Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán hoạt động đối với chương trình mục tiêu quốc gia

Trong vòng 10 năm trở lại đây, Kiểm toán nhà nước (KTNN) đã tiến hành kiểm toán hoạt động một số Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG), nhưng chủ yếu chỉ mang tính lồng ghép với kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ. Thực tiễn hoạt động kiểm toán cho thấy còn nhiều bất cập, hạn chế trong hầu hết các giai đoạn của cuộc kiểm toán CTMTQG

do KTNN thực hiện: giai đoạn chuẩn bị kiểm toán, giai đoạn thực hiện kiểm toán và giai đoạn lập báo

cáo kiểm toán làm ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng kiểm toán. Vì vậy, bài viết mong muốn góp phần

làm sáng tỏ một số hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong công tác tổ chức kiểm toán hoạt động các

chương trình mục tiêu quốc gia do Kiểm toán nhà nước thực hiện để từ đó đưa ra các phương hướng, giải

pháp thực hiện kiểm toán hoạt động chương trình mục tiêu quốc gia một cách hiệu quả và hiệu lực.

pdf 8 trang kimcuc 15620
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán hoạt động đối với chương trình mục tiêu quốc gia", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán hoạt động đối với chương trình mục tiêu quốc gia

Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán hoạt động đối với chương trình mục tiêu quốc gia
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 41Số 135 - tháng 1/2019
giaûi pHaùp naâng cao cHaát löôïng 
kieåm toaùn Hoaït ñoäng ñoái vôùi 
cHöông trìnH muïc tieâu quoác gia
ThS. Vũ THị THANH HẢI*
 ThS. Đỗ CHÍ THANH*
* Kiểm toán nhà nước Chuyên ngành V
Trong vòng 10 năm trở lại đây, Kiểm toán nhà nước (KTNN) đã tiến hành kiểm toán hoạt động một số Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG), nhưng chủ yếu chỉ mang tính lồng ghép với kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ. Thực tiễn hoạt động kiểm toán cho thấy còn nhiều bất cập, hạn chế trong hầu hết các giai đoạn của cuộc kiểm toán CTMTQG 
do KTNN thực hiện: giai đoạn chuẩn bị kiểm toán, giai đoạn thực hiện kiểm toán và giai đoạn lập báo 
cáo kiểm toán làm ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng kiểm toán. Vì vậy, bài viết mong muốn góp phần 
làm sáng tỏ một số hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong công tác tổ chức kiểm toán hoạt động các 
chương trình mục tiêu quốc gia do Kiểm toán nhà nước thực hiện để từ đó đưa ra các phương hướng, giải 
pháp thực hiện kiểm toán hoạt động chương trình mục tiêu quốc gia một cách hiệu quả và hiệu lực.
Từ khóa: kiểm toán hoạt động (kTHĐ), chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG).
Solutions to improve performance audit quality conducting with national target programs
In the past 10 years, State Audit Office of Vietnam (SAV) has conducted audits of a number of national 
target programs (NTPs), but mainly integrated with financial and compliance audits. The reality of auditing 
activities shows that there are many shortcomings and limitations in most stages of the NTPs auditing 
conducted by SAV: audit preparation stage, audit implementation phase and audit reporting period that 
affect the efficiency and quality of the audit. The author wishes to contribute to clarify some of the limitations 
and the cause of the limitations in the organization of the audit activities of the national target programs 
by SAV and to provide effective and efficient directions and solutions to audit the operation of the national 
target program.
keywords: Performance audit, national target programs.
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu tổ chức kiểm 
toán hoạt động đối với Chương trình mục tiêu 
quốc gia của kiểm toán nhà nước
Từ khi thành lập đến nay, các cuộc kiểm toán 
được KTNN thực hiện chủ yếu là kiểm toán tuân 
thủ và kiểm toán tài chính, còn kiểm toán hoạt 
động mới bước đầu thực hiện đan xen trong các 
cuộc kiểm toán chuyên đề hoặc trong một số cuộc 
kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài chính. 
Để nâng tầm kiểm toán hoạt động như một loại 
hình kiểm toán độc lập trong hoạt động của KTNN 
nhằm đảm bảo tính chuyên nghiệp và hiệu quả của 
loại hình kiểm toán này, KTNN đã khẩn trương 
tiến hành các bước để có thể đẩy mạnh chủ trương 
thực hiện kiểm toán hoạt động như: thành lập các 
phòng kiểm toán hoạt động; xây dựng chuẩn mực, 
quy trình, tài liệu đào tạo về KTHĐ; mời chuyên gia 
tư vấn, giảng dạy về kinh nghiệm thực hiện KTHĐ; 
triển khai thí điểm một số cuộc KTHĐ độc lập...
