Giáo trình Chế tạo thành công thiết bị lọc khử nitơ trong nước

Nhà máy xử lý rác thải hiện đại nhất Đông Nam Á

Mới xử lý được 1/7 lượng rác thải của Hà Nội

Theo con số thống kê hiện nay của Công ty Môi trường Đô thị Hà Nội, thì lượng rác

thải sinh hoạt trong một ngày của toàn thành phố Hà Nội thu gom được là 1.500 tấn. Xử

lý hết số rác sinh hoạt hàng ngày này là một vấn đề đáng quan tâm của Thành phố. Giám

đốc Xí nghiệp Chế biến Phế thải Đô thị, cho biết: “Dự án nâng cấp Nhà máy xử lý rác thải

Cầu Diễn” bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 9/2002 với tổng số vốn đầu tư là 65 tỷ đồng.

Nhà máy có công suất xử lý là 210 tấn rác/ngày, nhưng hiện nay đang trong giai đoạn bảo

hành nên chỉ có thể cho chạy máy 1 ca với công suất 130 tấn rác thải/ngày. Với quy trình

sản xuất nhanh gọn như rác được đưa đến xí nghiệp, qua dây chuyền chọn lọc và xử lý

chọn rác hữu cơ, loại bỏ rác trơ, sau đó đưa vào bể ủ. Tại đây rác được ủ lên men và lên

băng chuyền đổ vào máy nghiền rác, máy hút chân không. Cuối cùng là khâu cân và đóng

bao, tất cả các thao tác này đều được thực hiện bằng máy. Dây chuyền này đã giúp xí

nghiệp giảm bớt được nhân công và các chi phí khác phát sinh trong công đoạn tiêu hủy

rác.

Ưu điểm của dây chuyền

-Bằng phương pháp công nghiệp ủ lên men không sinh ra nước và không gây mùi hôi,

do đó nhà máy có thể được đặt gần thành phố, tiết kiệm được một phần chi phí vận

chuyển hay mang đi chôn lấp, tiết kiệm được quỹ đất cho Thành phố, vì mỗi nhà máy chỉ

có 4 ha đất để xử lý rác trong 15 năm với khối lượng rác là 50.000 tấn. Một ưu điểm nữa

của dây chuyền là đảm bảo sự trong lành của môi trường xung quanh, không gây ảnhhưởng đến người dân sinh hoạt ở cạnh nhà máy. Tiếp đó là giảm bớt cường độ lao động,

vì đây là dây chuyền sản xuất tự động hoá hoàn toàn. Nếu như trước đây chưa có dây

chuyền này, khi sàng và phân loại rác có những lúc cao điểm ngoài lực lượng nhân công

sẵn có trong nhà máy, chúng tôi đã phải thuê 100 nhân công nữa, nhưng đến nay phân

xưởng đó chỉ có 2 công nhân đứng máy mà vẫn đảm bảo được dây chuyền sản xuất. Theo

tôi thì đây là một dây chuyền xử lý rác thải hiện đại nhất Đông Nam á.

Hiện nay việc chọn lựa rác đầu nguồn đang là một khó khăn và tốn rất nhiều thời

gian, chi phí phí, bởi vì làm ra sản phẩm phân vi sinh phải là loại rác có 50% chất hữu cơ,

những thành phần chất hữu cơ thường có và có cao nhất là ở rác chợ, mà khâu chọn lựa

rác đầu nguồn của mình còn nhiều hạn chế. Thực tế, Xí nghiệp đã giám sát một bể rác có

216 tấn rác, mới lựa được 105 tấn rác hữu cơ, lượng rác trơ còn lại chúng tôi lại phải vận

chuyển lên bãi rác Sóc Sơn để chôn lấp, chi phí để vận chuyển, chọn lựa rất tốn kém.

Chúng tôi đang hạn chế đến mức tối đa khâu này để hạ giá thành sản phẩm xuống.

pdf 42 trang kimcuc 4300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Chế tạo thành công thiết bị lọc khử nitơ trong nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Chế tạo thành công thiết bị lọc khử nitơ trong nước

