt hơn; để các tổ chức kinh tế và cá nhân liên quan có điều kiện đánh giá các khoản vốn đầu tư của mình hoặc tìm kiếm cơ hội kinh doanh tốt nhất. Vấn đề này đặt ra cho kế toán phải công bố những thông tin gì cho bên ngoài để vừa đảm bảo tính bí mật thông tin của từng doanh nghiệp, vừa đảm bảo nhu cầu thông tin của cộng đồng kinh doanh. Để đáp ứng những đòi hỏi đó, các hiệp hội nghề nghiệp về kế toán đã xây dựng những quy tắc chung trong ghi chép, phản ánh và công bố các thông tin kinh tế. Đây là một nhu cầu khách quan để người làm công việc kế toán có thể đạt được những thống nhất ở một chừng mực nhất định trong xử lý và cung cấp thông tin. Những yêu cầu của thực tiễn đã thúc đẩy khoa học kế toán có những thay đổi về phương thức ghi chép và công bố thông tin; thể hiện là vào những thập niên đầu thế kỷ XX, kế toán đã dần dần tách biệt thành hai hệ thống: Sự hình thành hệ thống kế toán nhằm cung cấp thông tin cho nhiều đối tượng bên ngoài thông qua các báo cáo tài chính được trình bày theo những tiêu chuẩn thống nhất. Hệ thống kế toán đó gọi là kế toán tài chính. Cùng với sự phát triển ngày càng nhanh của khoa học công nghệ, áp lực cạnh tranh ngày càng tăng, để có thể đáp ứng được yêu cầu quản trị, nhu cầu cung cấp thông tin ngày càng đa dạng cho nhà quản lý trong tổ chức cũng như đảm bảo tính bảo mật của thông tin nội bộ đòi hỏi hệ thống kế toán có những cách ghi chép và xử lý thông tin riêng biệt. Hệ thống kế toán nhằm đảm bảo yêu cầu này là hệ thống kế toán quản trị. Với sự ứng dụng công nghệ kĩ thuật trong việc xử lý số liệu, hệ thống kế toán quản trị dần dần tách biệt với hệ thống kế toán tài chính. Tóm lại, sự ra đời, phát triển của kế toán gắn liền với sự phát triển các hoạt động kinh tế và nhu cầu sử dụng thông tin kế toán. Ở mỗi quốc gia, sự phát triển của kế toán phụ thuộc vào các điều kiện về kinh tế, chính trị văn hóa và những tập quán riêng. Tuy nhiên khoa học kế toán ngày nay không giới hạn trong biên giới của mỗi nước mà đã có những biểu hiện có tính toàn cầu hóa. 1.1.2. Định nghĩa về kế toán: Có nhiều cách tiếp cận định nghĩa kế toán. Theo giáo trình Lý thuyết hạch toán kế toán ở Việt Nam (1991) định nghĩa: kế toán là một hệ thống thông tin và kiểm tra về tài sản trong các tổ chức bằng hệ thống các phương pháp khoa học. Kế toán nghiên cứu tài sản trong quan hệ với nguồn hình thành và quá trình vận động của tài sản trong các tổ chức, đơn vị. Với định nghĩa trên ta thấy tài sản, nguồn hình tài sản cùng với quá trình sử dụng nguồn lực đó theo mục đích của tổ chức là đối tượng để kế toán theo dõi, phản ánh, ghi chép và công bố thông tin. Theo luật kế toán nước CHXHCN Việt Nam, kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và Chương I: Bản chất của Kế toán GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 4 thời gian lao động. Với định nghĩa này thì công việc kế toán được cụ thể bao gồm: giai đoạn thu thập dữ liệu ban đầu đến việc xử lý và cung cấp các thông tin kinh tế tài chính. Để phản ánh các thông tin kinh tế tài chính, kế toán sử dụng nhiều thước đo trong đó thước đo giá trị là thước đo chủ yếu và bắt buộc. Theo Viện Kế toán công Hoa Kỳ (1953) định nghĩa: kế toán là một nghệ thuật ghi nhận, phân loại và tổng hợp các sự kiện kinh tế dưới hình thức