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN42 Số 135 - tháng 1/2019
Trong vòng 10 năm trở lại đây, KTNN đã tiến 
hành kiểm toán hoạt động một số CTMTQG, 
nhưng chủ yếu chỉ mang tính lồng ghép với kiểm 
toán tài chính và kiểm toán tuân thủ. Thực tiễn 
hoạt động kiểm toán cho thấy còn nhiều bất cập, 
hạn chế ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm toán. 
Trong phạm vi bài viết này chúng tôi sẽ phân 
tích một số tồn tại và nguyên nhân của các tồn tại 
trong công tác tổ chức kiểm toán hoạt động đối với 
chương trình mục tiêu quốc gia do KTNN thực 
hiện để từ đó đưa ra các phương hướng, giải pháp 
thực hiện kiểm toán hoạt động chương trình mục 
tiêu quốc gia một cách hiệu quả và hiệu lực.
2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong 
công tác tổ chức kiểm toán các Chương trình 
mục tiêu Quốc gia do kTNN thực hiện
Qua nghiên cứu hồ sơ các cuộc kiểm toán 
CTMTQG do KTNN thực hiện, nguồn dữ liệu sơ 
cấp là tham khảo ý kiến của các Kiểm toán viên nhà 
nước có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực kiểm 
toán các CTMTQG và một số cán bộ giữ vị trí chủ 
chốt tại các vụ chức năng liên quan đến việc thẩm 
định, phát hành kế hoạch và báo cáo kiểm toán của 
KTNN, các tác giả sẽ phân tích cụ thể một số hạn 
chế và nguyên nhân của hạn chế trong từng giai 
đoạn kiểm toán hoạt động CTMTQG của KTNN: 
giai đoạn chuẩn bị kiểm toán, giai đoạn thực hiện 
kiểm toán và giai đoạn lập báo cáo kiểm toán.
Giai đoạn lập kế hoạch cho cuộc kiểm toán
Kiểm toán hoạt động là một lĩnh vực rất phức 
tạp đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều thời gian và công 
sức cho giai đoạn lập kế hoạch. Thực tế kiểm toán 
hoạt động của nhiều cơ quan kiểm toán trên thế 
giới cho thấy thời gian dành cho giai đoạn lập kế 
hoạch kiểm toán thường nhiều gấp 3 lần so với giai 
đoạn thực hiện và lập báo cáo kiểm toán. Tuy nhiên, 
thực trạng kiểm toán hoạt động các CTMTQG do 
KTNN thực hiện lại theo xu hướng ngược lại. 
Thực tế triển khai các cuộc kiểm toán CTMTQG 
đã cho thấy, việc xác định các tiêu chí đánh giá tính 
kinh tế, hiệu quả và hiệu lực của một CTMTQG 
không được đề cập đến trong giai đoạn chuẩn bị 
kiểm toán. 
Chương trình kiểm toán chỉ ra các thủ tục kiểm 
toán cần thiết để thực hiện đánh giá các tiêu chí 
kiểm toán không được thiết kế theo yêu cầu của 
lý luận về kiểm toán hoạt động. Thực tế cho thấy 
trong cùng một cuộc kiểm toán, với đối tượng 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 43Số 135 - tháng 1/2019
kiểm toán có tính chất tương đương, nhiều phát 
hiện được chỉ ra bởi tổ kiểm toán này nhưng không 
được các tổ kiểm toán khác phát hiện.
Việc lựa chọn đơn vị được kiểm toán chủ yếu 
dựa trên quy mô của nguồn kinh phí kết hợp với 
ý kiến chủ quan của người lập kế hoạch kiểm toán 
nhiều hơn là dựa trên một phương pháp chọn mẫu 
hợp lý có thể đảm bảo được tính khách quan, công 
bằng và mẫu được chọn có thể đại diện được cho 
tổng thể. Tuy nhiên, trên thực tế, hạn chế về nguồn 
lực thực hiện kiểm toán (nhân lực, thời gian, kinh 
phí) cũng là một nguyên nhân của thực trạng này.