Giáo trình Chế tạo thành công thiết bị lọc khử nitơ trong nước
Chế tạo thành công thiết bị 
lọc khử nitơ trong nước 
Chế tạo thành công thiết bị lọc khử nitơ trong nước 
 Viện Công nghệ Sinh học thuộcTrung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc 
gia, đã nghiên cứu, chế tạo thành công thiết bị lọc khử Nitơ liên kết trong nước, góp phần 
bảo vệ sức khỏe và làm giảm các bệnh ung thư do nước bị nhiễm ni-tơ gây ra. Thiết bị 
này gồm bốn khoang: khoang nitrat hóa, khoang phản nitrat hóa và hai khoang xả cặn. Vỏ 
và các khoang của thiết bị được chế tạo bằng thép inox. Bộ phận thu và xả cặn sử dụng 
trong thời gian từ một đến hai năm. Viện Công nghệ Sinh học có thể cung cấp những loại 
bình lọc như NIRFE 50, 100, 200 với lưu lượng nước được xử lý từ 15 lít/giờ đến70 
lít/giờ. Thiết bị này đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn của Việt Nam và hiện đang được áp 
dụng thành công tại nhiều địa phương. 
Hiện nay, tại nhiều địa phương trong cả nước, tình trạng nước ăn, uống bị nhiễm Nitơ 
liên kết rất cao. Theo điều tra mới đây của Bộ Xây dựng tại một số làng xã vùng nông 
thôn đồng bằng tập trung đông dân cư, các làng nghề, vùng ven đô, nước sinh hoạt bị 
nhiễm Nitơ liên kết rất cao, vượt quá chỉ tiêu cho phép từ hàng chục lần, điển hình là Phú 
Đô, xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm (Hà Nội), thậm chí có nơi vượt tiêu chuẩn cho phép đến 
hàng trăm lần. 
Nguồn: Tin tức, N.D, 5/1/2003 
Nhà máy xử lý rác thải hiện đại nhất Đông Nam Á 
Mới xử lý được 1/7 lượng rác thải của Hà Nội 
 Theo con số thống kê hiện nay của Công ty Môi trường Đô thị Hà Nội, thì lượng rác 
thải sinh hoạt trong một ngày của toàn thành phố Hà Nội thu gom được là 1.500 tấn. Xử 
lý hết số rác sinh hoạt hàng ngày này là một vấn đề đáng quan tâm của Thành phố. Giám 
đốc Xí nghiệp Chế biến Phế thải Đô thị, cho biết: “Dự án nâng cấp Nhà máy xử lý rác thải 
Cầu Diễn” bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 9/2002 với tổng số vốn đầu tư là 65 tỷ đồng. 
Nhà máy có công suất xử lý là 210 tấn rác/ngày, nhưng hiện nay đang trong giai đoạn bảo 
hành nên chỉ có thể cho chạy máy 1 ca với công suất 130 tấn rác thải/ngày. Với quy trình 
sản xuất nhanh gọn như rác được đưa đến xí nghiệp, qua dây chuyền chọn lọc và xử lý 
chọn rác hữu cơ, loại bỏ rác trơ, sau đó đưa vào bể ủ. Tại đây rác được ủ lên men và lên 
băng chuyền đổ vào máy nghiền rác, máy hút chân không. Cuối cùng là khâu cân và đóng 
bao, tất cả các thao tác này đều được thực hiện bằng máy. Dây chuyền này đã giúp xí 
nghiệp giảm bớt được nhân công và các chi phí khác phát sinh trong công đoạn tiêu hủy 
rác. 
Ưu điểm của dây chuyền 
-Bằng phương pháp công nghiệp ủ lên men không sinh ra nước và không gây mùi hôi, 
do đó nhà máy có thể được đặt gần thành phố, tiết kiệm được một phần chi phí vận 
chuyển hay mang đi chôn lấp, tiết kiệm được quỹ đất cho Thành phố, vì mỗi nhà máy chỉ 
có 4 ha đất để xử lý rác trong 15 năm với khối lượng rác là 50.000 tấn. Một ưu điểm nữa 
của dây chuyền là đảm bảo sự trong lành của môi trường xung quanh, không gây ảnh 
hưởng đến người dân sinh hoạt ở cạnh nhà máy. Tiếp đó là giảm bớt cường độ lao động, 
vì đây là dây chuyền sản xuất tự động hoá hoàn toàn. Nếu như trước đây chưa có dây 
chuyền này, khi sàng và phân loại rác có những lúc cao điểm ngoài lực lượng nhân công 
sẵn có trong nhà máy, chúng tôi đã phải thuê 100 nhân công nữa, nhưng đến nay phân 
xưởng đó chỉ có 2 công nhân đứng máy mà vẫn đảm bảo được dây chuyền sản xuất. Theo 
tôi thì đây là một dây chuyền xử lý rác thải hiện đại nhất Đông Nam á. 
Hiện nay việc chọn lựa rác đầu nguồn đang là một khó khăn và tốn rất nhiều thời 
gian, chi phí phí, bởi vì làm ra sản phẩm phân vi sinh phải là loại rác có 50% chất hữu cơ, 
những thành phần chất hữu cơ thường có và có cao nhất là ở rác chợ, mà khâu chọn lựa 
rác đầu nguồn của mình còn nhiều hạn chế. Thực tế, Xí nghiệp đã giám sát một bể rác có 
216 tấn rác, mới lựa được 105 tấn rác hữu cơ, lượng rác trơ còn lại chúng tôi lại phải vận 
chuyển lên bãi rác Sóc Sơn để chôn lấp, chi phí để vận chuyển, chọn lựa rất tốn kém. 
Chúng tôi đang hạn chế đến mức tối đa khâu này để hạ giá thành sản phẩm xuống. 
Nguồn: Lao động, 9/1/2003 
Lò sấy gỗ bằng năng lượng mặt trời 
Dùng gỗ tươi đóng đồ, sản phẩm sẽ bị nứt, cong, vênh do co ngót. Nhưng thời gian 
chờ cho gỗ khô phải tính bằng tháng. Vào mùa vụ, các nhà sản xuất phải sấy gỗ; bằng 
