Giáo trình Kế toán - Chương 1: Tổng quan về kế toán

Kế toán là một công việc thực tiễn phục vụ cho những mục đích cụ thể. Rất ít người dù

là thiểu số cho rằng hài lòng về sự cân đối của sổ sách kế toán. Tuy nhiên, tính hữu ích của kế

toán thể hiện ở những thông tin mà nó cung cấp.

Thông tin kế toán có thể là thông tin ban đầu như trong trường hợp ghi nhận tài sản, vốn

chủ sở hữu cũng như những món nợ của một đơn vị. Như vậy, một sự ghi nhận đơn giản

những tài sản vào một ngày cụ thể chính là một bản kê. Việc so sánh những bản kê giữa hai

thời điểm cung cấp cho chúng ta thông tin bổ sung cho phép đánh giá trách nhiệm mà những

nhà quản lý đã hoàn thành, điều này đặc biệt quan trọng trong trường hợp những chủ sở hữu

không đồng thời quản lý đơn vị. Việc theo dõi những biến động tăng giảm vốn, tài sản và các

dịch vụ trong một năm tài chính cung cấp cơ sở cho việc kiểm tra công việc của các nhà quản

lý và cộng sự của họ. Phân tích những nguyên nhân và kết quả của những biến động tăng

giảm nguồn lực cho phép giải thích nguồn gốc của lợi nhuận hoặc thua lỗ. Cuối cùng, việc

xem xét quan hệ giữa lợi nhuận và những điều kiện sản xuất là căn cứ cần cho việc dự báo

những kết quả của những hoạt động sắp tới. Từ đó, kế toán có thể cung cấp những thông tin

hữu ích cho việc ra quyết định của ban quản lý đơn vị và các bộ phận khác có liên quan. Bằng

cách thu thập thông tin tài chính được công bố từ những bộ phận quan trọng hoặc các tổ nhóm

trong một công ty, chúng ta sẽ có được những thông tin có ý nghĩa cho việc xác định những

chính sách kinh tế-xã hội. Những dữ liệu kế toán về các đơn vị cũng có thể phục vụ như là

công cụ xây dựng các chính sách của nhà nước, ví dụ như trong việc áp dụng các loại thuế và

phí, trong việc điều chỉnh giá cả và trong những lĩnh vực khác.

pdf 42 trang kimcuc 4720
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kế toán - Chương 1: Tổng quan về kế toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Kế toán - Chương 1: Tổng quan về kế toán

Giáo trình Kế toán - Chương 1: Tổng quan về kế toán
Bài giảng 
Tổng quan về kế toán 
 