Giai đoạn thực hiện kiểm toán
Sử dụng các kỹ thuật kiểm toán để thu thập 
bằng chứng kiểm toán, phát triển các phát hiện 
kiểm toán nhằm đưa ra kết luận kiểm toán là nội 
dung chính của giai đoạn thực hiện kiểm toán. Tuy 
nhiên, do không xây dựng được chương trình kiểm 
toán, đồng thời kế hoạch kiểm toán chi tiết lập bởi 
các tổ trưởng tổ kiểm toán chủ yếu là phân công 
trách nhiệm và thời gian của các thành viên trong 
tổ cho việc thực hiện các phần việc liên quan đến 
kiểm toán chi tiết việc sử dụng kinh phí nên nội 
dung kiểm toán hoạt động chủ yếu mang tính hình 
thức, phát hiện và ghi nhận thiếu sót, thực trạng, 
chưa đi sâu vào phân tích tìm hiểu nguyên nhân 
mang tính hệ thống của những tồn tại đó. Các thủ 
tục kiểm toán sử dụng còn đơn giản, chủ yếu đề 
nghị đơn vị cung cấp báo cáo, phỏng vấn nhà quản 
lý và ghi nhận trên thông tin mang tính một chiều 
đó. Thông tin từ các bên thứ ba chưa được kiểm 
toán viên quan tâm khai thác. Các kết luận, đánh 
giá, nhận xét của kiểm toán viên đưa ra trong quá 
trình thu thập bằng chứng kiểm toán phụ thuộc 
nhiều vào xét đoán cá nhân, kinh nghiệm nghề 
nghiệp trong khi kinh nghiệm nghề nghiệp của 
các kiểm toán viên lại rất khác nhau. Vì vậy, không 
tránh khỏi bằng chứng thu thập được không đảm 
bảo tính đầy đủ và thích hợp, dẫn đến chất lượng 
bằng chứng và phát hiện kiểm toán chưa cao, chưa 
tiết kiệm được thời gian, chi phí, hiệu quả hoạt 
động kiểm toán còn hạn chế. Một nguyên nhân 
quan trọng của hạn chế này đó là trình độ chuyên 
môn cũng như nhận thức về kiểm toán hoạt động 
của kiểm toán viên nhà nước còn hạn chế. Bên 
cạnh đó, nhận thức của các đơn vị được kiểm toán 
về kiểm toán hoạt động cũng còn ở giai đoạn rất sơ 
khai nên sự phối hợp trong việc chuẩn bị, cung cấp 
hồ sơ tài liệu, nhân sự phục vụ cho nội dung kiểm 
toán hoạt động chưa thực sự có hiệu quả.
Việc không thiết lập được tiêu chí đánh giá ở 
khâu lập kế hoạch dẫn đến kiểm toán viên không 
có cơ sở để so sánh giữa tiêu chí và thực tế. Do 
đó, phát hiện kiểm toán trong toàn đoàn kiểm toán 
thường dàn trải, không đủ tập trung và nhất quán 
để có thể làm cơ sở khái quát lên thành phát hiện 
mang tính hệ thống trong báo cáo kiểm toán của cả 
Chương trình.
Giai đoạn lập Báo cáo kiểm toán
Kết quả kiểm toán đối với các cuộc kiểm toán 
CTMTQG mới chỉ thiên về phát hiện các sai sót 
và xử lý tài chính tăng thu, giảm chi ngân sách nhà 
nước mà chưa đi sâu đánh giá tính kinh tế, hiệu 
quả và hiệu lực của các CTMTQG, chưa đưa ra 
được nhiều kiến nghị nhằm cải thiện tính kinh tế, 
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực nhằm đạt 
được mục tiêu của chương trình. Dung lượng dành 
cho kiểm toán hoạt động trong một báo cáo kiểm 
toán CTMTQG chiếm tỷ lệ rất nhỏ (thường trong 
khoảng 1-2 trang) so với kiểm toán kinh phí và 
đánh giá tính tuân thủ. Nội dung kiểm toán hoạt 
động thiên về đánh giá việc triển khai thực hiện 
của từng chương trình cụ thể, của các cấp vi mô 
thực hiện chương trình và còn rất chung chung, 
hình thức. Kiểm toán hoạt động các CTMTQG 
chưa chú trọng đến đánh giá tính kinh tế, tính hiệu 
quả và tính hiệu lực của các cơ quan quản lý vĩ mô 
như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, cơ quan 
quản lý chương trình trong việc xác định danh 
mục CTMTQG và xây dựng nội dung của từng 
CTMTQG cụ thể, tức chưa chú trọng đến kiểm 
toán khâu kế hoạch của các CTMTQG. Trên thực 
tế cho thấy mặc dù ngân sách rất hạn hẹp nhưng 
nhiều CTMTQG lại có mục tiêu chồng chéo trong 
khi cơ chế quản lý tài chính của các chương trình 
lại có những điểm không đồng nhất.