than, bằng điện hay gas đều rất tốn kém. Dưới đây là ý tưởng sấy gỗ bằng năng lượng mặt 
trời, thông qua hiệu ứng nhà kính, giúp giá thành sản phẩm giảm rất nhiều. 
Nguyên lý 
Dùng luồng khí lưu thông tự nhiên (hoặc cưỡng bức nếu cần thiết) đã hấp thụ sức 
nóng của ánh sáng mặt trời trên cơ sở hiệu ứng nhà kính để làm bốc hơi nước trong 
gỗ. 
Cấu tạo lò 
Buồng chứa gỗ: Tuỳ theo công suất mong muốn mà làm buồng to hay nhỏ, cao hay 
thấp. Có thể xây bằng gạch trát vữa ximăng hoặc dùng các container cũ cải tạo nên. Nếu 
được, nên sử dụng thêm các hình thức cách nhiệt cho buồng chứa gỗ. 
Mái lò được làm bằng kính để thu năng lượng mặt trời, dốc sang hai bên để thoát 
nước mưa và tạo ra hầm mái. Để tăng hiệu quả thu năng lượng, sàn hầm mái có thể trải 
các vật liệu màu đen. 
Gỗ được xếp dựng đứng trong buồng thành từng lớp. Các lớp gỗ được ngăn cách 
nhau bởi một hoặc hai nẹp gỗ dày 2cm. Các nẹp gỗ này còn có tác dụng ngăn khoảng 
không gian giữa hai lớp gỗ thành hai phần để bắt dòng không khí phải lưu thông qua toàn 
bộ khối gỗ. Để tránh dòng không khí đến miệng hút gió quá nhanh mà không đi qua hết 
khối gỗ, thì yêu cầu các thanh gỗ trong một lớp phải có cùng chiều dày và xếp sát liền 
nhau. Các nẹp gỗ được đỡ bằng các giá đỡ dọc theo thành lò. 
Sàn lò được làm bằng gỗ và có khoảng cách với nền để nước trong gỗ thoát ra có thể 
chảy xuống nền và thoát ra ngoài nhờ tạo độ dốc cho nền lò. 
Hệ thống dẫn khí gồm hộp phân phối khí nóng và hộp thu khí nguội được bố trí ở một 
bên và dọc theo thành lò. Hộp khí nóng thông với hầm mái và có thể phủ thêm bằng vật 
liệu cách nhiệt, có cửa liên hệ với hệ thống cấp nhiệt bằng than tổ ong khi cần thiết. Hộp 
khí nguội có các ống hút khí, lắp cầu hút và có cửa chờ để lắp quạt thông gió trong trường 
hợp không khí không lưu thông tự nhiên được. Hai hộp này liên hệ với buồng sấy bằng 
các lỗ trên tường lò. 
Vận hành 
Xếp gỗ trong lò: Một đầu các thanh gỗ được phủ kín bằng nilông. Mục đích là để không 
cho nước thoát ra ngoài theo mặt này để chống nứt gỗ. Đầu thanh gỗ có bịt nilông quay 
lên phía trên. 
Do năng lượng mặt trời không duy trì được liên tục trong suốt quá trình sấy hoặc sấy 
ban đêm, nên có thể dùng các biện pháp hỗ trợ như cấp nhiệt bằng bếp than tổ ong để làm 
tăng nhiệt cho lò, dùng quạt thông gió khi trời không có gió. 
Nguồn: Lao động, 19/1/2003 
Xử lý bã khoai mì bằng công nghệ trong nước 
Những năm 1995-1997, một số đơn vị sản xuất tinh bột như Vedan - Việt Nam (Đồng 
Nai), các nhà máy sản xuất tinh bột Tây Ninh, An Giang, Quảng Ngãi, Đăk Lăk, Ninh 
Thuận,v.v... đi vào hoạt động. Các nhà máy sau khi đã lấy được tinh bột từ củ khoai mì 
sắn thì bỏ lại phần bã mì. Phần bã này không không những gây ô nhiễm môi trường mà 
còn gây lãng phí rất lớn, vì trong phần bã mì bị thải vẫn có đến từ 5-7% tinh bột. 
Năm 1997, nhà máy Vedan - Việt Nam đặt hàng Công ty Tư vấn và Đầu tư Kỹ thuật 
Cơ điện TP Hồ Chí Minh, thiết kế và chế tạo một dây chuyền thiết bị xử lý bã mì. Sau gần 
cả năm thiết kế, thử nghiệm, cuối cùng đã có dây chuyền chuyển giao được cho Nhà máy 
Vedan một hệ thống xử lý, nhưng chưa thật sự trọn vẹn. Bởi lẽ phần sấy khô bã mì thì coi 
như tạm ổn. Song phần ép tách nước bã khoai mì để sấy khô vẫn chưa giải quyết được. 
Sau hơn 5 năm, kỹ sư Thành thuộc Công ty tư vấn và Đầu tư Kỹ thuật Cơ điện TP.Hồ Chí 
Minh đã tìm ra được giải pháp để khắc phục nhược điểm này qua tham khảo hàng loạt các 
kiểu máy của Pháp, Đức; những công nghệ như máy ép kiểu vít xoắn đường kính tăng 
dần, ép kiểu chày cối, ép kiểu băng trống,v.v..đã xử lý bã mì một cách triệt để. Theo đó, 
bã mì sẽ không còn phải tốn thêm công đoạn phơi nắng trước khi sấy nữa, mà bã mì thải 
ra khi vừa thu hồi tinh bột xong sẽ được tiếp nhận ngay. Sau khi được tách nước sơ bộ, bã 
mì được chuyển đến máy ép. Tiếp đó bã mì sẽ được chuyển tiếp sang máy sấy thùng 
quay. Độ ẩm của bã mì lúc này được rút xuống còn khoảng 20-30% nước. Rồi tiếp tục 
được chuyển tới máy sấy khí động, sau khi qua máy sấy khí động, bã mì chỉ còn khoảng 
dưới 10% nước. Với độ ẩm này thì bã mì đã đủ tiêu chuẩn để đóng bao tồn trữ, đủ tiêu 
chuẩn để bán cho các nhà máy làm thức ăn gia súc. 
Thiết bị xử lý trọn gói bã khoai mì này đã hoạt động tốt ở Công ty Chế biến & Xuất 
Nhập khẩu Nông sản An Giang. Thiết bị này có năng suất 2.500 - 2.800 kg bã khoai 
mì/giờ, và xử lý khá tốt ngay khi bã khoai mì còn sũng nước. Hiện nay, chỉ mới có thiết bị 