tiền tệ theo một phương thức có ý nghĩa và giải thích các kết quả đó. Theo hiệp hội Kế toán Hoa Kỳ (1966) thì kế toán là quá trình xác định, đo lường và cung cấp những thông tin hữu ích cho việc phán đoán và ra quyết định. Hai định nghĩa trên đều có điểm chung là không chỉ nhấn mạnh kế toán là một quá trình với các công việc ghi chép, đo lường và phản ánh thông tin mà còn hướng đến tính hữu ích của thông tin trong việc ra quyết định. Ngoài ra các sự kiện kinh tế chính là đối tượng để kế toán thu thập và xử lý thông tin. Về bản chất các sự kiện kinh tế tài chính là quá trình huy động và sử dụng các tài sản của một tổ chức. Từ những định nghĩa trên có thể rút ra một số điểm chung như sau: Kế toán nghiên cứu tài sản, nguồn hình thành tài sản và sự vận động của tài sản trong các tổ chức. Đó là các quan hệ kinh tế tài chính phát sinh ở các tổ chức có sử dụng tài sản để thực hiện mục tiêu hoạt động của mình. Kế toán sử dụng ba loại thước đo đó là thước đo giá trị, thước đo hiện vật và thước đo thời gian lao động, trong đó thước đo giá trị là bắt buộc để có thể tổng hợp toàn bộ các hoạt động kinh tế ở các tổ chức. Kế toán được xem là một hệ thống thông tin ở mỗi tổ chức. Hệ thống đó được vận hành qua một quá trình thu nhập, đo lường ghi chép và cung cấp thông tin bằng các phương pháp riêng có của kế toán. Chức năng của kế toán là thông tin và kiểm tra về quá trình hình thành và vận động của tài sản. Tóm lại, kế toán là một khoa học thu thập, xử lý và cung cấp thông tin về tài sản, nguồn hình tài sản và sự vận động của tài sản trong các tổ chức. 1.2. QUY TRÌNH KẾ TOÁN TRONG MỘT ĐƠN VỊ KẾ TOÁN 1.2.1 Thu thập Hoạt động kinh tế Ra quyết định Thu thập Lập chứng từ Xử lý Thông tin Lập báo cáo Phân tích và giải trình Đo lường Xác định giá đối tượng KT Ghi nhận Ghi chép Phân loại Tổng hợp Đây là giai đoạn đầu tiên của quy trình kế toán, là việc phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh gắn liền với hoạt động của một đơn vị kế toán, hay nói cách khác giai đoạn này liên quan đến thu thập các bằng chứng của những hoạt động kinh doanh trong Chương I: Bản chất của Kế toán GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 5 một tổ chức cụ thể. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được chia làm hai loại: bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Các nghiệp vụ kinh tế liên quan đến các giao dịch giữa doanh nghiệp với các chủ thể độc lập bên ngoài doanh nghiệp như: nhà cung cấp, ngân hàng, các tổ chức Nhà Nước Các nghiệp vụ kinh tế bên trong là các quá trình hoạt động kinh doanh diễn ra trong doanh nghiệp như: ở các doanh nghiệp sản xuất, đó là quá trình sử dụng các máy móc thiết bị trên cơ sở nguồn nhân lực sẵn có để chuyển đổi các loại vật liệu thành sản phẩm. Như vậy, các nghiệp vụ kinh tế chính là dữ liệu đầu vào của quy trình kế toán. Để có thể biết thông tin ban đầu về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, kế toán sử dụng phương pháp chứng từ kế toán. Đó là phương pháp "sao chụp" các nghiệp vụ kinh tế tài chính hình thành tại đơn vị và là cơ sở cho quá trình xử lý thông tin ở bước tiếp theo. 1.2.2. Xử lý Là giai đoạn tiếp theo của quá trình kế toán bao gồm hai công việc là đo lường và ghi nhận. Trong đó: Đo lường: diễn ra trước khi