Công tác soát xét, thẩm định báo cáo kiểm toán 
cũng là một vấn đề cần được nghiên cứu xem xét 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN44 Số 135 - tháng 1/2019
cải thiện. Việc thẩm định báo cáo kiểm toán của 
từng cuộc kiểm toán CTMTQG ở cấp vụ có chất 
lượng chưa cao do ảnh hưởng của tâm lý ngại va 
chạm và một phần do năng lực, trình độ của kiểm 
toán viên được giao nhiệm vụ thẩm định còn hạn 
chế. Thực tế cho thấy, các nội dung liên quan đến 
kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ trong báo 
cáo kiểm toán CTMTQG thường được thẩm định 
kỹ hơn, trong khi đó nội dung kiểm toán hoạt động 
gần như rất ít được đề cập.
Thời gian qua, KTNN đã thực hiện công khai 
kết quả kiểm toán, tuy nhiên mới chỉ dừng ở mức 
công khai kết quả kiểm toán tổng thể hàng năm và 
một vài cuộc kiểm toán được dư luận xã hội quan 
tâm. Điều này dẫn tới quy định về công khai kết 
quả kiểm toán chưa phát huy được mục đích của 
nó là bảo đảm tính minh bạch của hoạt động kiểm 
toán, tạo nên sức ép nâng cao chất lượng kiểm toán, 
mặt khác tạo nên sức ép từ dư luận xã hội đối với 
việc thực hiện các kiến nghị của KTNN, góp phần 
giúp các nguồn lực từ NSNN được sử dụng kinh tế, 
hiệu quả và đạt được mục tiêu đã định.
3. Giải pháp đề xuất nhằm nâng cao chất 
lượng kiểm toán hoạt động các chương trình mục 
tiêu quốc gia
Trên quan điểm và phương hướng của Kiểm 
toán nhà nước về phát triển kiểm toán hoạt động, 
chúng tôi đưa ra 06 giải pháp nhằm hoàn thiện tổ 
chức kiểm toán hoạt động và giải quyết được các 
hạn chế nêu trên:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về kiểm toán hoạt 
động.
Nhận thức về kiểm toán hoạt động sẽ chi phối 
đến tinh thần và thái độ phối hợp công tác của 
khách thể kiểm toán với đoàn, tổ kiểm toán. Cuộc 
kiểm toán sẽ khó có thể đạt được hiệu quả cao nếu 
chỉ có nỗ lực đơn phương từ phía chủ thể của hoạt 
động kiểm toán. Nâng cao nhận thức về kiểm toán 
hoạt động cần được triển khai trên hai khía cạnh: 
nhận thức về chức năng kiểm toán hoạt động của 
KTNN và nhận thức về phương pháp, quy trình 
kiểm toán hoạt động thực hiện bởi KTNN.
KTNN cần đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên 
truyền bằng nhiều hình thức khác nhau, chú trọng 
việc trao đổi và cung cấp thông tin cho báo chí, mở 
rộng kênh thông tin công khai kết quả kiểm toán 
và mở rộng phạm vi kết quả kiểm toán được công 
khai, tạo lập mối liên hệ thường xuyên, trước và 
sau cuộc kiểm toán với các đơn vị quản lý và sử 
dụng ngân sách nhà nước.
Thứ hai, hướng dẫn và tổ chức áp dụng quy 
trình, chuẩn mực kiểm toán nhà nước, quy định 
hồ sơ mẫu biểu về kiểm toán hoạt động vào kiểm 
toán hoạt động các chương trình quốc gia, chương 
trình mục tiêu quốc gia.
Việc hướng dẫn và tổ chức áp dụng phải được 
triển khai đối với các giai đoạn kiểm toán, cụ thể: 
lập kế hoạch kiểm toán năm, lập kế hoạch kiểm 
toán cho cuộc kiểm toán hoạt động, thực hiện kiểm 
toán và lập báo cáo kiểm toán.
Thứ ba, hoàn thiện tổ chức đoàn kiểm toán, tổ 
kiểm toán.