Chương 1: Tổng quan về kế toán
Số tiết: 15
Mục tiêu học tập của chương: 
Học xong chương này, sinh viên phải nắm được:
1. Bản chất của kế toán, vai trò cung cấp thông tin cho các nhà làm quyết định và các 
yêu cầu đối với thông tin kế toán 
2. Phân biệt được kế toán tài chính và kế toán quản trị 
3. Hiểu được các định đề/giả thuyết và các nguyên tắc kế toán được công nhận 
(GAAPs) 
1.
4. Nắm được đối tượng phản ánh của kế toán và đặc trưng của nó 
5. Hiểu rõ quy trình kế toán 
6. Hiểu khái quát về hệ thống các phương pháp kế toán 
7. Hiểu khái quát hệ thống báo cáo kế toán tài chính 
8. Hiểu được kế toán là một nghề nghiệp với những trách nhiệm về đạo đức 
1.1. Kế toán và vai trò cung cấp thông tin tài chính định lượng của kế toán 
1.1.1. Sơ lược về lịch sử phát triển của kế toán 
Kế toán là một công việc thực tiễn phục vụ cho những mục đích cụ thể. Rất ít người dù 
là thiểu số cho rằng hài lòng về sự cân đối của sổ sách kế toán. Tuy nhiên, tính hữu ích của kế 
toán thể hiện ở những thông tin mà nó cung cấp. 
Thông tin kế toán có thể là thông tin ban đầu như trong trường hợp ghi nhận tài sản, vốn 
chủ sở hữu cũng như những món nợ của một đơn vị. Như vậy, một sự ghi nhận đơn giản 
những tài sản vào một ngày cụ thể chính là một bản kê. Việc so sánh những bản kê giữa hai 
thời điểm cung cấp cho chúng ta thông tin bổ sung cho phép đánh giá trách nhiệm mà những 
nhà quản lý đã hoàn thành, điều này đặc biệt quan trọng trong trường hợp những chủ sở hữu 
không đồng thời quản lý đơn vị. Việc theo dõi những biến động tăng giảm vốn, tài sản và các 
dịch vụ trong một năm tài chính cung cấp cơ sở cho việc kiểm tra công việc của các nhà quản 
lý và cộng sự của họ. Phân tích những nguyên nhân và kết quả của những biến động tăng 
giảm nguồn lực cho phép giải thích nguồn gốc của lợi nhuận hoặc thua lỗ. Cuối cùng, việc 
xem xét quan hệ giữa lợi nhuận và những điều kiện sản xuất là căn cứ cần cho việc dự báo 
những kết quả của những hoạt động sắp tới. Từ đó, kế toán có thể cung cấp những thông tin 
hữu ích cho việc ra quyết định của ban quản lý đơn vị và các bộ phận khác có liên quan. Bằng 
cách thu thập thông tin tài chính được công bố từ những bộ phận quan trọng hoặc các tổ nhóm 
trong một công ty, chúng ta sẽ có được những thông tin có ý nghĩa cho việc xác định những 
chính sách kinh tế-xã hội. Những dữ liệu kế toán về các đơn vị cũng có thể phục vụ như là 
công cụ xây dựng các chính sách của nhà nước, ví dụ như trong việc áp dụng các loại thuế và 
phí, trong việc điều chỉnh giá cả và trong những lĩnh vực khác. 
Có hai điều kiện quyết định hình thức của kế toán. Điều kiện thứ nhất là nhu cầu về 
thông tin mà các sổ sách kế toán có thể cung cấp. Điều kiện thứ hai là việc xây dựng những 
phương tiện cho phép đáp ứng được nhu cầu thông tin nói trên. Chúng ta biết rằng một số vấn 
đề lý thuyết không thể giải quyết được trước khi có máy tính và sự trợ giúp to lớn về tính toán 
1
của nó. Chúng ta cũng có thể khẳng định rằng áp dụng kế toán trước đây chỉ giới hạn ở những 
danh mục tài sản trước khi có sự xuất hiện của tiền và chấp nhận tiền là đơn vị đo lường trong 
kế toán. Rõ ràng rằng, trước khi nghiên cứu về kế toán như hiện nay đang thực hiện thì trước 
hết cần thiết phải nghiên cứu về lịch sử phát triển kinh tế.
Chúng ta nghiên cứu về lịch sử kinh tế và nhận thấy một nghịch lý. Chúng ta có thể liệt 
kê những hình thức kế toán đầu tiên đã từng tồn tại trong các hình thức xã hội khác nhau từ 
sáu ngàn năm qua. Theo Skinner, Milburn, Chlala, Fortin (2003), trong xã hội phương tây, kế 
toán được sử dụng thường xuyên đã từ 500 năm nay. Tuy nhiên, chỉ đến những năm 75 đến 
150 năm trở lại đây, nhu cầu cần phải có một lý thuyết kế toán mới được đặt ra. Nghịch lý này 
có thể được giải thích một cách đơn giản. Bất kỳ hình thức tồn tại nào của một môn học đều 
yêu cầu thấu hiểu nhiệm vụ của nó và các phương tiện sẵn có cho việc thực hiện các nhiệm vụ 
này. Khi nhiệm vụ đã rõ ràng, điều lý thú chủ yếu lại thuộc về các phương tiện. Khi mà trong 
một thời gian dài nhiệm vụ của kế toán chỉ dừng lại ở việc ghi chép sổ sách, những công cụ 
và phương tiện chủ yếu nhằm vào « cách thức kế toán ». Khi cần thiết phải thể hiện thông tin 
tài chính, có nghĩa là ngoài việc ghi chép sổ sách, kế toán còn nhiệm vụ cung cấp thông tin, 
kế toán trở nên phức tạp hơn và việc xây dựng một lý thuyết để hướng dẫn các phương pháp 