ảnh hưởng của các nghiệp vụ kinh tế được ghi nhận. Như đã biết, mỗi nghiệp vụ kinh tế phát sinh được đo lường cho bằng nhiều thước đo khác nhau: Thước đo hiện vật (vật liệu mua 50 cái, xăng 100 lit, vải 3 m, ) sử dụng thước đo hiện vật giúp kiểm soát chặt chẽ về mặt số lượng. Tuy nhiên, thước đo hiện vật chỉ tổng hợp số lượng liên quan đến từng đối tượng cụ thể, không thể tổng hợp thông tin từ nhiều đối tượng khác nhau thành một chỉ tiêu tổng quát được. Thước đo thời gian lao động ( may cái áo mất 7 giờ,) sử dụng thước đo thời gian lao động chúng ta biết được năng suất lao động, giúp ích cho việc tính tiền công lao động hoặc phân phối thu nhập giữa các cá nhân. Tuy nhiên thước đo thời gian cũng có nhược điểm: không thể tổng hợp toàn bộ thời gian lao động của tất cả các cá nhân, tập thể vì tính chất lao động của mỗi cá nhân là khác nhau. Để thông tin kế toán có ích đối với người sử dụng, thông tin đó phải thể hiện bằng một thước đo chung nhất nhằm tổng hợp ảnh hưởng của tất cả các nghiệp vụ kinh tế. Vì tất cả các giao dịch kinh tế phát sinh đều được thể hiện dưới hình thái tiền tệ, tiền tệ còn là phương tiện thanh toán và xác định giá trị nên việc sử dụng thước đo tiền tệ có thể giúp chúng ta so sánh, tổng hợp giá trị của những tài sản khác nhau, cũng như loại trừ ảnh hưởng của các sự kiện kinh tế phát sinh vượt mức. Ghi nhận: là quá trình sử dụng các sổ sách kế toán kết hợp với nguyên tắc ghi chép n ... 0 x 19%) CT TK 622 – B 53.200 (280.000 x 19%) Nợ TK 627 17.784 (93.600 x 19%) Có TK 338 150.784 5. Nợ TK 627 80.000 Có TK 214 80.000 GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 112 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu 6. Nợ TK 627 38.616 Có TK 111 38.616 Phản ánh vào các tài khoản tập hợp chi phí: TK 621 (1) 500.000 (2) 110.000 610.000 (7a) 610.000 610.000 TK 621 – A (1) 300.000 (2) 66.000 366.000 (7a) 366.000 366.000 TK 621 – B (1) 200.000 (2) 44.000 244.000 (7a) 244.000 244.000 TK 622 (3) 700.000 (4) 133.000 833.000 (7b) 833.000 833.000 TK 622 – A (3) 420.000 (4) 79.800 499.800 (7b) 499.800 499.800 TK 622 – B (3) 280.000 (4) 53.200 333.200 (7b) 333.200 333.200 TK 627 (3) 93.600 (4) 17.784 (5) 80.000 (6) 38.616 230.000 (7c) 230.000 230.000 TK 154 410.200 (7a) 610.000 (7b) 833.000 (7c) 230.000 1.881.000 (8) 1.673.000 202.200 1.881.000 1.003.800 110.000 TK 154 – A 241.200 (7a) 366.000 (7b) 499.800 (7c) 138.000 1.135.000 (8) 1.135.000 TK 154 – B 169.000 (7a) 244.000 (7b) 333.200 (7c) 92.000 746.000 (8) 669.200 92.200 746.000 Phân bổ chi phí sản xuất chung: 230.000 Chi phí SXC phân bổ cho SP A: 700.000 x 420.000 = 138.000 230.000 Chi phí SXC phân bổ cho SP B: 700.000 X 280.000 = 92.000 Bút toán kết chuyển chi phí và tính giá thành sản phẩm: 7a. Nợ TK 154 610.000 Có TK 621 610.000 CT TK 621 – A 366.000 CT TK 621 – B 244.000 GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 113 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu 7b. Nợ TK 154 833.000 Có TK 622 833.000 CT TK 622 – A 499.800 CT TK 622 – B 333.200 7c. Nợ TK 154 230.000 Có TK 627 230.000 CT TK 627 – A 138.000 CT TK 627 – B 92.000 8. Nợ TK 155 1.881.000 CT TK 155 – A 1.135.000 CT TK 155 – B 746.000 Có TK 154 1.881.000 Bảng tính giá thành: BẢNG TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM A Số lượng thành phẩm: 1.000 CPSXDD đầu kì CPSXPS trong kì CPSX DD cuối kì Tổng giá thành SX Giá thành đơn vị SPKhoản mục chi phí (1) (2) (3) (4) (5) 1. CP NVL trực tiếp 150.000 366.000 76.000 440.000 440 2. CP nhân công trực tiếp 71.400 499.800 23.800 547.400 547,4 3. CP sản xuất chung 19.800 138.000 10.200 147.600 147,6 Tổng cộng 241.200 1.003.800 110.000 1.135.000 1.135 BẢNG TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM B Số lượng thành phẩm: 500 Đơn vị tính: 1.000 đồng CPSXDD đầu kì CPSXPS trong kì CPSXDD cuối kì Tổng giá thành SX Giá thành đơn vị SP Khoản mục chi phí (1) (2) (3) (4) (5) 1. CP NVL trực tiếp 100.000 244.000 48.000 296.000 592 2. CP nhân công trực tiếp 59.500 333.200 14.500 378.200 756,4 3. CP sản xuất chung 9.500 92.000 29.700 71.800 143,6 Tổng cộng 169.000 669.200 92.200 746.000 1.492 GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 114 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu 8.4. KẾ TOÁN QUÁ TRÌNH TIÊU THỤ 8.4.1. Đặc điểm quá trình tiêu thụ và nhiệm vụ của kế toán quá trình tiêu thụ. Tiêu thụ là khâu cuối cùng của chu kì kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là quá trình đưa các loại thành phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp vào lĩnh vực lưu thông, thông thường qua các phương thức bán hàng. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì đó là quá trình bán ra các thành phẩm do doanh nghiệp tạo ra, còn doanh nghiệp thương mại thì bán hàng hóa đã được mua ở quá trình cung cấp và thu tiền. Trong quá trình bán hàng sẽ phát sinh các nghiệp vụ: giao hàng, thu tiền và các khoản thuế phải nộp cho Nhà Nước. Các khoản thuế phát sinh trong quá trình bán hàng hiện nay có thể là thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu . Đối với những sản phẩm hàng hóa thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì trên hóa đơn bán hàng kế toán phải ghi riêng: Giá bán chưa có thuế. Khoản phụ thu hay phí thu thêm nếu có. Thuế GTGT phải nộp. Tổng giá thanh toán. Khoản thuế GTGT phải nộp khi bán hàng ra gọi là thuế GTGT đầu ra phải nộp. Trong từng kì kế toán, khoản thuế GTGT đầu vào và đầu ra sẽ được khấu trừ với nhau để xác định thuế mà doanh nghiệp thực sự phải nộp cho Nhà Nước. Mặt khác, liên quan đến quá trình bán hàng, doanh nghiệp còn phải bỏ ra một số chi phí nhằm mục đích đưa sản phẩm vào lưu thông trên thị trường như: chi phí nhân viên bán hàng, chi phí quảng cáo, chi phí bảo hành, chi phí khấu hao tài sản cố định dùng ở bộ phận bán hàng. Đó chính là chi phí bán hàng, hoặc các chi phí liên quan đến hoạt động quản lý hành chính và quản lý chung toàn doanh nghiệp: chi phí nhân viên quản lý doanh nghiệp, chi phí công cụ dụng cụ dùng cho quản lý, chi phí khấu hao TSCĐ dùng cho quản lý và dùng chung cho toàn doanh nghiệp, chi phí điện nước dùng chung toàn doanh nghiệp đó là chi phí quản lý doanh nghiệp. Những chi phí này không được tính vào giá thành sản xuất của sản phẩm mà được khấu trừ vào doanh thu thuần về bán hàng trong kì mà nó phát sinh để tính kết quả kinh doanh trong kì. Khi bán hàng, giá gốc của thành phẩm, hàng hóa bán ra trong kì được ghi nhận là chi phí để xác định lợi nhuận trong kì và gọi là giá vốn hàng bán. Giá bán của thành phẩm, hàng hóa bán ra