Định hướng lâu dài, KTNN nên tổ chức thành 
các đoàn kiểm toán chuyên đề về kiểm toán hoạt 
động các CTMTQG, kiểm toán tài chính và tuân 
thủ không phải là trọng tâm của cuộc kiểm toán 
mà là công cụ phục vụ cho đánh giá về kiểm toán 
hoạt động. Định hướng này sẽ tránh được hiện 
tượng chồng chéo trong công tác kiểm toán, giúp 
đoàn kiểm toán có thể tập trung toàn bộ nguồn lực 
vào nội dung kiểm toán hoạt động. Có thể nhận 
thấy rằng tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực của các 
CTMTQG mới là vấn đề được Quốc hội, nhân dân 
quan tâm hơn cả. 
Bên cạnh đó, thời gian của một cuộc kiểm toán 
hoạt động nên được linh hoạt, quyết định bởi mục 
tiêu và phạm vi của cuộc kiểm toán. Không nên áp 
dụng khung thời gian từ 2-3 tháng cho một cuộc 
kiểm toán như các cuộc kiểm toán tài chính và 
tuân thủ.
Thứ tư, hoàn thiện công tác kiểm soát chất 
lượng kiểm toán.
Cần chú trọng việc tự kiểm soát trong nội bộ 
đoàn kiểm toán đối với giai đoạn thực hiện kiểm 
toán. Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành và 
khu vực đẩy mạnh việc kiểm soát chất lượng kiểm 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 45Số 135 - tháng 1/2019
toán, nhất là việc thực hiện mục tiêu kiểm toán và 
thu thập bằng chứng kiểm toán.
Một công cụ hữu hiệu hiện được nhiều cơ quan 
kiểm toán trên thế giới áp dụng trong kiểm soát 
chất lượng kiểm toán đó là sử dụng “danh sách 
kiểm tra” (audit checklist) cho từng cuộc kiểm 
toán hoạt động CTMTQG. Các đoàn kiểm toán 
cần nghiên cứu sử dụng “danh sách kiểm tra” được 
thiết kế dựa trên cơ sở tham khảo “systems audit 
checklist” của cơ quan KTNN Alberta (Canada) 
kết hợp với nghiên cứu thực tiễn kiểm toán hoạt 
động của KTNN Việt Nam.
Thứ năm, nâng cao năng lực của kiểm toán viên 
thực hiện kiểm toán hoạt động.
KTNN cần nâng cao năng lực và đạo đức nghề 
nghiệp của Kiểm toán viên nhà nước nói chung và 
trong lĩnh vực kiểm toán hoạt động các CTMTQG 
nói riêng theo hướng:
- Tăng cường đủ về mặt số lượng, cơ cấu và 
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức 
nghề nghiệp cho kiểm toán viên, chú trọng nâng 
cao nghiệp vụ kiểm toán hoạt động;
- Tiêu chuẩn hóa đội ngũ kiểm toán viên về 
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, về phẩm chất 
đạo đức, năng lực tổ chức và trình độ chuyên 
môn hóa theo hướng thống nhất, đa dạng. Trong 
quá trình tuyển chọn cần chú ý tính cân đối, hợp 
lý giữa cơ cấu ngành nghề, cân đối giữa cán bộ, 
kiểm toán viên đã có kinh nghiệm thực tiễn công 
tác với việc tổ chức thi tuyển, tiếp nhận, hướng 
dẫn kiểm toán viên;
- Xây dựng chiến lược đào tạo đội ngũ công chức 
kiểm toán về mọi mặt và có mục tiêu đào tạo, bồi 
dưỡng cụ thể, thích hợp với từng giai đoạn, trước 
hết là về chuyên môn nghiệp vụ, trong đó chú trọng 
bồi dưỡng chuyên sâu theo loại hình kiểm toán, đối 
tượng kiểm toán, về kinh nghiệm kiểm toán trong 
môi trường công nghệ thông tin.
Thứ sáu, hoàn thiện cơ chế phối hợp, trao đổi 
thông tin giữa các đơn vị trong nội bộ KTNN.