do Việt Nam chế tạo này là "trị" bã khoai mì có độ ẩm cao như vậy. Có thể khẳng định 
rằng thiết bị xử lý này có chất lượng không kém thiết bị nhập ngoại, mà giá thành chỉ 
khoảng 1/3 máy ngoại. 
Nguồn: Người lao động, 11/2/2003 
Nhiệt độ mặt đất giúp tính được mực nước ngầm 
Các nhà khoa học đã phát hiện ra một phương pháp mới để đo tốc độ chuyển động 
của nước từ mặt đất tới gương nước bằng cách phân tích nhiệt độ của mặt đất. 
Hội Khoa học thổ nhưỡng Hoa Kỳ đã công bố công trình nghiên cứu này trên tạp chí 
Vadose Zone, mô tả phương pháp luận về việc sử dụng nhiệt độ mặt đất để phân tích 
lượng nước được nạp vào tầng nước ngầm ở một vị trí cụ thể. Công trình nghiên cứu mô 
tả các kết quả khoa học thu được ở các địa điểm hiện trường thuộc New Mexico và 
Nevada, là những nơi mà các nhà nghiên cứu đã phát hiện được cách tính tốc độ nước 
chuyển động xuống gương nước ngầm bằng các phép đo nhiệt độ giữa bề mặt đất với 
gương nước tại các lỗ khoan thăm dò. 
Theo Jim Constantz thuộc Cơ quan Khảo sát địa chất Hoa Kỳ, "nếu biết được tốc độ 
chuyển động của lượng nước nạp sẽ giúp xác định được lượng nước cho phép khai thác, 
tránh khai thác quá nhiều lượng nước ngầm do mưa và các dòng chảy nạp". 
Các nhà khoa học còn nghiên cứu các dữ liệu về nhiệt độ dưới sâu núi Yucca và đồng 
bằng French, Nevada, cũng như nghiên cứu các dữ liệu nhiệt độ tầng nước nông hơn 
trong lưu vực Rio Grande, New Mexico. Khi so sánh các phép đo chuyển động của nước 
dựa vào nhiệt độ giữa các địa điểm ở các vùng núi, thung lũng và các vùng trung gian, 
các nhà nghiên cứu đã phát hiện được hàng loạt các giá trị tốc độ chuyển động của nước 
từ bề mặt tới gương nước ngầm. Các dòng chảy nằm sâu dưới vùng xa mạc, chuyển động 
đi xuống của nước có tốc độ tới vài fít/ngày, trong khi dưới sâu các lưu vực khô hạn, 
chuyển động của nước không quá hoặc dưới một phần inch/năm. 
Theo Constantz, trong tương lai, các phép đo thường xuyên nhiệt độ mặt đất sẽ giúp 
xác định được các tốc độ chuyển động tổng của nước xuống gương nước trên diện rộng, 
và như vậy cho phép bơm nước ngầm với lưu lượng không vượt quá tốc độ nạp lại nước 
ngầm. Từ đó có thể tạo ra tính bền vững trong việc sử dụng các nguồn nước ngầm cho các 
thế hệ tương lai ở vùng Tây Nam. 
Nguồn: American Society ofAgronomy, 2/2003 
Ứng dụng công nghệ viễn thám (SAR) và hệ thống thông tin địa lý (GIS) bảo vệ môi 
trường 
Những nhu cầu thực tế của Việt Nam 
Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, có một mùa khô và một mùa 
mưa riêng biệt. Mùa khô thường bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 5 và mùa mưa từ tháng 6 
đến tháng 11. Những năm gần đây, khí hậu thường có sự thay đổi, lũ lụt gia tăng và 
thường xuyên gây thiên tai. Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều 
vào thiên nhiên, thì môi trường cũng sẽ rất dễ bị hủy hoại bởi các hoạt động kinh tế. Vì 
vậy, việc ứng dụng công nghệ viễn thám và Hệ thống thông tin địa lý trong lồng ghép bảo 
vệ môi trường và phát triển kinh tế là một nhu cầu thực tế của nước ta, đặc biệt là trong 
sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, việc áp dụng công nghệ này vẫn còn gặp những khó 
khăn đáng kể. 
Theo kết quả ứng dụng ban đầu của các chuyên gia, trước hết chúng ta có thể sử dụng 
công nghệ này để theo dõi diện phân bố vùng lũ và xây dựng bản đồ lũ theo thời gian. 
Cho đến nay, việc khẩn cấp đưa ra một bản đồ vùng ngập lụt là cần thiết. Dạng bản đồ 
này là nguồn thông tin tốt để phân tích phục vụ việc quản lý lũ lụt nhằm đáp ứng yêu cầu 
của các nghiên cứu và ứng dụng khác nhau. Một trong những công cụ mạnh cho việc lập 
các bản đồ như vậy là hệ thống ảnh Radar. Dữ liệu ảnh Radar không bị ảnh hưởng bởi 
điều kiện thời tiết nên có khả năng thu ảnh bất cứ lúc nào mà chúng ta cần. Do đó, việc 
theo dõi theo thời gian lúc nào cũng được bảo đảm. Thời gian qua, tập đoàn quốc tế 
Radarsat, CIAS và Uỷ ban Giảm nhẹ Thiên tai thuộc Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông 
thôn đã kết hợp với nhau trong dự án về Geomatic nhằm tạo một hệ thống ứng dụng để 
thành lập bản đồ lũ, giảm nhẹ thiệt hại và dự báo lũ. Dữ liệu viễn thám chính được sử 
dụng là Radasat, ảnh hưởng của vệ tinh hoạt động với đầu chụp SAR. Một cơ sở dữ liệu 
và hệ thống thông tin đã đồng thời được xây dựng nhằm bảo đảm hoạt động cho cả hệ 