trong kì tương ứng được ghi nhận là doanh thu bán hàng trong kì. Nhiệm vụ của kế toán quá trình tiêu thụ: Đo lường và phản ánh kịp thời, chính xác giá vốn và doanh thu của sản phẩm và hàng hóa bán ra. Tập hợp đúng, đủ và kịp thời chi phí bán hàng phát sinh trong kì. Xác định chính xác kết quả hoạt động tiêu thụ trong kì. Lập các báo cáo tiêu thụ và kết quả tiêu thụ theo yêu cầu quản lý. 8.4.2. Vận dụng phương pháp kế toán trong kế toán quá trình tiêu thụ. GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 115 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu Chứng từ sử dụng: nghiệp vụ xuất kho thành phẩm, hàng hóa được phản ánh trên phiếu xuất kho, nghiệp vụ bán hàng được phản ánh trên hóa đơn bán hàng (hóa đơn GTGT), nghiệp vụ thu tiền được phản ánh trên phiếu thu hoặc giấy báo Có của ngân hàngNgoài ra các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ cũng phải có chứng từ kế toán chứng minh chi phí đó thực tế phát sinh. Kế toán quá trình tiêu thụ phải tuân thủ nguyên tắc ghi nhận doanh thu và nguyên tắc phù hợp. Nguyên tắc ghi nhận doanh thu: quy định thời điểm ghi nhận doanh thu bán hàng. Đó là khi quyền sở hữu hàng bán được chuyển giao. Trong thực tế, quyền sở hữu hàng hóa được chuyển giao khi người bán đã hoàn thành việc giao hàng cho người mua, người mua đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Tuy nhiên, tùy theo phương thức bán hàng mà thời điểm tiêu thụ được xác định đúng đắn. Trường hợp bán hàng trực tiếp, sản phẩm được tiêu thụ ngay khi khách hàng nhận hàng tại cửa hàng hay tại kho của đơn vị. Trường hợp bán hàng theo phương thức chuyển hàng, đơn vị có trách nhiệm vận chuyển hàng đến địa điểm quy định cho khách hàng. Do đó, hàng đang trong quá trình vận chuyển vẫn thuộc quyền sở hữu của người bán và được phản ánh trên TK hàng gửi đi bán. Hàng gửi đi bán xác định là tiêu thụ khi khách hàng thông báo đã nhận được hàng và thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Nguyên tắc phù hợp: khi ghi nhận một khoản doanh thu thì đồng thời phải ghi nhận một khoản chi phí tạo ra doanh thu đó. Như vậy, khi ghi nhận doanh thu của thành phẩm, hàng hóa đã được tiêu thụ thì đồng thời kế toán phải ghi nhận giá vốn của số thành phẩm, hàng hóa đó và các khoản chi phí bán hàng có liên quan. Tài khoản sử dụng: Tài khoản ghi nhận doanh thu: TK 511 – Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ. TK phán ánh chi phí: TK 632 – Giá vốn hàng bán, TK 641 – Chi phí bán hàng, TK 642 – Chi phí quản lý doanh nghiệp. TK tiền: TK 111 – tiền mặt, TK 112 – Tiền gửi ngân hàng. TK thanh toán: TK 131 – Phải thu khách hàng. Tài khoản hàng tồn kho: TK 155 – Thành phẩm, TK 156 – Hàng hóa, TK 157 – Hàng gửi đi bán. TK 333 – Thuế và các khoản phải nộp Nhà Nước: phản ánh thuế GTGT đầu ra của thành phẩm, hàng hóa đã tiêu thụ trong trường hợp sản phẩm thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Định khoản một số nghiệp vụ kinh tế phát sinh chủ yếu: Khi xuất kho thành phẩm, hàng hóa bán trực tiếp cho khách hàng: Ghi nhận doanh thu: Nếu thành phẩm, hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì doanh thu bán hàng là giá bán chưa có thuế GTGT. Nợ TK 111, 112: nếu đã thanh toán (giá thanh toán) Nợ TK 131: nếu khách hàng chưa thanh toán (giá thanh