Việc phối hợp và cung cấp thông tin cần chú ý 
những vấn đề sau:
- Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các KTNN 
chuyên ngành, KTNN khu vực và các đơn vị tham 
mưu trong thực hiện nhiệm vụ kiểm toán, phân 
giao nhiệm vụ kiểm toán cần rõ ràng từ khi phân 
công kế hoạch kiểm toán năm. Việc phối hợp nên 
chú trọng vào những cuộc kiểm toán mà đối tượng 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN46 Số 135 - tháng 1/2019
kiểm toán rộng, nằm rải rác trên địa bàn cả nước 
như các CTMTQG, cần có những bằng chứng và 
đánh giá mang tính toàn diện để tránh sự trùng lặp, 
chồng chéo về phạm vi, mục đích kiểm toán, tăng 
cường được tính hiệu quả trong việc sử dụng các 
nguồn lực kiểm toán. Quy chế phối hợp này cần 
phải làm rõ đơn vị chủ trì, đơn vị phối hợp, hình 
thức báo cáo và trao đổi thông tin, hình thức xét 
duyệt và phát hành báo cáo kiểm toán, xử lý những 
công việc phát sinh sau khi kết thúc kiểm toán tại 
đơn vị; 
- Các đơn vị được giao nhiệm vụ kiểm toán 
CTMTQG nên trao đổi kinh nghiệm kiểm toán hoặc 
những phát hiện kiểm toán nổi bật với nhau hoặc với 
các KTNN chuyên ngành và KTNN khu vực.
Các giải pháp và đề xuất nêu trên chỉ phát huy 
được hiệu quả khi đảm bảo các yêu cầu và điều 
kiện như sau:
Điều kiện thứ nhất, sự nhận thức đúng đắn về ý 
nghĩa và vai trò cần thiết phải kiểm toán hoạt động 
các CTMTQG là một trong những điều kiện quan 
trọng quyết định sự thành công của việc áp dụng 
kết quả nghiên cứu của đề tài này.
Điều kiện thứ hai, để việc áp dụng kết quả 
nghiên cứu của bài viết vào công tác lập kế hoạch 
kiểm toán hoạt động các CTMTQG đặc biệt cần 
có sự phối hợp giữa KTNN chuyên ngành V, với 
KTNN các chuyên ngành và khu vực, các cơ quan 
tham mưu của KTNN, các cơ quan liên quan đến 
CTMTQG từ khâu khảo sát thu thập thông tin, lập 
kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán, lập và 
phát hành báo cáo kiểm toán, kiểm tra thực hiện 
kiến nghị kiểm toán.
Điều kiện thứ ba, công tác đào tạo kỹ năng, tập 
huấn nội dung hướng dẫn kiểm toán hoạt động các 
CTMTQG cho các kiểm toán viên, thành viên tham 
gia đoàn kiểm toán và thực hiện nhiệm vụ thẩm 
định, kiểm tra, kiểm soát chất lượng kiểm toán là 
yêu cầu cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng với 
kết quả nghiên cứu của đề tài, nhằm đảm bảo kiến 
nghị của đề tài vận dụng tốt trong quá trình xây 
dựng, lập kế hoạch kiểm toán hoạt động nói chung 
và kiểm toán các CTMTQG nói riêng.
kết luận 
Xuất phát từ tầm quan trọng việc kiểm toán 
hoạt động chương trình mục tiêu quốc gia, đòi hỏi 
KTNN phải sớm nghiên cứu, đánh giá một cách 
đầy đủ các bất cập, hạn chế còn tồn tại trong công 
tác tổ chức kiểm toán hoạt động chương trình mục 
tiêu quốc gia nhằm đưa ra các giải để thực hiện 
kiểm toán hoạt động chương trình mục tiêu quốc 
gia một cách hiệu quả và hiệu lực. Trong khuôn 
khổ bài viết này, chúng tôi đã đề xuất sáu giải pháp 
nhằm tổ chức kiểm toán hoạt động đồng thời cũng 
nêu rõ ba điều kiện quan trọng để các giải pháp có 
thể phát huy được hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chuẩn mực quốc tế của các Cơ quan kiểm 
toán tối cao (ISSAIs); 
2. Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán nhà nước 
được ban hành kèm theo Quyết định 
02/2016/QĐ-KTNN ngày 15/7/2016 của 
Tổng Kiểm toán nhà nước;
3. Kế hoạch chiến lược phát triển Kiểm toán nhà 
nước giai đoạn 2013-2017 ban hành kèm 
theo Quyết định số 1145/QĐ-KTNN ngày 
09/10/2013;
4. Kế hoạch kiểm toán và Báo cáo kiểm toán 
các Chương trình mục tiêu quốc gia do Kiểm 
toán nhà nước phát hành từ năm 2010 đến 
hết năm 2017;
5. Luật Kiểm toán nhà nước năm 2005 và Luật 
Kiểm toán nhà nước năm 2015; 
6. Quy trình kiểm toán chương trình mục tiêu 
quốc gia của KTNN được ban hành kèm 
theo các Quyết định số 04/2007/QĐ-KTNN 
ngày 02/8/2007, Quyết định số 06/2009/
QĐ-KTNN ngày 23/10/2009, Quyết định 
số 02/2012/QĐ-KTNN ngày 04/4/2012 và 
Quyết định số 05/2017/QĐ-KTNN ngày 
04/4/2017 của Tổng Kiểm toán nhà nước;
7. Quy trình kiểm toán hoạt động của KTNN 
được ban hành kèm theo Quyết định 
07/2017/QĐ-KTNN ngày 20/6/2017 của 
Tổng Kiểm toán nhà nước;
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 47Số 135 - tháng 1/2019
Laïm phaùt naêm 2019:
lo taùc ñoäng töø bieán ñoäng 
kinH teá tHeá giôùi
MINH YẾN
Chính sách kinh tế vĩ mô trong nước ổn định, thị trường quốc tế không có biến động quá lớn là những yếu tố giúp lạm phát của Việt Nam đang ở trong giai đoạn bình ổn. Năm 2019, diễn biến khó lường của kinh tế thế giới là yếu tố quan trọng tác động đến kinh tế Việt Nam, trong đó có chỉ số giá tiêu dùng (CPI).