thống. Lần đầu tiên hệ thống theo dõi lũ được thiết kế cho đồng bằng sông Hồng, đồng 
bằng sông Cửu Long và miền Trung. 
Đây là những ưu điểm của việc ứng dụng SAR trong việc phục vụ đánh giá nhanh 
diễn biến của lũ lụt. Với sự trợ giúp của hệ thống thông tin địa lý, các kết quả này có thể 
được tích hợp với nhau, giúp chúng ta nhanh chóng đánh giá được tác động của lũ tới sản 
xuất và đời sống dân sinh. 
Mặc dù việc ứng dụng công nghệ này trong lồng ghép bảo vệ môi trường và phát triển 
kinh tế sẽ có hiệu quả rất cao, song đối với Việt Nam, việc áp dụng công nghệ cao vẫn 
phải đối mặt với nhiều thách thức. Một trong số thách thức này là giá cả dữ liệu, chi phí 
đào tạo công nghệ và những vấn đề có liên quan đến tổ chức sử dụng công nghệ cao như 
viễn thám SAR ở Việt Nam. Kinh nghiệm cho thấy, việc ứng dụng công nghệ SAR có thể 
chuyển giao và sử dụng có hiệu quả ở Việt Nam cho các dự án thử nghiệm, trong khi đó 
việc chuyển giao công nghệ cho các hệ thống ứng dụng đòi hỏi thời gian và nỗ lực lớn 
hơn. Như vậy, những thách thức mà chúng ta đang đối mặt không còn là vấn đề kỹ thuật. 
Việc chuyển giao ứng dụng SAR ở các nước đang phát triển phải đối phó với hàng loạt 
vấn đề về tổ chức, nhận thức của các nhà lãnh đạo về giá trị đích thực của công nghệ viễn 
thám. Còn ở Việt Nam vấn đề kinh tế, chính sách giá cả của các nhà sản xuất hiện đang là 
rào cản lớn cho việc sử dụng hiệu quả dữ liệu SAR trong việc theo dõi lũ. 
Nguồn: Hà Nội mới, 26/2/2003 
Đà Lạt ứng dụng GIS trong quản lý đô thị 
Theo kế hoạch, đến tháng 12/2004 thì toàn bộ hệ thống tích hợp thông tin địa lý 
phục vụ quản lý đô thị (GIS) của Đà Lạt sẽ được hoàn thành. GIS là hệ thống tích hợp 
thông tin địa lý nhằm phục vụ cho nhiều mục đích, trong đó đặc biệt là mục đích quản 
lý đô thị. Trên thế giới, GIS không còn xa lạ với nhiều quốc gia. Ở Việt Nam, công 
nghệ GIS cũng đã được khai thác ở một vài thành phố lớn như TPHCM, Biên Hoà 
(Đồng Nai),v.v... Song, với Lâm Đồng, đây là lần đầu tiên công nghệ GIS được triển 
khai tại thành phố Đà Lạt. Theo các nhà chuyên môn, việc ứng dụng GIS sẽ giảm được 
khoảng 40% chi phí xây dựng dữ liệu đơn lẻ cho từng cơ quan, đơn vị. Đặc biệt, GIS 
chính là "ngân hàng" đáng tin cậy chứa đựng ...  cũng không bị điện giật mặc dù hiệu điện thế 
rất cao. Đây là một đặc điểm hoàn toàn khác so với máy ôzôn công nghiệp hoặc gia 
dụng do Trung Quốc, Đài Loan hoặc Mỹ sản xuất. Công ty cũng tự sản xuất bộ biến 
tần và bộ cao áp. 
Máy khử độc rau quả thực phẩm có công suất 400 mg linozone/giờ với lưu lượng 
khí là 1,5 l/phút. Sản phẩm đã được Trung tâm Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng 
quốc gia kiểm định và công nhận về độ an toàn, đoạt Cúp vàng vệ sinh an toàn thực 
phẩm 2003 của Bộ Y tế. Hiện tại, trên thị trường cũng có một số sản phẩm cùng loại 
do Trung Quốc và Đài Loan sản xuất (Mỹ chỉ sản xuất máy ôzôn công nghiệp), song 
công suất ghi trên máy không chính xác và giá thành lại cao hơn. 
Ngoài các máy tạo ôzôn gia dụng, công ty còn sản xuất các máy công nghiệp bền 
và có giá thành rẻ hơn rất nhiều so với máy của các nước tư bản. Lợi dụng phản ứng 
oxy hoá của ôzôn với các loại khí độc chẳng hạn như CO, NO, H2S,v.v..., Công ty 
cũng vừa đưa ra thị trường loại máy ôzôn xách tay khử mùi phòng ngủ trong các căn 
hộ hoặc khách sạn với cơ chế hoạt động tương tự máy ôzôn khử độc rau quả và làm 
sạch nước. 
Nguồn: VietNamNet, 4/11/2003 
Nghiên cứu thành công bao bì bảo quản thủy sản bằng vỏ tôm 
Các nhà khoa học công nghệ thực phẩm (CNTP) trường đại học Nông lâm 
(ĐHNL) TP. Hồ Chí Minh vừa hoàn thành đề tài khoa học: "Nghiên cứu tạo màng vỏ 
bọc chitosan từ vỏ tôm và ứng dụng bảo quản thủy sản". Nghiên cứu mới này cho ra 
đời loại bao bì mới có tính năng "đặc biệt", không những bảo quản tốt thực phẩm ở 
dạng khô và tươi mà còn góp phần giải quyết ô nhiễm môi trường. 
Tạo vỏ màng chitosan từ vỏ tôm 
Lâu nay, Chitin là một polisaccarit (polysaccharide) xuất hiện nhiều trong thiên 
nhiên, chỉ sau xenluloza (cellulose). Chitin có mặt trong vỏ các loài giáp xác, màng tế 
bào nấm thuộc họ Zygemycetes có trong sinh khối nấm mốc và một vài loại tảo. Còn 
chitosan chính là sản phẩm biến tính của chitin, là một chất rắn, xốp, nhẹ, hình vảy, có 
thể xay nhỏ theo các kích cỡ khác nhau, có mầu trắng hay vàng nhạt, không mùi vị, 
không tan trong nước, trong dung dịch kiềm và a-xít đậm đặc nhưng tan trong a-xít 