thực hiện kế toán trở thành chính yếu.
Khoảng từ năm 1850, nhiệm vụ kế toán ngày càng hướng đến cung cấp thông tin cần 
thiết cho việc ra quyết định hơn là việc ghi chép sổ sách đơn giản những tài sản và những 
nghiệp vụ liên quan đến những tài sản. Hai lĩnh vực kế toán xuất hiện trong giai đoạn này mà 
chúng ta có thể phân biệt chúng thông qua dạng ra quyết định. Kế toán quản trị bao gồm các 
nghiệp vụ liên quan đến sản xuất và sử dụng các thông tin phục vụ cho việc đưa ra các quyết 
định về đầu tư, sản xuất, thiết lập giá, tung sản phẩm ra thị trường và các hoạt động khác. 
Việc thể hiện các thông tin tài chính, ngược lại, lại tập trung vào sản xuất và các thông tin 
được sử dụng bởi những người ngoài đơn vị. Thông tin kế toán chủ yếu hữu ích cho những 
người bên ngoài khi họ cần quyết định lựa chọn đầu tư hay không vào đơn vị hoặc là có cho 
đơn vị vay hay không. 
Vì sự khác biệt nằm ở chỗ thông tin kế toán được sử dụng khác nhau nên kế toán trở 
thành một khoa học hơn là một kỹ thuật đơn giản và chúng ta cần phải hiểu được phạm vi 
khái niệm của nó. Chúng ta cần phải hiểu không chỉ kế toán thực hiện như thế nào mà còn 
phải hiểu tại sao nó lại thực hiện như thế. Điều này thấy rất rõ ở việc thể hiện thông tin tài 
chính. Ban quản lý một đơn vị cần phải biết được thông tin cần thiết để cải thiện các hoạt 
động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Công việc kế toán tốt sẽ góp phần tối ưu hoá hiệu quả 
của ban quản lý. Kế toán tài chính, ngược lại, hướng đến công chúng rộng rãi hơn nhiều, đó là 
những người ngoài đơn vị có nhu cầu thông tin về tình trạng và sức khoẻ tài chính của đơn vị 
với những động cơ rất khác nhau.
Để xác định và lựa chọn thông tin nào hữu ích cho mỗi lĩnh vực, đo lường nó chúng ta 
cần phải có một phạm vi khái niệm và quan niệm. Nhưng điều này chưa tồn tại vào những 
năm 1850. Dần dần, trong những thế kỷ tiếp theo, những cách thức trình bày thông tin tài 
chính đã xuất hiện, được sử dụng và để đến nay nó hoàn thiện và trở thành « những nguyên 
tắc kế toán chung được thừa nhận ». Kể từ năm 1930, những công ty kế toán chuyên nghiệp 
đã hệ thống hoá những nguyên tắc này để tránh những sự rời rạc, thiếu thống nhất và tránh 
những mâu thuẫn, hoàn thiện hơn nguyên tắc trình bày thông tin tài chính. Với mục đích này 
các Hội đồng được thành lập và với thời gian đã ngày càng cải thiện tốt hơn nguyên tắc thể 
hiện các thông tin tài chính đảm bảo tính đại diện và độc lập. Song song với việc này, những 
khuyến cáo của những hội đồng kế toán chuyên nghiệp ngày càng trở nên chính thống và 
những hội đồng này dần trở thành những tổ chức soạn thảo các chuẩn mực kế toán, những 
khuyến cáo và những nguyên tắc thể hiện thông tin tài chính. Trên thực tế, xây dựng các 
2
nguyên tắc kế toán thông qua một quá trình đã được thay thế bởi những cố gắng của những 
chuẩn mực hệ thống.
Vai trò ghi chép sổ sách
Đối tượng chủ yếu của kế toán là của cải, có nghĩa là sự tích luỹ tài sản sau những tiêu 
dùng ngay cho con người. Đây chính là nền tảng cho nền văn minh. Vì vậy, không ngạc nhiên 
khi chúng ta tìm thấy các hình thức kế toán ngay trong những thời kỳ văn minh cổ đại nhất. 
Theo Skinner, Milburn, Chlala, Fortin (2003), chúng ta có thể phân biệt thành ba giai đoạn 
phát triển của kế toán. Giai đoạn thứ nhất bao gồm thời kỳ những năm 4000 trước công 
nguyên cho đến khoảng năm 1300, hoạt động chủ yếu của kế toán lúc bấy giờ là ghi nhận các 
giao dịch trong những quyển sổ. Việc tập trung của cải yêu cầu cần phải có kiểm tra và vì vậy 
kế toán là rất cần thiết. Giai đoạn thứ hai trải dài từ sau năm 1300 đến khoảng 1850. Giai 
đoạn này đặc trưng bởi sự mở rộng của thương mại, điều này dẫn đến tăng nhu cầu về các tài 
liệu và chứng từ kế toán chính xác. Những chứng từ này cho phép xử lý một khối lượng lớn 
dữ liệu và tóm tắt chúng theo một cách đơn giản phục vụ cho việc quản lý các hoạt động 
thương mại. Một lần nữa, ghi nhận các giao dịch vào sổ sách lại chiếm ưu thế trong các hoạt 
động kế toán trong giai đoạn này. Tuy nhiên, một tiến bộ chuyển việc ghi chép sổ sách đơn 
thành kế toán kép đã làm cho kế toán thực sự trở thành một hệ thống ghi chép sổ sách kế toán. 
Kế toán kép đóng vai trò rất quan trọng đến mức chỉ cần một số cải thiện đã có thể đáp ứng 
được nhu cầu cho giai đoạn thứ ba, tức là giai đoạn từ năm 1850 đến ngày nay.
