Động cơ và cách thức thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận thông qua các thủ thuật kế toán

Để quản trị doanh nghiệp hiệu quả việc nhận diện và hiểu rõ cách thức “phù phép” thông tin báo cáo tài chính là rất cần thiết. Nhất là khi có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý thì vấn đề này càng cấp thiết hơn bao giờ hết. Bài viết nhằm mục đích xác định động cơ và các cách thức thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận phổ biến cũng như

chỉ ra các điểm cần lưu ý khi xem các thông tin báo cáo tài chính. Thông qua đó, ban quản trị của doanh

nghiệp có thể đưa ra các biện pháp cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

pdf 8 trang kimcuc 8060
Bạn đang xem tài liệu "Động cơ và cách thức thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận thông qua các thủ thuật kế toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Động cơ và cách thức thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận thông qua các thủ thuật kế toán

Động cơ và cách thức thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận thông qua các thủ thuật kế toán
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 47Số 118 - tháng 8/2017
ÑOÄNG CÔ VAØ CAÙCH THÖÙC THÖÏC HIEÄN
HAØNH VI QUAÛN TRÒ LÔÏI NHUAÄN
THOÂNG QUA CAÙC THUÛ THUAÄT KEÁ TOAÙN
ThS. PHùNG ANH THƯ*
ThS. NGUYỄN VĩNH KHƯơNG*
* Khoa Tài chính-Kế toán, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành; Khoa Kế toán-Kiểm toán, Trường Đại học Kinh tế - Luật
Để quản trị doanh nghiệp hiệu quả việc nhận diện và hiểu rõ cách thức “phù phép” thông tin báo cáo tài chính là rất cần thiết. Nhất là khi có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý thì vấn đề này càng cấp thiết hơn bao giờ hết. Bài viết nhằm mục đích xác định động cơ và các cách thức thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận phổ biến cũng như 
chỉ ra các điểm cần lưu ý khi xem các thông tin báo cáo tài chính. Thông qua đó, ban quản trị của doanh 
nghiệp có thể đưa ra các biện pháp cần thiết trong bối cảnh hiện nay. 
Từ khóa: Hành vi quản trị lợi nhuận, động cơ
The mechanics of profit management through accounting techniques
For effective corporate governance, it is important to recognize and understand the “creative” way 
financial reporting information is presented. Especially when there is a separation between ownership and 
management, the problem is more urgent than ever. The article aims to show the motivations and commons 
ways of managing profit and points to consider when reviewing financial statements. Through this, the 
management of the business can take the necessary measures in the current context.
keywords: Profit management, mechanics
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề sở hữu và quản 
lý ngày trở nên tách biệt như chúng ta biết tới đó là 
lý thuyết đại diện. Sự tách biệt giữa sở hữu doanh 
nghiệp (DN) và quản lý DN, sẽ mang đến rất nhiều 
thuận lợi như việc chuyển nhượng quyền sở hữu 
không ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của 
DN, khi thuê được những nhà quản lý chuyên 
nghiệp đảm bảo thực hiện mục tiêu của DN. Tuy 
nhiên, việc tách biệt này lại dẫn tới một vấn đề nổi 
bật khác - vấn đề đại diện, hay còn gọi là vấn đề 
về xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và các chủ sở 
hữu. Các nhà đầu tư hay còn gọi là các chủ sở hữu 
rất muốn biết chính xác tiền của mình đã được sử 
dụng như thế nào và tình hình hoạt động thực tế 
của công ty. Vì vậy, vấn đề minh bạch báo cáo tài 
chính (BCTC) và chất lượng công bố thông tin trên 
BCTC được xem là rất quan trọng đối với các nhà 
đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam nói 
riêng và trên thế giới nói chung. Chất lượng thông 
tin trên BCTC của DN, đặc biệt là thông tin về lợi 
nhuận có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định nhiều 
bên liên quan. Trong bối cảnh đó, vấn đề quan tâm 
chính là chất lượng của thông tin lợi nhuận được 
công bố. Những hành vi quản trị lợi nhuận theo 
mục đích của nhà quản lý có thể làm cho BCTC 
không còn phản ánh được bản chất của tình hình 
tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của DN.