loãng (pH6), tạo dung dịch keo trong, có khả năng tạo màng tốt, nhiệt độ nóng chảy 
309-311oC, trọng lượng phân tử trung bình: 10.000-500.000 dalton tùy loại. Chính nhờ 
vào những đặc tính sinh học này mà chitosan được ứng dụng nhiều trong các lĩnh vực 
y học, xử lý nước, công nghiệp nhuộm, giấy, mỹ phẩm, thực phẩm,v.v... Chitosan có 
trong vỏ tôm. Ở nước ta, sản phẩm tôm đông lạnh chiếm sản lượng lớn nhất trong các 
sản phẩm đông lạnh. Vì vậy, vỏ tôm phế liệu là nguồn nguyên liệu tự nhiên rất dồi 
dào, rẻ tiền, có sẵn quanh năm, nên rất thuận tiện cho việc cung cấp chitin và chitosan. 
Các nhà khoa học thuộc khoa Công Nghệ Thực Phẩm, ĐHNL TP. Hồ Chí Minh, 
đã nghiên cứu tạo ra một lớp màng vỏ bọc chitosan được xem như là một loại bao bì 
có tính năng bảo vệ và có thể sử dụng như thực phẩm mà không hề ảnh hưởng đến môi 
trường. Đặc biệt, sản phẩm này có thể sử dụng để bọc các loại thực phẩm tươi sống 
giàu đạm, dễ hư hỏng như cá, thịt,v.v... Quy trình tạo chitosan từ vỏ tôm, dựa trên 
nguyên tắc loại bỏ muối canxi, protein và các tạp chất khác. Quy trình tóm lược như 
sau: Vỏ tôm xử lý → vỏ tôm sạch → loại bỏ khoáng và tách protein → chitin → 
deacetyl hóa → chitosan. Từ nguồn chitosan thu được này, các tác giả tiếp tục nghiên 
cứu để tạo ra lớp vỏ màng bọc chitosan bằng cách sử dụng các chất phụ gia khác nhau 
(nhưng có cùng bản chất hóa học), thường là các chất hóa dẻo được sử dụng nhằm làm 
tăng tính dẻo dai và đàn hồi của màng. Thí dụ như phụ gia: ethylen glycol (EG), 
polyethylen glycol (PEG), glycerin,v.v... 
Cách tạo màng vỏ bọc như sau: Chitosan thu được từ vỏ tôm đem nghiền nhỏ bằng 
máy để nhằm mục đích gia tăng bề mặt tiếp xúc. Pha dung dịch Chitosin 3% trong 
dung dịch axit acetic 1,5%. Sau đó bổ sung chất phụ gia PEG - EG 10% (tỷ lệ 1 : 1) và 
trộn đều để yên một lúc để loại bọt khí. Sau đó đem dung dịch đã pha quét đều lên một 
ống inox đã được nâng nhiệt 64- 65oC (ống inox được nâng nhiệt bằng hơi nước nóng 
đun sôi). Để khô vỏ trong vòng 35 phút rồi tách vỏ. Lúc này ta được vỏ bóng có mầu 
vàng, ngà, không mùi vị, đó là lớp màng vỏ bọc chitosan có những tính năng mới ưu 
việt. 
Ứng dụng quan trọng của chitosan trong gói xúc xích và thủy sản 
Từ trước đến nay, việc bảo quản các loại thực phẩm tươi sống giàu đạm, dễ hư 
hỏng như thịt, cá,v.v... trong điều kiện khí hậu nóng ẩm của nước ta là một trong 
những vấn đề đã và đang được các nhà sản xuất, chế biến và các nhà khoa học quan 
tâm, cho nên sau khi vỏ bọc chitosan từ vỏ tôm được chế tạo, các nhà nghiên cứu đã 
nghĩ ngay đến việc dùng màng bọc chitosan từ vỏ tôm này để làm vỏ bọc xúc xích. Do 
vậy, những vỏ bọc đầu tiên ra đời được chế tạo để gói xúc xích, những sản phẩm đầu 
tiên có chiều dài 460 mm, đường kính 25 mm. Các vỏ bọc này khi cho hỗn hợp 
nguyên liệu xúc xích vào thì dùng máy nhồi quay tay. Khi nhồi hỗn hợp nguyên liệu 
vào vỏ bọc xong thì buộc lại ở hai đầu. Do trong thành phần có những chất phụ gia 
nên lớp chitosan này đã kết dính các mao mạch của vỏ tôm lại với nhau, với áp lực của 
máy nhồi tay, vỏ bọc không bị nứt, mà tiếp tục bám sát vào nguyên liệu bên trong tạo 
thành những hình xúc xích xinh xắn. 
Ngoài việc giúp cho sản phẩm xúc xích có hình dáng đẹp, lớp vỏ màng chitosan 
này còn có tác dụng đặc biệt là không làm mất mầu và mùi đặc trưng của hỗn hợp 
nguyên liệu xúc xích. Từ thành công này, các nhà khoa học tiếp tục nghĩ tới việc sử 
dụng vỏ bọc chitosan để bảo quản thủy sản tươi và khô. Đối với cá tươi, các tác giả đã 
tiến hành xử lý lấy ruột, mang (để nguyên con hoặc filê,v.v...) rồi rửa sạch. Sau đó, 
nhúng cá đã xử lý vào dung dịch chitosan được pha sẵn ở các nồng độ 0,5%, 1%, 
1,5%, 2%, 2,5% tùy theo độ lớn của từng loại cá. Sau đó để cá ráo trong tủ mát khoảng 
10 phút để giúp màng chitosan được định hình rồi cho vào tủ cấp đông,v.v... Sau 18 
tiếng đồng hồ có thể tiến hành rã đông. Cá là nguyên liệu có cơ lỏng lẻo, nhiều nước. 
Trong quá trình cấp đông chậm (nhiệt độ -25oC) sẽ xảy ra hiện tượng mất nước, làm 
cho trọng lượng của cá giảm. Mặt khác, do môi trường trong tủ cấp đông là không khí 
lạnh và khô nên nước khuếch tán từ cơ thịt cá ra bề mặt của cá và từ bề mặt của cá ra 
môi trường bên ngoài rất lớn. Tuy nhiên khi sử dụng màng bao chitosan từ vỏ tôm thì 
khắc phục được hiện tượng này, do đó việc sử dụng màng bao chitosan bao phủ bề mặt 
của cá là rất hiệu quả. Đặc biệt, khi cho cá vào nước và nấu chín, dung dịch chitosan 