toán) GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 116 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu Có TK 511: giá bán chưa có thuế GTGT Có TK 333: thuế GTGT Nếu thành phẩm, hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp hoặc không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì doanh thu bán hàng là giá thanh toán. Nợ TK 111, 112, 131 (ghi nhận theo giá thanh toán) Có TK 511 (ghi nhận theo giá thanh toán) Ghi nhận giá vốn: Nợ TK 632 Có TK 155, 156 Khi bán hàng theo phương thức chuyển hàng: Khi xuất kho thành phẩm gửi đi bán: Nợ TK 157 Có TK 156 Khi khách hàng thông báo đã nhận được hàng, thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán: Ghi nhận doanh thu: tương tự như trường hợp bán hàng trực tiếp Ghi nhận giá vốn: Nợ TK 632 Có TK 157 Chi phí bán hàng phát sinh trong kì: Nợ TK 641 Có TK 334 Có TK 338 Có TK 214 Có TK 152, 111, 112, 331 Chi phí quản lý phát sinh trong kì: Nợ TK 642 Có TK 334 Có TK 338 Có TK 214 Có TK 152, 111, 112, 331 Cuối kì, các khoản doanh thu và chi phí liên quan đến kết quả tiêu thụ trong kì được kết chuyển vào tài khoản 911 – Xác định kết quả kinh doanh trong kì để xác định kết quả tiêu thụ trong kì. Kết chuyển doanh thu thuần bán hàng: GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 117 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu Nợ TK 511 Có TK 911 Kết chuyển chi phí: Nợ TK 911 Có TK 632 Có TK 641 Có TK 642 Căn cứ vào số liệu được phản ánh trên tài khoản 911, kế toán xác định lợi nhuận kế toán trong kì bằng chênh lệch giữa tổng doanh thu ở bên Có TK 911 và tổng chi phí ở bên Nợ TK 911. Lợi nhuận kế toán trong kì được kết chuyển vào tài khoản 421 – Lợi nhuận chưa phân phối. Nếu lãi: khoản lãi làm tăng vốn chủ sở hữu nên được ghi bên Có TK 421 Nợ TK 911 Có TK 421 Nếu lỗ: khoản lỗ làm giảm vốn chủ sở hữu nên được ghi bên Nợ TK 421 Nợ TK 421 Có TK 911 SƠ ĐỒ KẾ TOÁN QUÁ TRÌNH TIÊU THỤ TK 155, 156 TK 632 Giá vốn hàng xuất bán trực tiếp TK 157 Giá vốn hàng xuất gửi bán Giá vốn hàng gửi bán đã tiêu thụ TK 641 TK 642 TK 911 TK 511 TK 111, 112, 131 Doanh thu bán hàng TK 333 Thuế GTGT (nếu có) TK 334, 338, 152, 153, 242, 142, 111.. Tập hợp CP bán hàng Tập hợp CP QLDN Kết chuyển giá vốn Kết chuyển CP BH Kết chuyển CP QLDN Kết chuyển doanh thu BH TK 421 Kết chuyển lỗ Kết chuyển lãi Tình hình tiêu thụ thành phẩm của doanh nghiệp X trong tháng 6/X được tổng hợp như sau: (đơn vị tính: nghìn đồng). 1. Doanh nghiệp Y ứng trước tiền mua hàng cho doanh nghiệp bằng chuyển khoản 110.000.000đ GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 118 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu 2. Xuất kho hàng hóa gửi đi bán cho doanh nghiệp Y theo phương thức chuyển hàng giá bán 80.000.000đ, giá bán 100.000.000đ, thuế GTGT 10% trên giá bán. 3. Xuất kho một số hàng hóa bán trực tiếp cho khách hàng X, giá xuất kho 40.000.000đ, giá bán 60.000.000đ, thuế GTGT 10% trên giá bán, khách hàng chưa trả tiền. 4. Nhận được giấy báo doanh nghiệp Y đã nhận được hàng (ở nghiệp vụ 1) và tiền hàng được trừ vào số tiền đã ứng ở nghiệp vụ 1. 