Chính vì vậy, bài báo này làm rõ bản chất của 
hành vi quản trị lợi nhuận. Người quản lý được 
quyền vận dụng các xét đoán chủ quan của mình 
trong việc lựa chọn chính sách và thực hiện các ước 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN48 Số 118 - tháng 8/2017
tính để phản ánh một cách đúng đắn hơn bản chất 
kinh tế của thực trạng tài chính và kết quả hoạt 
động của DN. Do đó, cần làm rõ động cơ và cách 
thực hiện để có biện pháp phù hợp.
2. Hành vi quản trị lợi nhuận
2.1. Khái niệm
Theo Schipper (1989)[17] Hành vi quản trị lợi 
nhuận là hành vi có mục đích đối với quy trình lập 
và trình bày BCTC nhằm đạt được lợi ích cá nhân.
Theo Healy và Wahlen (1999)[7] thì hành vi 
quản trị lợi nhuận xuất hiện khi nhà quản trị dùng 
xét đoán trên BCTC và trong cấu trúc các nghiệp 
vụ kinh tế nhằm làm thay đổi BCTC để gây hiểu 
lầm cho một số đối tượng liên quan về thực trạng 
kinh tế của DN hoặc nhằm tác động đến kết quả 
của các hợp đồng kinh tế mà chúng dựa trên số 
liệu kế toán.
Quản trị lợi nhuận là hành vi của nhà quản lý 
sử dụng việc ghi nhận trên cơ sở dồn tích thông 
qua một số tài khoản để làm thay đổi lợi nhuận 
sau thuế theo các mục tiêu công bố thông tin của 
họ [15].
Như vậy, chúng ta có thể thấy được những đặc 
điểm chung trong các khái niệm về quản trị lợi 
nhuận như sau:
- Là hành vi phụ thuộc vào quyết định có chủ ý 
của nhà quản lý.
- Là sự can thiệp của nhà quản lý làm thay đổi 
các thông tin trên báo cáo tài chính.
- Là sự công bố thông tin liên quan đến các thời 
điểm trình bày báo cáo.
2.2. Cơ sở hành vi quản trị lợi nhuận
Cơ sở của hành vi quản trị lợi nhuận chính là 
kế toán theo cơ sở dồn tích. Cơ sở kế toán dồn tích 
là một trong các nguyên tắc kế toán cơ bản nhất 
chi phối các phương pháp kế toán cụ thể trong kế 
toán DN. Theo đó, mọi giao dịch kinh tế liên quan 
đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, 
doanh thu và chi phí được ghi nhận tại thời điểm 
phát sinh giao dịch, không quan tâm đến thời điểm 
thực tế thu hoặc chi tiền (chuẩn mực kế toán số 
01, 2002). Vì việc ghi nhận doanh thu và chi phí 
có ảnh hưởng quyết định đến báo cáo lợi nhuận 
của DN trong một kỳ, cơ sở kế toán dồn tích được 
xem là một nguyên tắc chính yếu đối với việc xác 
định lợi nhuận của DN. Lợi nhuận theo cơ sở dồn 
tích là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí; 
từ đó, BCTC nói chung và báo cáo kết quả kinh 
doanh (BCKQKD) nói riêng phải được lập trên cơ 
sở dồn tích. Điều này mang lại cơ hội cho nhà quản 
trị (NQT) thực hiện hành động quản trị lợi nhuận 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 49Số 118 - tháng 8/2017
thông qua các giao dịch không bằng tiền nhằm đạt 
được một mục tiêu nào đó. Trong khi đó, kế toán 
theo cơ sở tiền được sử dụng để lập báo cáo lưu 
chuyển tiền tệ (theo phương pháp trực tiếp) dựa 
trên cơ sở thực thu, thực chi tiền nên NQT không 
thể điều chỉnh các giao dịch. Từ đó chênh lệch giữa 
lợi nhuận trên BCKQHĐKD và dòng tiền trên báo 
cáo lưu chuyển tiền tệ (theo phương pháp trực 
tiếp) tạo ra biến kế toán gọi là Accruals. Ta có công 
thức sau:
Biến kế toán dồn tích (Accruals) = Lợi nhuận 
sau thuế - Dòng tiền thuần từ hoạt HĐkD
Theo cơ sở dồn tích, việc ghi nhận doanh thu 
và chi phí không dựa vào dòng tiền tương ứng thu 
vào hay chi ra mà chỉ căn cứ vào thời điểm nghiệp 
vụ kinh tế phát sinh. Do đó, số liệu trên BCTC, 
đặc biệt là báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 
thể hiện ý chí chủ quan của NQT và nhà kế toán. 