Sự tập trung cao các hoạt động kinh tế vào thế kỷ 19, đã từng được biết đến với tên gọi 
là cuộc cách mạng công nghiệp đã chuẩn bị cho lĩnh vực kế toán phát triển. Sự xuất hiện của 
những doanh nghiệp lớn bắt buộc phải huy động vốn nhiều và dẫn đến sự phân chia các vai 
trò giữa các chủ sở hữu và các nhà quản lý, và từ đó hình thành nên các công ty trách nhiệm 
hữu hạn. Kế toán trở thành một nguồn thông tin về chi phí và thu nhập cho lãnh đạo công ty. 
Các tài liệu kế toán tạo nên phương tiện để chuyển tải thông tin cho các nhà đầu tư, các chủ 
nợ và những người có nhu cầu biết về sự phát triển của công ty. 
Những điều kiện tiên quyết cho sự xuất hiện của kế toán. 
Nền văn minh đã đạt đến một trình độ nhất định trước khi có sự xuất hiện của các tài 
liệu kế toán. Đó chính là sự tiến hoá của tri thức và những lực lượng tổ chức cho phép xây 
dựng những hình thức kế toán. Dưới đây là những điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của kế 
toán. 
 Điều kiện tiên quyết đầu tiên, đó là việc xoá nạn mù chữ. Để thực hiện việc ghi chép 
sổ sách, con người cần phải biết viết và biết đọc. Trong những nền văn minh cổ đại, kế toán 
chủ yếu dành cho các hoạt động của các cơ quan, tổ chức như là nhà thờ, nhà nước, những 
người có kiến thức về nghệ thuật và chữ viết đủ để có thể đảm nhận việc ghi chép sổ sách 
chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong số dân chúng biết đọc và biết viết. Tuy nhiên, có một số phương 
pháp để có thể bù đắp cho vấn đề xoá nạn mù chữ. Ví dụ ở Babylone, người ta sử dụng những 
thư lại trong việc ghi chép những hợp đồng, phiếu thu và những giao dịch tài chính khác. 
Chúng ta có thể nói rằng chính những thư lại này là những chuyên gia kế toán đầu tiên. Ở 
Anh Noóc-Măng, vào thời kỳ Trung đại, người ta chỉ yêu cầu những người giữ tài khoản kế 
toán báo cáo miệng về các hoạt động và kết quả. Về kiểm toán theo nghĩa riêng của từ này 
chỉ bao gồm việc đánh giá tính hợp lý của các báo cáo nêu trên.
Điều kiện tiên quyết thứ hai là một hệ thống số viết hiệu quả. Mọi tài liệu kế toán phức 
tạp hơn một danh mục đơn giản về các giao dịch cá nhân cho phép làm các phép tính cộng và 
trừ. Để hoàn thành những nhiệm vụ của kế toán, cần phải có một hệ thống số đếm thích hợp. 
Hệ thống số Ả Rập mà chúng ta quen dùng chỉ được phổ biến rộng rãi sang nền văn minh 
3
châu Âu vào thế kỷ thứ 13. Ngay cả khi ấy và trong nhiều năm sau người ta vẫn sử dụng 
nhiều số la mã để ghi chép sổ sách. Nhiều tác giả cùng chia sẻ quan điểm này và họ cho rằng 
kế toán thực sự xuất hiện và có điều kiện phát triển khi có sự hình thành của chữ viết và số 
học sơ cấp. Sự xuất hiện và phổ biến rộng rãi của chữ viết mà trước hết là sự phát minh ra hệ 
đếm thập phân và việc sử dụng rộng rãi chữ số Ả Rập tạo ra tiền đề cần thiết cho sự ra đời của 
kế toán. Hệ thống chữ số Ả Rập cho phép đặt các số theo cột và điều này đơn giản hoá các 
phép cộng và trừ, vì chúng ta bắt đầu bằng cột đầu tiên ở phía phải và từ từ chuyển đến cột 
phía trái.
Điều kiện tiên quyết thứ ba là chất liệu sổ sách. Ở Assyrie và Babylone người ta lại tìm 
thấy các bản bằng gốm và sành dưới dạng các “tờ phiếu”.. Thực tiễn hoạt động kinh tế hàng 
ngày đã được phản ánh tuỳ theo loại sổ sách theo hai cách. Một là ghi theo thứ tự thời gian và 
hai là ghi theo hệ thống hoặc đồng thời áp dụng cả hai hình thức ghi chép này. 
Theo Skinner, Milburn, Chlala, Fortin (2003) thì cho đến gần đây, sự phát triển của ghi 
chép sổ sách phụ thuộc vào khả năng cung ứng của những chất liệu sổ sách sao cho ít tốn 
kém. Giấy, chất liệu từng được sáng tạo ra ở Trung Quốc vào khoảng 2000 năm trước công 
nguyên chưa từng xuất hiện ở Châu Âu trước thế kỷ 12 hoặc thế kỷ 13 sau công nguyên. Các 
loại chất liệu sổ sách khác nhau đã được sử dụng trước khi xuất hiện giấy. Vào thời kỳ của 
nền văn minh Babylone, người ta đã từng sử dụng những thỏi đá để ghi nhận thông tin. Ở Ai 
Cập, 3000 năm trước công nguyên, đã sử dụng một chất liệu ít cồng kềnh hơn : giấy papirus. 
Điều này dẫn đến việc kế toán bằng các “tờ rời tổng hợp”. Sau cuộc chinh phục của 
Alexandre Le Grand vào thế kỷ IV trước công nguyên người ta đã ghi nhận những số đếm 
nhỏ với mảnh gốm. Kể từ thời kỳ này tiếp theo khoảng 1000 năm, giấy cói trở thành chất liệu 
chủ yếu để ghi chép những tài liệu quan trọng trong xã hội Hy Lạp và La Mã . Một số tài 
khoản của nhà thờ hoặc của chính phủ được ghi chép trên đá hoặc những vật liệu lâu bền 