Giai đoạn ổn định vừa phải
Từ năm 2013 đến nay, CPI bình quân năm chỉ 
giao động từ 0,63% đến 6,6%. Đây được coi là mức 
tăng khá thấp so với giai đoạn trước đó. Đáng chú 
ý, năm 2017 và năm 2018, CPI bình quân năm gần 
bằng nhau ở mức thấp vừa phải, lần lượt là 3,53% 
và 3,54%. Đây là kết quả từ nỗ lực của Chính phủ 
trong việc điều hành chính sách vĩ mô ổn định 
đồng thời duy trì đà tăng trưởng kinh tế ở mức 
khá cao. 
Nhận xét về diễn biến lạm phát trong cả giai 
đoạn vừa qua, TS.Vũ Đình ánh - Viện Kinh tế 
Tài chính nói: “Lạm phát nước ta đang trong giai 
đoạn ổn định ở mức vừa phải nhờ cả các yếu tố chủ 
quan từ chính sách kinh tế vĩ mô lẫn yếu tố khách 
quan từ thị trường quốc tế. Bài học về điều hành 
thị trường giá cả tránh tăng giá dồn dập trong thời 
gian ngắn, kết hợp tốt các yếu tố khách quan và chủ 
quan trong điều chỉnh tăng giá viện phí và học phí 
theo lộ trình đã thực hiện trong năm 2018 là rất 
quan trọng các năm tiếp theo”. 
Khá tương đồng quan điểm với những nhận xét 
nêu trên, TS. Nguyễn Ngọc Tuyến, Học viện Tài 
chính cho rằng, CPI năm 2018 tăng với mức thấp 
hơn dự kiến và lạm phát cơ bản luôn thấp hơn lạm 
phát bình quân là kết quả của công tác quản lý tích 
cực, chủ động của Chính phủ nhằm đảm bảo thực 
hiện mục tiêu phát triển ổn định và bền vững nền 
kinh tế. Bên cạnh đó, các giải pháp nhằm kiềm chế 
lạm phát và ổn định giá cả, thị trường trong năm 
được ban hành và thực thi một cách kịp thời và có 
hiệu quả tích cực.
Vẫn còn thách thức 
Dự báo về diến biến lạm phát năm 2019,TS. 
Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Tài 
chính đưa ra 3 kịch bản cho năm 2019. Với kịch 
bản trung bình, lạm phát sẽ tăng khoảng 0,14%/
tháng (chưa tính điều chỉnh giá điện, giá dịch vụ y 
tế và giáo dục), tương đương với mức tăng của lạm 
phát cơ bản trong năm 2018. Với mức tăng này, lạm 
phát cùng kỳ tháng 12 năm 2019 sẽ ở mức khoảng 
1,7% và lạm phát trung bình sẽ chỉ ở mức trên 2%. 
Tuy nhiên, do Chính phủ sẽ điều chỉnh giá dịch vụ 
theo lộ trình nên lạm phát trung bình sẽ cao hơn, 
nhưng khả năng sẽ chỉ ở mức khoảng 3%.
Trong kịch bản thấp, giá dầu tiếp tục giảm và tỷ 
giá VND/USD chỉ tăng 1%, lạm phát cùng kỳ của 
tháng 12/2019 có thể chỉ ở mức 1% và lạm phát 
trung bình cả năm 2019 chỉ ở mức 2,5%.