Trong khi đó, báo cáo lưu chuyển tiền tệ được 
lập trên cơ sở dòng tiền, nghĩa là báo cáo này căn 
cứ vào dòng tiền thực thu vào hay thực chi ra để 
trình bày. Chính vì vậy, giữa dòng tiền trên báo 
cáo lưu chuyển tiền tệ và lợi nhuận trên báo cáo 
kết quả hoạt động kinh doanh sẽ có một sự chênh 
lệch. Các nhà nghiên cứu kế toán gọi đó là biến kế 
toán dồn tích (Total Accruals-TA) và được tính 
bằng công thức:
Biến kế toán dồn tích (TA) = Lợi nhuận sau 
thuế - Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh 
doanh (1)
Nhưng trong biến kế toán dồn tích gồm hai 
phần: Biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh được 
(Discretionary Accurals -DA) và biến kế toán dồn 
tích không thể điều chỉnh được (Non Discretionary 
Accurals - NDA)
Biến kế toán dồn tích (TA) = Biến kế toán dồn 
tích có thể điều chỉnh được (DA) + Biến kế toán 
dồn tích không thể điều chỉnh được (NDA)
 Biến NDA phản ánh điều kiện kinh doanh cụ 
thể của từng đơn vị do đó không điều chỉnh được 
bởi nhà quản lý. Ví dụ: độ dài của chu kỳ kinh 
doanh, chu kỳ sống của sản phẩm. Ngược lại biến 
DA là biến NQT có thể điều chỉnh thông qua các 
thủ thuật kế toán. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để 
đo lường biến DA vì biến này đại diện cho mức 
độ quản trị lợi nhuận của DN. Để xem xét mức độ 
quản trị lợi nhuận của các DN, các nhà nghiên cứu 
không thể quan sát một cách trực tiếp. Vì vậy các 
nhà nghiên cứu phải thông qua 2 cách: một là xem 
xét sự lựa chọn chính sách kế toán, hai là tính biến 
NDA. 
3. Động cơ hành vi quản trị lợi nhuận
- Động cơ về thị trường vốn: Động cơ thực 
hiện hành vi chi phối lợi nhuận xuất phát từ thị 
trường vốn là một trong những hiện tượng phổ 
biến. Thông thường nhà quản lý thực hiện hành vi 
quản trị lợi nhuận nhằm mục đích đạt được hoặc 
vượt mức lợi nhuận mục tiêu, phát hành cổ phiếu, 
mua bán hoặc sáp nhập DN. Ví dụ như công đoàn 
công ty sẽ gây sức ép với ban lãnh đạo để được trả 
lương cao hơn khi công ty có lãi cao hoặc một số 
những cổ đông quá khích sẽ gây áp lực lên nhà 
quản lý nếu lợi nhuận thực tế chênh lệch quá lớn 
so với dự báo Đó là động lực để ban lãnh đạo 
phù phép giảm lợi nhuận thông qua các thủ thuật 
kế toán. Bằng chứng thực nghiệm cũng cho thấy 
rằng giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi công ty 
có mức lợi nhuận vượt quá lợi nhuận kỳ vọng. 
Do về mặt tâm lý nhà đầu tư luôn thích một DN 
đạt được một mức lợi nhuận nào đó thay vì lỗ, 
và không có quá nhiều biến động qua các năm. 
Do đó sự thất bại trong việc không đạt được mức 
lợi nhuận kỳ vọng của nhà quản lý cũng bị trừng 
phạt mạnh bởi thị trường. Vì vậy nhà quản lý có 
xu hướng trình bày mức lợi nhuận đạt hoặc vượt 
mức lợi nhuận mục tiêu.