khác. Các mảnh gỗ có phủ sáp được dùng phổ biến cho các tính toán ghi chép hàng ngày. Sử 
dụng các mảnh gỗ rất thực tế vì có thể xoá đi và viết lại trên đó. Giấy da cũng được dùng phổ 
biến vào thời kỳ Đế Chế La Mã. Trước khi giấy xuất hiện, chưa hề có một vật liệu nào đủ tính 
thiết dụng. Vì vậy trong thế giới cổ đại và trung đại, kế toán và tài liệu kế toán ít được phổ 
biến.
Điều kiện tiên quyết thứ tư là sự xuất hiện của tiền. Quan điểm về tiền với ý nghĩa là 
phát hành tiền kim loại quý có đóng dấu chứng thực của chính phủ về trọng lượng và nguyên 
chất xuất phát từ Trung Quốc vào khoảng hai ngàn năm trước công nguyên. Tiền được sử 
dụng rộng rãi ở Địa Trung Hải vào khoảng thế kỷ VII trước công nguyên. Việc tồn tại một 
phương tiện trao đổi chuẩn hoá là điều không thể thiếu đối với hình thức kế toán tiên tiến, vì 
các tài liệu kế toán không thể thực hiện được việc ghi nhận các hợp đồng cá biệt và kiểm kê 
tài sản nếu thiếu phương tiện này. Việc xuất hiện của tiền như một đơn vị đo lường cho phép 
thể hiện các loại tài sản khác nhau và để tính toán được tổng số tư bản, tổng số lợi nhuận và 
tổng số của những giao dịch khác. Tuy nhiên sự sáng tạo ra tiền chỉ cải thiện được việc ghi 
chép kế toán ở phạm vi rộng lớn nhiều trăm năm sau đó. Sự tồn tại của nhiều nhà nước, nhiều 
công quốc với đồng tiền riêng của họ tạo nên vấn đề khó khăn trong việc ghi nhận các giao 
dịch bằng đồng tiền này hay đồng tiền khác. Hơn nữa, phương pháp đánh giá khi chấp nhận 
tiền như là đơn vị đo lường chung phụ thuộc vào giá trị trao đổi được chấp nhận với quy mô 
lớn trên thị trường. Khó có thể ghi chép bằng tiền khi mà phần lớn các giao dịch là trao đổi 
hàng lấy hàng. Vì vậy, phải chờ đến thời kỳ Trung Đại khi mà các hoạt động thương mại mở 
rộng, kế toán lúc này mới tận dụng được những ưu việt của tiền.
Thời gian đầu, những sổ sách được xác nhận là cần thiết để ghi lại những giao dịch đang 
diễn ra. Mô tả thuật lại các giao dịch theo trình tự thời gian là một hình thức thông dụng của 
4
sổ sách. Nhưng khi chúng ta được cấp một mó ... ..........................
ĐT: ....................................................
BÁO CÁO LƯU CHUYỂN TIỀN TỆ
cho kỳ kế toán kết thúc vào 31 tháng 1 năm 20A
ĐVT : triệu đồng
KHOẢN MỤC SỐ TIỀN
Hoạt động kinh doanh 
Lợi nhuận sau thuế 1.260
Khấu hao TSCĐ 93
Tăng khoản phải thu (200)
Tăng hàng tồn kho (887)
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh (260)
Hoạt động đầu tư
Mua TSCĐ (750)
Đầu tư chứng khoán ngắn hạn (94)
Thu nhượng bán TSCĐ 360
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư (233)
Hoạt động tài chính 
Vay dài hạn ngân hàng 498
Nợ dài hạn 200
Trả vay dài hạn (32)
34
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính 666
Lưu chuyển tiền thuần trong kỳ 167
Tiền tồn đầu tháng 480
Tiền tồn cuối tháng 647
1.7. Yêu cầu đối với kế toán 
Theo điều 6 trong Luật kế toán, các yêu cầu đối với kế toán bao gồm:
Thứ nhất, kế toán phải phản ánh đầy đủ nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh vào 
chứng từ kế toán, sổ kế toán và báo cáo tài chính.
Thứ hai, kế toán phải phản phản kịp thời, đúng thời gian qui định thông tin, số liệu kế 
toán.
Thứ ba, kế toán phải phản ánh rõ ràng, dễ hiểu và chính xác thông tin, số liệu kế toán.
Thứ tư, kế toán phải hản ánh trung thực hiện trạng, bản chất sự việc, nội dung và giá 
trị của nghiệp vụ kinh tế, tài chính.
Thứ năm, thông tin kế toán, số liệu kế toán phải được phản ánh liên tục từ khi phát 
sinh đến khi kết thúc hoạt động kinh tế, tài chính, từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động 
của đơn vị kế toán; số liệu kế toán phản ánh kỳ này phải kế tiếp theo số liệu kế toán của kỳ 
trước.
Thứ sau, kế toán phải sắp xếp thông tin, số liệu kế toán theo trình tự, có hệ thống và có 
thể so sánh được.
1.8. Nghề kế toán và đạo đức nghề nghiệp
Như những trình bày trên đây, kế toán là một khoa học với đối tượng nghiên cứu nhất 
định. Trên thực tiễn nó còn là một nghề nghiệp chuyên môn. Trong chương IV của Luật kế 
toán qui định những vấn đề liên quan đến hoạt động nghề nghiệp kế toán ở Việt Nam, theo đó 
những cá nhân, tập thể có đủ điều kiện về chuyên môn và đạo đức theo qui định có quyền 
hành nghề kế toán. Hành nghề ở đây là nói đến việc cung cấp các dịch vụ về kế toán, kiểm 
toán, tư vấn thuế v.v. 
Một người muốn hành nghề kế toán phải có chứng chỉ hành nghề theo qui định của 