5. chi phí sản xuất kinh doanh khác cho bởi bảng sau: Chỉ tiêu Chi phí bán hàng Chi phí quản lý doanh nghiệp Tiền lương 5.000.000đ 10.000.000 Trích BHXH, BHYT, KPCĐ Theo quy định tính vào CP Theo quy định tính vào CP Khấu hao TSCĐ 500.000 1.000.000 Chi phí khác bằng tiền mặt (bao gồm cả thuế GTGT 10%) 55.000 110.000 Yêu cầu: 1. định khoản các nghiệp vụ kinh tế nói trên. 2. phản ánh vào các tài khoản liên quan đến việc xác định kết quả kinh doanh. 3. lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Cho biết: Doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Trong tháng 6/X, không phát sinh các khoản doanh thu và chi phí tài chính và hoạt động khác. Thuế suất thuế thu nhập 28%. Định khoản: 1. Nợ TK 112 110.000.000 Có TK 131 110.000.000 CT TK 131 – Y 110.000.000 2. Nợ TK 157 80.000.000 Có TK 155 80.000.000 3a. Nợ TK 131 66.000.000đ CT TK 131 – X 66.000.000 Có TK 511 60.000.000 Có TK 333 6.000.000 3b. Nợ TK 632 40.000.000 Có TK 156 40.000.000 4a. Nợ TK 131 110.000.000 CT TK 131 – Y 110.000.000 Có TK 511 100.000.000 Có TK 333 10.000.000 4b. Nợ TK 632 80.000.000 Có TK 157 80.000.000 5a. Nợ TK 641 5.000.000 Nợ TK 642 10.000.000 Có TK 334 15.000.000 5b. Nợ TK 641 950.000 (19% x 5.000.000) Nợ TK 642 1.900.000 (19% x 10.000.000) Có TK 338 2.850.000 GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 119 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu GV: Trần Thị Thu Trâm – Phạm Thị Mai Quyên Trang 120 5c. Nợ TK 641 500.000 Nợ TK 642 1.000.000 Có TK 214 1.500.000 5d. Nợ TK 641 50.000 Nợ TK 642 100.000 Nợ TK 133 15.000 Có TK 111 165.00 Phản ánh vào các tài khoản liên quan đến xác định kết quả kinh doanh: TK 511 TK 632 (6a)160.000.000 60.000.000(3a) 100.000.000(4a) (3b)40.000.000 (4b)80.000.000 120.000.000(6b) 160.000.000 160.000.000 120.000.000 120.000.000 TK 641 TK 642 TK 911 (5a)5.000.000 (5b) 950.000 (5c) 500.000 (5d) 50.000 6.500.000(6c) (5a)10.000.000 (5b) 1.900.000 (5c) 1.000.000 (5d) 100.000 13.000.000(6d) 120.000.000(6b) 6.500.000(6c) 13.000.000(6d) 20.500.000(6e) 160.000.000(6a) 6.500.000 6.500.000 13.000.000 13.000.000 160.000.000 160.000.000 BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Tháng 6 năm N Đơn vị tính: nghìn đồng CHỈ TIÊU MÃ SỐ KỲ NÀY 1. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ 01 160.000 2. Các khoản giảm trừ 03 3. Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ (10 = 01 – 03 ) 10 160.000 4. Giá vốn hàng bán 11 120.000 5. Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ ( 20 = 10 – 11 ) 20 40.000 6. Doanh thu hoạt động tài chính 21 7. Chi phí tài chính 22 8. Chi phí bán hàng 24 6.500 9. Chi phí quản lý doanh nghiệp 25 13.000 10. Lợi nhuần thuần từ hoạt động kinh doanh 30 = 20 + ( 21 – 22 ) - ( 24 + 25) 30 20.500 11. Thu nhập khác 31 12. Chi phí khác 32 13. Lợi nhuận khác ( 40 = 31 – 32 ) 40 14. Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế (50=30+40) 50 20.500 15. Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp 51 5.740 16. Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp ( 60 = 50 – 51 ) 60 14.760 Chương VIII: Kế toán các quá trình kinh doanh chủ yếu TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Nguyên lý kế toán Ts. Trần Đình Khôi Nguyên (chủ biên), Ts. Hoàng Tùng, Ths.Đoàn Ngọc Phi Anh, Ths. Phạm Hoài Hương. Nhà xuất bản giáo dục. Giáo trình Nguyên lý kế toán PGS - Ts. Võ Văn Nhị. Nhà xuất bản tổng hợp TP. Hồ Chí Minh
File đính kèm:
- giao_trinh_ly_thuyet_ke_toan.pdf