- Động cơ về chi phí hợp đồng: Hợp đồng vay 
thường được các chủ nợ sử dụng để bảo vệ quyền 
lợi của họ trước hành động điều chỉnh lợi nhuận 
của NQT. Ở các nước phát triển, hợp đồng vay có 
một số những điều khoản ràng buộc sau: công ty 
đi vay phải duy trì mức tài sản hữu hình đáp ứng 
một mức cụ thể nào đó hoặc phải đáp ứng những 
yêu cầu tối thiểu về cân bằng thanh toán theo quy 
định, hoặc phải duy trì một mức bảo hiểm cụ thể 
nào đó về nợ vay, hoặc mức lợi nhuận tối thiểu. 
Do có sự tách rời quyền sở hữu và quyền quản lý 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN50 Số 118 - tháng 8/2017
trong các công ty niêm yết nên các NQT có động 
cơ điều chỉnh lợi nhuận tăng để tránh vi phạm hợp 
đồng đi vay. Nếu vi phạm, các chủ nợ có thể tăng 
tỷ lệ lãi suất đối với các khoản nợ hoặc yêu cầu DN 
thanh toán khoản nợ ngay lập tức. Vì các chủ nợ 
cho rằng nếu DN làm ăn không có lãi thì khả năng 
thanh toán nợ cho họ khó khăn hơn. Từ đó rủi ro 
rất lớn trong việc thu hồi nợ vốn vay. Hệ quả là các 
NQT sử dụng các thủ thuật điều chỉnh lợi nhuận 
nhằm tránh các rắc rối liên quan đến hợp đồng đi 
vay. Đặc biệt là trong trường hợp công ty niêm yết 
làm ăn thua lỗ thì NQT càng có động cơ mạnh hơn 
trong việc điều chỉnh lợi nhuận. 
- Động cơ đáp ứng các quy định về phía nhà 
nước: DN có thể thực hiện hành vi quản trị lợi 
nhuận để tối thiểu hóa chi phí thuế TNDN hoặc trì 
hoãn thanh toán thuế hoặc hưởng ưu đãi thuế [6]. 
Nghiên cứu của Han and Wang (1998)[6] cho thấy 
các DN xăng dầu đã trì hoãn ghi lợi nhuận trong 
thời kỳ khủng hoảng vùng vịnh năm 1990 khi các 
DN này đã đạt được khoản lợi nhuận siêu lớn. Hay 
DN sẽ ghi nhận tài sản thuế thu nhập hoãn lại khi 
cung cấp được bằng chứng rằng trong tương lai DN 
sẽ tạo ra được lợi nhuận để khấu trừ với tài sản này. 
NQT sẽ sử dụng tài khoản này để giảm chi phí thuế 
TNDN khi DN đã biết được rằng mình đã đạt được 
mức lợi nhuận như mong muốn [1;11;18]. Ngoài 
ra hành vi quản trị lợi nhuận còn có thể được thực 
hiện nhằm mục tiêu tối thiểu hóa chi phí thuế thu 
nhập DN [2].
Bên cạnh đó, trong mối quan hệ giữa người 
quản lý và DN, nhà quản lý có thể điều chỉnh 
lợi nhuận vì những lợi ích cá nhân, nhà quản lý 
sẽ được hưởng nhiều quyền lợi khi hoàn thành 
các chỉ tiêu được giao, chẳng hạn như các khoản 
thưởng, đề bạt, tăng lương, và cả việc giữ được vị 
trí của mình. Do đó, nếu không hoàn thành các chỉ 
tiêu lợi nhuận, nhà quản lý có thể điều chỉnh tăng 
lợi nhuận để đạt được các chỉ tiêu này, hoặc khi 
đã đạt vượt chỉ tiêu lợi nhuận nhưng mức thưởng 
có giới hạn, nhà quản lý có thể điều chuyển bớt 
lợi nhuận sang năm sau. Theo Leone, A., Rock, S., 
Guidry, F.,(1998) cho thấy rằng cá nhân nhà quản 
lý có khả năng trì hoãn thu nhập khi lợi nhuận mục 
tiêu trong kế hoạch tiền thưởng của họ không được 
đáp ứng hay khi họ đã đạt được mức tối đa trong kế 
hoạch thưởng. Mặt khác, nhà quản lý cũng có thể 
sở hữu cổ phiếu của DN. Khi này, nếu muốn bán đi 
số cổ phiếu nắm giữ và thu lợi được mức cao, nhà 
quản lý cũng có thể điều chỉnh lợi nhuận tăng để 
tác động vào giá cổ phiếu nhằm thu lợi.