pháp luật từng quốc gia và phải có đủ tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp. Ở đây chúng ta nói 
đến đạo đức của một người hành nghề kế toán, chứ không phải đạo đức xã hội theo nghĩa 
rộng của từ này.
Đạo đức nghề nghiệp kế toán được thể hiện qua việc áp dụng các nguyên tắc về hạnh 
kiểm, xác định những hành động đúng, sai trong các hoạt động hành nghề. Người hành nghề 
kế toán phải có những phẩm chất nhất định. Trước hết họ phải có đầy đủ năng lực chuyên 
môn. và luôn có ý thức học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để có đủ khả năng 
hoàn thành công việc. Phẩm chất thức hai là trách nhiệm đối với những ai trông cậy vào việc 
làm của kế toán. Người kế toán phải hành động ngay thẳng ngay cả khi phải hy sinh quyền lợi 
cá nhân thì vẫn phải đặt tinh thần phục vụ và sự tín nhiệm lên trên. Họ phải là những người 
hành động độc lập, thận trọng, cẩn thận và phải tuân thủ đảm bảo bí mật thông tin. Trong xã 
hội ngày nay kế toán được coi là một nghề nghiệp chuyên môn với những đạo đức cao quí mà 
mỗi thành viên tham gia trong nghề này đều phải ý thức rõ và tự hào về điều này, đồng thời 
có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ nó.
35
1.9. Tóm tắt nội dung của chương 1
Chương 1 đề cập sơ lược sự hình thành và phát triển của kế toán, bản chất của kế toán 
như một hệ thống thông tin và một công cụ giúp cho những người làm quyết định kinh tế, môi 
trường kế toán, phân biệt giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị. Ba giả thuyết nền tảng về 
kế toán, bảy nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận. Các chuẩn mực và hệ thống bốn 
phương pháp kế toán được đề cập một cách khái quát, đối tượng nghiên cứu của kế toán và 
những đặc trưng của nó, quy trình kế toán gồm 4 bước, hệ thống 3 báo cáo tài chính bao gồm 
Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được trình 
bày khái quát và một số vấn đề về đạo đức nghề nghiệp kế toán cũng được nêu lên. 
1.10. Câu hỏi ôn tập chương 1
1. Trình bày sơ lược về sự phát triển của kế toán và những điều kiện tiên quyết cho sự ra 
đời của kế toán.
2. Môi trường kinh tế và pháp lý có ảnh hưởng như thế nào đến kế toán?
3. Kế toán là gì ?
4. Nêu ba công việc cơ bản của người làm kế toán và ba câu hỏi mà thực tiễn kế toán 
thường đặt ra.
5. Trình bày vai trò của thông tin kế toán trong tiến trình ra quyết định.
6. Đối tượng nào có nhu cầu sử dụng thông tin kế toán ?
7. Yêu cầu nào đối với thông tin kế toán ?
8. Phân biệt kế toán tài chính và kế toán quản trị.
9. Trình bày 3 giả thuyết tiền đề của kế toán.
10. Chuẩn mực kế toán là gì ? Tổ chức nào ban hành các chuẩn mực kế toán quốc tế ?
11. Tổ chức nào ở Việt Nam ban hành các chuẩn mực kế toán ? Tính đến năm 2006 đã có 
bao nhiêu chuẩn mực kế toán Việt Nam đã được ban hành ?
12. Nguyên tắc kế toán là gì? Trình bày bảy nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận.
13. Đối tượng của kế toán là gì ? 4 đặc điểm của đối tượng kế toán ?
14. Tiêu chí nào để ghi nhận tài sản trong đơn vị kế toán ? Phân biệt TSNH và TSDH ?
15. Phân biệt Vốn chủ sở hữu và Nợ phải trả ?
16. Trình bày quy trình kế toán ?
17. Phương pháp kế toán là gì? Trình bày hệ thống 4 phương pháp kế toán và mối quan hệ 
giữa chúng.
18. Người ta nói : »Kế toán là một nghề nghiệp chuyên môn với những tiêu chuẩn về đạo 
đức cao quý ». Bạn hiểu về điều này như thế nào ?
19. Theo quan điểm của kế toán, thế nào là nghiệp vụ kinh tế-tài chính? Cho ví dụ.
20. Trình bày phương trình kế toán cơ bản. Ý nghĩa của nó là gì ? 
1.11. Bài tập chương 1
Bài tập 1.1 : Kiểm tra tổng hợp các khái niệm 
Hãy cho biết những lời khẳng định dưới đây đúng hay sai (đánh dấu X vào ô lựa chọn 
của bạn). 
Đúng Sai
1 Kế toán kép xuất hiện từ thế kỷ 13 tại Ý
2 Có 4 điều kiện tiên quyết cho sự xuất hiện của kế toán là (1) con 
người phải biết đọc, biết viết; (2) trong xã hội phải có hệ thống số 
36
viết hiệu quả; (3) có chất liệu để làm sổ sách và (4) sự xuất hiện 
của tiền.
3 Kế toán chỉ bao gồm việc ghi chép sổ sách
4 Chủ sở hữu Cty TNHH chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của 
công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Công ty TNHH 
không được quyền phát hành cổ phiếu 
5 Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong 
phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty cổ phần có quyền phát 
hành chứng khoán ra công chúngtheo qui định của pháp luật.