không làm thay đổi mùi vị của sản phẩm. Còn đối với thủy sản khô như cá khô và cá 
mực khô,v.v... thì tiến hành pha dung dịch chitosan 2% trong dung dịch axit acetic 
1,5%. Sau đó nhúng cá và mực vào dung dịch được pha, làm khô bằng cách sấy ở 
nhiệt độ 30oC có quạt gió. Sản phẩm thu được có thể bảo quản tốt ở nhiệt độ bình 
thường,v.v... Tùy theo độ ẩm của cá và mực mà sản phẩm có thời gian bảo quản khác 
nhau, độ ẩm càng thấp thời gian bảo quản càng dài. Với độ ẩm từ 26-30%, cá khô bảo 
quản được 83 ngày, mực khô giữ được 85 ngày, còn ở độ ẩm từ 41-45% thì cá khô giữ 
được 17 ngày, mực khô được 19 ngày,v.v... 
Nghiên cứu của các nhà khoa học ở Khoa CNTP của Trường ĐHNL TP. Hồ Chí 
Minh đã mở ra một hướng đi mới trong việc tận dụng các loại phế phẩm rẻ tiền để bảo 
quản các loại thủy sản ở nước ta. Thành công này còn góp phần rất lớn vào việc khắc 
phục tình trạng ô nhiễm môi trường do các chất thải từ vỏ tôm gây ra. 
Nguồn: Khoa học và Đời sống, 12/11/2003 
Việt Nam chế tạo được màng polymer tự phân huỷ 
 Nhựa nhiệt dẻo phải mất từ 10 tới 30 năm, thậm chí là một thế kỷ, mới có thể 
phân huỷ. Nếu đốt, chúng sẽ gây ô nhiễm không khí. Trong khi đó, chôn lấp sẽ rất tốn 
đất và ảnh hưởng tới nguồn nước ngầm. Hoạt động tái chế cần đầu tư thiết bị máy móc 
đắt tiền, hiệu quả kinh tế thấp. Chỉ riêng năm 1996, thế giới sử dụng 150 triệu tấn nhựa 
nhiệt dẻo. 
Thế giới đã bắt đầu nghiên cứu polymer tự phân huỷ kể từ những năm 1980 để sử 
dụng trong nông, lâm nghiệp, chế biến thực phẩm (bao túi đựng thực phẩm) và y tế 
(màng mỏng phủ vết bỏng và polymer để gắn xương). Năm 1980 trên thế giới mới chỉ 
có 7-12 sáng chế trong ngành này. Tuy nhiên, con số đó đã tăng lên 1.500 trong 10 
tháng đầu năm 2003. Hiện Mỹ đã thay thế 30% nhựa nhiệt dẻo bằng polymer tự phân 
huỷ. 
Vật liệu chính dùng trong sản xuất màng polymer tự phân huỷ là nhựa LDPE (low 
density polyetylen - polyetylen tỷ trọng thấp) và tinh bột sắn. Ban đầu, nhóm nghiên 
cứu cho LDPE, tinh bột sắn và một số chất phụ gia đi qua máy trộn vật liệu cực đều ở 
nhiệt độ thích hợp. Tiếp đến, vật liệu được đùn ép trên máy đùn trục vít có 3 vùng điều 
khiển nhiệt độ khác nhau. Sau khi được bổ sung chất trợ tương hợp và chất phân tán, 
nhựa hạt đi qua máy chém hạt để tạo hạt compound. Chất trợ tương hợp đóng vai trò 
quyết định về khả năng phối trộn và sự đồng đều của vật liệu. Cuối cùng, hạt 
compound đi qua máy ép phun để tạo vật liệu định hình hoặc qua thiết bị thổi màng để 
thổi thành màng mỏng. Có thể tạo ra các màng có độ dày khác nhau theo yêu cầu của 
người sử dụng. 
 Ở nước ta, sau 4 năm nghiên cứu, Tiến sĩ Phạm Thế Trinh cùng đồng nghiệp 
thuộc Viện Hoá học công nghiệp đã phát triển thành công công nghệ sản xuất màng 
polymer tự phân huỷ dùng để phủ cây trồng và các bầu ươm cây. Có thể nói đây là sản 
phẩm đầu tiên của ngành sản xuất vật liệu polymer của Việt Nam. Ưu điểm chính của 
nó là không gây ô nhiễm môi trường giống như màng và túi đựng bằng nhựa nhiệt dẻo 
(PE, PP, PVC) hiện nay. 
Nhóm nghiên cứu đã phủ vật liệu mới này trên các luống lạc tại Nông trường 
Thanh Hà, Hoà Bình. Kết quả cho thấy, nó có tác dụng giữ ẩm, dinh dưỡng cho đất, 
chống xói mòn và diệt cỏ dại. Sau 4 tháng, toàn bộ màng polymer phân huỷ 100%. 
Hiện họ đang mở rộng ứng dụng cho mọi nông trường lạc, bông, ngô và thuốc lá trên 
toàn quốc. Tiến sĩ Phạm Thế Trinh, Phó Viện trưởng Viện Hoá học công nghiệp, cho 
biết: ''Nhu cầu sử dụng màng polymer tự phân huỷ trong nông, lâm nghiệp và thực 
phẩm là rất lớn. Chúng tôi mong nhận được sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan để sản 
xuất hàng loạt, tiến tới chế tạo bao gói thay thế bao bì nhựa nhiệt dẻo hiện nay''. 
 Nguồn: VietnamNet 11/2003 
Thước đo chuẩn để xác định mức độ ô nhiễm đất 
 Các giảng viên Bộ môn Nông hóa Thổ nhưỡng trường ĐH Nông nghiệp 1 Hà Nội 
đã xây dựng được một thước đo chuẩn để xác định mức độ tồn dư của một số kim loại 
nặng trong đất nông nghiệp, từ đó cảnh báo mức độ ô nhiễm đất. 
Qua khảo sát trên diện hẹp tại một số khu vực như Thanh Trì, Gia Lâm, Văn Lâm, 
Hưng Yên... cho thấy mức độ tồn dư kim loại nặng (đồng, kẽm, chì, niken...) trong đất. 
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, nếu mức độ kim loại nặng vượt quá ngưỡng 
cho phép, đất sẽ bị ô nhiễm, ngấm vào nước ngầm, làm nước bề mặt bị ảnh hưởng, 
ngấm vào cây trồng, con người hấp thu phải gây bất lợi cho sức khỏe, đặc biệt, đây 