4. Cách thức thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận
Tùy theo mục tiêu khác nhau của các NQT, 
có thể mục tiêu của NQT là điều chỉnh lợi nhuận 
nhằm tiết kiệm thuế phải nộp, có thể mục tiêu điều 
chính tăng lợi nhuận là để hút vốn đầu tư, bán cổ 
phiếu ra thị trường. Nhiều thủ thuật được nhà 
quản lý sử dụng để chi phối thu nhập. Có thể phân 
loại theo hành vi quản trị lợi nhuận theo bốn loại:
* Quản trị lợi nhuận thông qua lựa chọn chính 
sách kế toán: Quản trị lợi nhuận phản ánh hành 
động của NQT trong việc lựa chọn các chính sách 
kế toán để mang lại lợi ích cho họ hoặc làm gia tăng 
giá thị trường của công ty [16]. Việc lựa chọn chính 
sách kế toán áp dụng để thực hiện hành động để 
thực hiện hành động quản trị lợi nhuận luôn nằm 
trong khuôn khổ của chuẩn mực kế toán. Do đó, 
hành động quản trị lợi nhuận là tuân thủ khuôn 
khổ pháp lý và là sự vận động khéo léo, linh hoạt 
của các “khoảng không tự do” mà chuẩn mực để lại 
để sắp xếp BCTC theo cách thuận lợi nhất cho công 
ty hay cho chính họ chứ không phải hành động phi 
pháp. Theo đó, để tăng cường có thể so sánh thông 
tin trình bày trên BCTC, chuẩn mực kế toán yêu 
cầu DN cần phải áp dụng chính sách kế toán một 
cách nhất quán đối với các sự kiện và các giao dịch 
tương tự nhau. Khi có sự thay đổi chính sách kế 
toán thì cần phải thuyết minh lại sự thay đổi và 
ảnh hưởng của nó đối với BCTC, hoặc phải điều 
chỉnh hồi tố số liệu đầu kỳ. Sự lựa chọn chính sách 
kế toán phụ thuộc vào xét đoán của nhà quản lý 
để đảm bảo BCTC phản ánh trung thực nhất thực 
trạng kinh tế của DN. Chính vì lý do đó NQT có 
thể lựa chọn chính sách kế toán có lợi nhất để đạt 
được mục đích gì đó. 
- Lựa chọn chính sách kế toán ghi nhận doanh 
thu, giá vốn: Ta thấy rằng việc lựa chọn chính sách 
kế toán về doanh thu và giá vốn sẽ tác động rất lớn 
đến lợi nhuận trong kỳ vì doanh thu và giá vốn là 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 51Số 118 - tháng 8/2017
hai chỉ tiêu quan trọng trên báo cáo hoạt động kinh 
doanh. Ví dụ đối với những hợp đồng dài hạn thì 
DN được phép lựa chọn chính sách kế toán doanh 
thu theo tiến độ thực hiện hoặc theo tỷ lệ phần 
trăm hoàn thành như đối với DN xây dựng, việc 
thi công công trình kéo dài. Do đó, NQT có thể 
lựa chọn chính sách kế toán để xác định doanh thu 
theo tiến độ thực hiện hay tỷ lệ phần trăm hoàn 
thành công trình. Nhưng việc xác định theo tiến 
độ thực hiện hay tỷ lệ phần trăm hoàn thành cũng 
có thể dựa vào xét đoán của NQT khi xác định mức 
doanh thu và giá vốn được ghi nhận trong kỳ tính 
thuế hiện tại. 
- Lựa chọn chính sách kế toán đánh giá hàng 
tồn kho:
+ Chính sách đối với tính giá thành sản phẩm: 
Lựa chọn phương pháp tính giá thành sản phẩm và 
phương pháp đánh giá giá thành sản phẩm dở dang 
cuối kỳ khác nhau như phương pháp trực tiếp, 
phương pháp tỷ lệ, phương pháp hệ số, phương 
pháp loại trừ sản phẩm phụ, phương pháp theo 
đơn đặt hàng, phương pháp phân bước có thể làm 
cho giá ... ua đó tác động đến lợi nhuận. 