6 Công ty hợp danh là một doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất 2 
thành viên.
7 Doanh nghiệp tư nhân là một doanh nghiệp do một cá nhân làm 
chủ và tự chịu trách nhiệm về toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt 
động của doanh nghiệp.
8 Ở Việt Nam, Luật Kế toán do Quốc hội phê chuẩn, Chuẩn mực kế 
toán và Chế độ kế toán do Bộ tài chính ban hành. 
9 Kế toán là hệ thống thông tin và kiểm tra dùng để đo lường, phản 
ánh, xử lý và truyền đạt thông tin về tài chính, kết quả kinh doanh 
và các luồng tiền tạo ra của một đơn vị kinh tế.
10 Kế toán tài chính chỉ cung cấp thông tin cho các nhà lãnh đạo 
doanh nghiệp 
11 Thông tin kế toán cần phải dễ hiểu và đáng tin cậy
12 Kế toán quản trị cung cấp thông tin các đối tượng bên trong và bên 
ngoài doanh nghiệp.
13 Kỳ kế toán chính là chu kỳ kinh doanh 
14 Nguyên tắc kế toán là 
15 Kế toán chỉ có sử dụng một loại thước đo duy nhất đó là thước đo 
tiền tệ
16 Thực thể kinh doanh, thước đo tiền tệ và kỳ kế toán là ba giả 
thuyết tiền đề của kế toán 
17 Theo nguyên tắc cơ sở dồn tích kế toán phải ghi sổ kế toán vào 
thời điểm thực tế thu hoặc chi tiền.
18 Vào thời điểm doanh nghiệp ngừng hoạt động, kế toán phải đánh 
giá và điều chỉnh trên sổ sách và báo cáo tài chính giá trị tài sản 
của doanh nghiệp theo giá thị trường.
19 Trong trạng thái hoạt động bình thường, giá trị tài sản của doanh 
nghiệp phải luôn được điều chỉnh phù hợp với giá trị thị trường.
20 Khi ghi nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một k hoản cp 
tương ứng có liên quan tạo ra doanh thu đó. 
21 Không được thay đổi các chính sách và phương pháp kế toán mà 
doanh nghiệp đã chọn trong suốt một kỳ kế toán.
22 Trong bối cảnh các điều kiện không chắc chắn, để lập các ước tính 
kế toán cần thận trọng ở mức cần thiết khi xem xét, cân nhắc, phán 
đoán các sự kiện.
23 Thông tin kế toán được coi là trọng yếu trong trường hợp nếu thiếu 
thông tin này hoặc thiếu chính xác của thông tin đó có thể làm sai 
lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh 
tế của người sử dụng báo cáo tài chính.
24 Chuẩn mực kế toán bao gồm những nguyên tắc và phương pháp kế 
37
toán cơ bản để ghi sổ và lập báo cáo tài chính.
25 Một sự kiện làm ảnh hưởng đến tài sản, nguồn vốn, chi phí hay 
doanh thu của một đơn vị được gọi là một nghiệp vụ kinh tế-tài 
chính.
26 Đối tượng kế toán là quá trình kinh doanh của doanh nghiệp dưới 
góc độ vốn kinh doanh và sự tuần hoàn chu chuyển của vốn kinh 
doanh.
27 Tính cân bằng, tính đa dạng, tính vận động và tính lợi ích là 4 đặc 
điểm của đối tượng kế toán.
28 Tài sản của một đơn vị là nguồn lực của đơn vị đó, có giá trị kinh 
tế đối với đơn vị và có giá phí xác định.
29 Tài sản ngắn hạn là những tài sản của đơn vị có thời gian sử dụng, 
thu hồi hoặc luân chuyển trong thời gian dưới 5 năm. 
30 Tài sản dài hạn là những tài sản của đơn vị có thời gian sử dụng, 
thu hồi hoặc luân chuyển trong thời gianđài (trên 12 tháng) và giá 
trị lớn (hiện nay theo qui định là từ 10 triệu đồng trở lên). 
31 Đất không phải là tài sản của đơn vị.
32 Nợ phải trả là nghĩa vụ tiền tệ mà đơn vị phải thanh toán trong một 
thời gian nhất định.
33 Vốn chủ sở hữu là khoản vốn góp của các chủ sở hữu đơn vị, nó 
không phải là một khoản nợ.
34 Phương trình kế toán cơ bản được trình bày như sau:
TÀI SẢN = NỢ PHẢI TRẢ + VỐN CHỦ SỞ HỮU
35 Phương trình kế toán chỉ cân bằng vào thời điểm cuối kỳ khi người 
ta lập bảng cân đối kế toán.
36 Qui trình kế toán gồm 4 bước công việc kế tiếp nhau theo một trật 
tự xác định trong thực tiễn công tác kế toán bắt đầu từ lập chứng từ 
đến ghi sổ kế toán, khoá sổ kế toán cuối kỳ và cuối cùng là lập báo 
cáo tài chính cuối kỳ.
37 Phương pháp kế toán là những cách thức và thủ tục cụ thể để thực 
hiện từng nội dung công việc kế toán. 
38 Chứng từ kế toán, đối ứng-tài khoản, tính giá và tổng hợp cân đối 
kế toán là tên gọi của 4 phương pháp kế toán. 
39 Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh và Báo cáo lưu 
chuyển tiền tệ là tên gọi 3 báo cáo tài chính cơ bản trong doanh 
nghiệp.
40 Kế toán là một nghề chuyên môn với những tiêu chuẩn đạo đức 
cao quý được xã hội công nhận và đánh giá rất cao 
Bài tập 1.2. Phân biệt tài sản ngắn hạn, tài sản dài hạn, Nợ phải trả và Vốn chủ sở 
hữu 
Tại một doanh nghiệp vào ngày 31/12/20A có những tài liệu sau: (ĐVT : triệu đồng)
1. Vay ngắn hạn Ngân hàng 45