cũng là một trong những tác nhân góp phần gây bệnh ung thư. 
Tuy nhiên, nghiên cứu về ô nhiêm đất tại Việt Nam mới đang trong giai đoạn bắt 
đầu, thậm chí còn chưa có một thước đo chuẩn để phân biệt mức độ ô nhiễm hay 
không tại các vùng đất canh tác, sản xuất. Trong quá trình nghiên cứu, lúc đầu, thầy và 
trò bộ môn Nông hóa Thổ nhưỡng ĐH Nông nghiệp 1 Hà Nội phải lấy chỉ số chuẩn 
của nước ngoài để áp dụng vào Việt Nam, dần dần, qua các thí nghiệm, khảo sát, các 
nhà khoa học đã xây dựng được thước đo chuẩn, tạm gọi là ISO của một số kim loại 
nặng có trong đất nông nghiệp, từ đó có một định mức để xác định mức độ tồn dư có 
nằm trong ngưỡng cho phép hay không của kim loại. Hiện đã có tiêu chuẩn Việt Nam 
về hàm lượng kim loại nặng trong đất nông nghiệp, như đồng, kẽm... 
Theo tiến sĩ Nguyễn Hữu Thành, người trực tiếp nghiên cứu ô nhiễm đất nông 
nghiệp, để đối phó với hiện trạng này, hiện trên thế giới cũng chưa có biện pháp hữu 
hiệu. Tốt nhất là tìm ra được nguồn gây ô nhiễm (hiện chủ yếu là các nhà máy thải 
chất thải công nghiệp), tiến tới hạn chế kiểm soát chặt chẽ các loại phế thải đưa ra môi 
trường. Có thể báo động tình trạng ô nhiễm về hàm lượng kim loại nặng trong cặn bùn 
của một số nhà máy và sông thoát nước ở khu vực Hà Nội: Hàm lượng kẽm tại giao 
điểm sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu: 13773.40ppm; Nhà máy pin Văn Điển: 
1350,75 ppm - Trong khi tiêu chuẩn Canada chỉ cho phép là 200 ppm. Ngoài ra, đa số 
các chỉ số về đồng, chì, cadini đều vượt quá mức cho phép. 
Nguồn: Giáo dục - Thời đại 9-2003 
Hoa ngũ sắc xử lý ô nhiễm chì trong đất 
Cuối tháng 12/2000, Sở Khoa học và Công nghệ TP.Hồ Chí Minh đã ký hợp 
đồng với nhóm nghiên cứu của TS. Diệp Thị Mỹ Hạnh,Trường đại học Khoa học 
tự nhiên - Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh nhằm thực hiện một công việc cụ 
thể: khảo sát một số loài thực vật có khả năng hấp thu và tích lũy chì (Pb) và 
cadmium (Cd) từ môi trường đất. Sau một thời gian nghiên cứu, nhóm tìm thấy 2 
trong số 15 loài thực vật được chọn nghiên cứu có khả năng hấp thu chì và 
cadmium rất cao: đó là cây thơm ổi và dây leo (Herterostrema villosum). Những 
kết quả phân tích mẫu còn cho thấy dây leo có khả năng hấp thu chì và cadmium 
cao hơn nhiều so với cây thơm ổi. 
Kết quả thí nghiệm cũng cho thấy cây thơm ổi hấp thu chì rất nhanh: trong 
điều kiện môi trường chứa 1000 ppm chì, sau 24 giờ (kể từ thời điểm tăng đột ngột 
nồng độ chì) rễ cây thơm ổi đã tích lũy một lượng chì hơn 470 lần so với cây đối 
chứng (sống trong điều kiện môi trường bình thường); trong môi trường chứa 
2000 ppm chì thì rễ cây thơm ổi tích lũy một lượng chì hơn 969 lần so với cây đối 
chứng; trong môi trường chứa 4000 ppm chì, rễ cây thơm ổi tích lũy một lượng chì 
hơn 4.908 lần so với cây đối chứng. 
Theo tính toán của nhóm nghiên cứu, cây thơm ổi có khả năng tích lũy chì cao 
hơn 1% so với trọng lượng khô của rễ và bộ phận rễ cây được xem là “kho” chứa 
chì. Tương tự, đối với chất cadmium, cây thơm ổi cũng có khả năng hấp thu chất 
này rất tốt. Đặc biệt, nhóm nghiên cứu còn thông báo đến nay vẫn còn hai cây 
thơm ổi sống trong môi trường ô nhiễm chì cực kỳ cao, nồng độ lên đến 10.000 
ppm và 20.000 ppm. Nhóm nghiên cứu cho rằng đây là hai nguồn gen quý được 
tìm thấy để phục vụ nghiên cứu về cây siêu tích lũy chì và cadmium sau này. 
Chì rất phổ biến trong môi trường sống do các hoạt động công nghiệp như làm 
kính, in ấn, công nghiệp sơn,v.v... Đây là chất có độc tính, tác động mạnh nhất lên 
hệ thần kinh trẻ em, tác động lên thai nhi, gây sinh non, rối loạn tiêu hóa,v.v... Khi 
nồng độ chì trong máu lên đến 100-120 µg/dl (ở người lớn) và 80-100 µg/dl (ở trẻ 
em), chì sẽ gây chết người. 
Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học có giá trị cao về mặt khoa học và 
thực tiễn, góp phần giải thích cho khái niệm “phytoremediation”. 
Khái niệm phytoremediation, thực chất là quá trình sinh học để xử lý ô nhiễm 
đất hoặc nước bằng cách tận dụng tối đa các loài thực vật có khả năng hấp thụ hay 
phân hủy chất gây ô nhiễm. Đây là một công nghệ mới, chi phí cho công nghệ này 
trong việc xử lý ô nhiễm môi trường thường thấp hơn các phương pháp hóa học 
hoặc vật lý và không gây các tác dụng phụ lên môi trường, v.v... 
Nguồn: Tuổi trẻ, 13/12/2003 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_che_tao_thanh_cong_thiet_bi_loc_khu_nito_trong_nu.pdf