Còn với kịch bản cao, giá xăng dầu tăng mạnh 
trở lại và tỷ giá có mức tăng tương đương với mức 
tăng của năm 2018, đồng thời Chính phủ vẫn điều 
chỉnh giá dịch vụ theo lộ trình, lạm phát trung bình 
cả năm 2019 sẽ vẫn thấp hơn mức 3,54% của năm 
2018. “Về tổng thể, có thể nhận định rằng mục tiêu 
kiềm chế lạm phát dưới 4% trong năm 2019 gần 
như chắc chắn sẽ đạt được”, TS.Độ dự báo.
Trong khi đó, theo ông Vũ Đình ánh, xu thế 
bình ổn có thể tiếp diễn trong năm nay khi dự 
báo thị trường thế giới không có biến động quá 
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN48 Số 135 - tháng 1/2019
lớn về giá, đồng thời, các chính sách kinh tế vĩ mô 
của Việt Nam đều lấy ổn định và thận trọng làm 
phương châm chỉ đạo. “Dĩ nhiên, biến động quá 
mạnh của giá dầu thô do biến động chính trị thế 
giới có thể tác động mạnh tới lạm phát của Việt 
Nam năm 2019, song tôi tin là Chính phủ đã có 
biện pháp ứng phó phù hợp để đảm bảo mục tiêu 
kiểm soát lạm phát cả năm”, ông ánh nói. 
Còn theo TS. Nguyễn Ngọc Tuyến, Viện Kinh 
tế Tài chính, Học viện Tài chính thì tình hình kinh 
tế - xã hội – chính trị thế giới năm 2019 sẽ có biến 
động rất khó dự báo và điều đó cũng sẽ tác động 
không nhỏ tới kinh tế Việt Nam. Đáng chú ý, chiến 
tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc khó có 
thể lắng dịu và nhiều khả năng sẽ càng căng thẳng 
hơn. Giá cả hàng hóa và dịch vụ trên thị trường thế 
giới có thể sẽ tăng cao hơn khiến kinh tế Việt Nam 
phải đối mặt các thách thức mới. 
Về chính sách tiền tệ, theo ông Tuyến, Việt Nam 
đang thực hiện chính sách tỷ giá cố định tương đối 
so với đồng USD trong một thời gian khá dài. Thời 
gian vừa qua, đồng USD liên tục lên giá và nhiều 
dự báo cho rằng Cục dự trữ liên bang Mỹ tiếp tục 
nâng lãi suất đồng USD trong năm 2019. Điều này 
có thể làm cho VND suy yếu, từ đó, có thể khuyến 
khích xuất khẩu trong ngắn hạn song có thể dẫn tới 
rủi ro về tỷ giá trong trung và dài hạn. 
Từ những phân tích và dự báo này, ông Tuyến 
đưa ra một số giải pháp để kiểm soát CPI theo mục 
tiêu đã đặt ra. 
Đó là, tiếp tục chính sách quản lý, điều hành 
giá linh hoạt hướng tới mục tiêu ổn định giá cả, 
ổn định kinh tế vĩ mô.Theo dõi kịp thời biến động 
của giá thực phẩm, giá vật liệu xây dựng, giá đồ 
dùng gia đình, giá xăng dầu là những sản phẩm 
có tác động lớn tới chỉ số giá tiêu dùng chung và 
thực hiện các giải pháp điều chỉnh kịp thời nhằm 
ổn định giá.
“Bên cạnh đó, việc điều chỉnh giá dịch vụ y tế, 
giáo dục phải rất lưu ý tới mức độ điều chỉnh và 
thời điểm để không ảnh hưởng nhiều tới chỉ số 
giá tiêu dùng chung. Đồng thời, nên nghiên cứu 
kỹ về tỷ giá, xem xét và từng bước điều chỉnh tăng 
dần từng bước phù hợp với thị trường, không nên 
giữ cố định tỷ giá quá lâu như hiện nay. Thực hiện 
các biện pháp tăng tính hiệu quả, hiệu lực công tác 
quản lý thu ngân sách nhà nước, giảm thâm hụt 
ngân sách nhà nước, giảm vay nợ, sử dụng có hiệu 
quả vốn vay”, ông Tuyến nhấn mạnh.

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_nang_cao_chat_luong_kiem_toan_hoat_dong_doi_voi_ch.pdf