2. Máy móc thiết bị 450
3. Nợ người bán 16
4. Tạm ứng 6
5. Phải trả công nhân viên 3
6. Ký quỹ ngắn hạn 3
7. Sản phẩm dở dang 84
38
8. Nguyên vật liệu 73
9. Người mua nợ 3
10. Tiền mặt 12
11. Nợ dài hạn 190
12. Nguồn vốn kinh doanh 1 120
13. Kho tàng 170
14. Thành phẩm X
15. Phương tiện vận tải 180
16. Nhà xưởng Y
17. Các khoản phải trả khác 3
18. Công cụ, dụng cụ 21
19. Lãi chưa phân phối 27
20. Hàng mua đang đi trên đường 22
21. Tiền gửi ngân hàng 30
Yêu cầu : 
1. Tìm X và Y, biết Y = 6X ?
2. Phân biệt tài sản và nguồn vốn.
Bài tập 1.3. Lập phương trình kế toán cơ bản 
Tình hình tài sản của một doanh nghiệp tính đến ngày 31/12/20A như sau : (ĐVT : 
triệu đồng)
1. Máy móc thiết bị 50
2. Hao mòn TSCĐ (10)
3. Nguyên vật liệu 5
4. Công cụ, dụng cụ 1
5. Chi phí SXKD dở dang 2
6. Thành phẩm 5
7. Tiền mặt 3
8. Tiền gửi ngân hàng 15
9. Nợ người bán 6
10. Người mua nợ 4
11. Phải thu tạm ứng 6
12. Phải trả công nhân viên 8
13. Nợ Nhà nước 4
14. Tài sản thiếu chờ xử lý 1
15. Tài sản thừa chờ xử lý 2
16. Lãi chưa phân phối 8
17. Nguồn vốn kinh doanh X
18. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản 9
19. Quỹ khen thưởng phúc lợi 1
20. Vay ngắn hạn Ngân hàng 2
21. Trả trước cho người bán 5
22. Người mua trả tiền trước 7
23. Chi phí trả trước 5
24. Nhận ký quỹ dài hạn 3
25. Ký quỹ dài hạn 5
26. Hàng mua đang đi đường 3
39
Yêu cầu : 
1. Tìm X ?
2. Lập phương trình kế toán cơ bản.
Bài tập 1.4. Quyết định với tư cách là chủ sở hữu 
Bạn là một trong ba thành viên góp vốn và đang khai thác Công ty mang tên Dịch vụ 
bảo hành quản lý MINH TÂM. Công ty đã hoạt động từ 7 năm nay. Từ đó đến nay, một thành 
viên trong công ty luôn là người lập các báo cáo tài chính cho công ty. Gần đây, bạn đề nghị 
các thành viên góp vốn khác ý tưởng làm « đẹp » hơn các báo cáo tài chính của công ty, vì 
theo bạn điều đó có lợi cho công ty và phù hợp hơn trong việc phân chia lợi nhuận giữa các 
thành viên. Ngưới mà trước đây phụ trách việc lập báo cáo tài chính của công ty đề nghị rằng 
anh ta có một người chú có rất nhiều kinh nghiệm về tài chính có thể thực hiện được nhiệm vụ 
này với chi phí khá thấp. Các thành viên khác im lặng. 
Yêu cầu
1. Bạn sẽ thông qua đề nghị nào ? Hãy giải thích câu trả lời của bạn. 
2. Bạn có khuyến cáo gì về tình huống này ? Hãy giải thích câu trả lời của bạn.
Bài tập 1.5. Quyết định với tư cách là chủ sở hữu
Minh Thư là chủ sở hữu một công ty tư nhân Công ty Boutique Lise và đồng thời là giám 
đốc điều hành hoạt động của công ty. Một trong số các nhân viên của công ty đảm nhận việc 
soạn thảo các báo cáo tài chính vào cuối mỗi kỳ kế toán. Trong báo cáo bao gồm tất cả tài sản 
mà Minh Thư sở hữu, chủ yếu là những tài sản các nhân như nhà mà cô ấy đang sống. Trong 
báo cáo cũng tính luôn cả danh sách các món nợ của doanh nghiệp, nhưng không bao gồm các 
món nợ cá nhân của Minh Thư.
Yêu cầu
1. Trên quan điểm của một người làm kế toán, điểm nào bạn đồng ý và điểm nào bạn không 
đồng ý trong báo cáo tài chính của công ty ?
2. Khi bạn đặt ra những thắc mắc về báo cáo tài chính của công ty, Minh Thư trả lời rằng : 
« Bạn không cần phải lo lắng vì báo cáo này được lập chỉ để đi vay ngân hàng mà thôi ». Bạn 
nghĩ gì về câu trả lời này của Minh Thư.
Tài liệu đọc thêm cho sinh viên 
1. Chương 1 và 2 trong « Nguyễn Thị Đông. 2003. Giáo trình Lý thuyết hạch toán kế toán. 
NXB Tài chính, Hà Nội. » 
3. Luật Kế toán Việt nam (xem Phụ lục 1.1)
4. Chuẩn mực kế toán 01 (xem Phụ lục 1.2)
Tài liệu tham khảo chương 1
1. 
Neddles, Anderson, Caldwell. 2003. Nguyên tắc kế toán - Principles of Accounting. Người 
dịch: Mai Thanh Tòng, Văn Khương. NXB Thống kê, Hà Nội. 
2. Nguyễn Thị Đông. 2003. Giáo trình Lý thuyết hạch toán kế toán. NXB Tài chính, Hà Nội
3. Nguyễn Việt, Võ Vãn Nhị. 2006. Nguyên lý kế toán. NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí 
Minh. 
4. Luật kế toán. Số 03/2003/QH11 ngày 17 tháng 6 năm 2003.
40
5. Luật Doanh nghiệp. Số 60/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005. 
6. Libby, Libby, Short, Lafond, Lanthier. 2003. Fondements de la Comptabilité Financière - 
Une aprroche dynamique. Chenelière/McGraw-Hill, Montréal, Canada. 
7. Skinner, Milburn, Chlala, Fortin. 2003. Normes comptables - Analyses et concepts. 
Editions du Renouveau Pédagogique Inc., Québec, Canada.
41

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_ke_toan_chuong_1_tong_quan_ve_ke_toan.pdf