- Lựa chọn phương pháp tính khấu hao: Lựa chọn 
phương pháp khấu hao TSCĐ cũng cho phép dịch 
chuyển lợi nhuận giữa các niên độ. Ví dụ phương 
pháp khấu hao giảm dần sẽ ghi nhận chi phí khấu 
hao cao trong những năm đầu sử dụng tài sản và 
ghi nhận chi phí khấu hao thấp trong những năm 
sau sử dụng tài sản. So với DN sử dụng phương 
pháp khấu hao đường thẳng, DN áp dụng phương 
pháp khấu hao giảm dần sẽ trình bày trên bảng cân 
đối kế toán có giá trị thấp hơn và lợi nhuận trên 
báo cáo hoạt động kinh doanh thấp hơn. 
- Lựa chọn chính sách kế toán về đánh giá tổn 
thất tài sản: Chuẩn mực kế toán yêu cầu DN cần 
đánh giá tổn thất cho các tài sản phải khấu hao và 
các tài sản không khấu hao như lợi thế thương mại. 
Việc đánh giá tổn thất tài sản dựa trên nhiều xét 
đoán của NQT liên quan đến giá cả hợp lý, giá trị 
sử dụng, giá trị thu hồi Do đó, cũng tạo cơ hội 
cho nhà quản lý thực hiện hành động quản trị lợi 
nhuận của DN. 
* Quản trị lợi nhuận thông qua thực hiện ước 
tính kế toán: Thủ thuật lựa chọn chính sách kế toán 
là thủ thuật phổ biến nhất mà các NQT thường sử 
dụng để điều chỉnh lợi nhuận. Do hệ thống chuẩn 
mực kế toán nói chung cho phép sử dụng nhiều 
chính sách kế toán khác nhau để ghi nhận và trình 
bày một loại sự kiện, nghiệp vụ. Thủ thuật này được 
gọi tên là thủ thuật “Cookie jar reservers” (CJR). 
Nguyên tắc hoạt động chung của CJR là lập các 
dự phòng và trích trước nhiều hơn mức cần thiết 
nhằm mục đích sử dụng cho tương lai khi cần thiết. 
Nhà quản lý thường có xu hướng ghi nhận chi phí 
cao trong kỳ kế toán hiện tại và thông qua đó sẽ 
giảm chi phí ghi nhận trong các kỳ trong tương lai. 
Trong việc thực hiện các ước tính kế toán, có thể 
chia thành ước tính kế toán một lần và ước tính kế 
toán mỗi kỳ.
Ước tính kế toán một lần được áp dụng một lần 
khi nghiệp vụ kinh tế phát sinh, chẳng hạn: 
Ước tính thời gian khấu hao tài sản cố định: 
DN được tự quyết định thời gian sử dụng tài sản 
cố định trong khoảng thời gian theo quy định về 
mức khấu hao. Vì vậy, NQT có thể sử dụng thời 
gian khấu hao tài sản cố định để quản trị được 
mức lợi nhuận theo mong muốn. Và DN được 
quyền khấu hao nhanh khi có đủ bằng chứng 
chứng minh rằng DN có hiệu quả hoạt động kinh 
tế cao và cần thiết để đổi mới công nghệ. Vì vậy, 
khi DN đã vượt quá mức lợi nhuận mong muốn 
thì NQT có thể sử dụng ước tính này để điều 
chỉnh thu nhập giảm xuống.
Ước tính số lần phân bổ hay mức phân bổ của chi 
phí trả trước: Thời gian phân bổ công cụ dụng cụ hay 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN52 Số 118 - tháng 8/2017
số lần phân bổ công cụ dụng cụ là do DN tự xác định 
dựa vào đặc điểm của công cụ dụng cụ, tính chất 
công việc, công suất sử dụng công cụ dụng cụ. Do 
đó, có thể cùng là một công cụ dụng cụ nhưng các 
DN có khi lại phân bổ công cụ dụng cụ khác nhau về 
thời gian và số lần phân bổ. Vì vậy nhà quản lý cũng 
có thể điều chỉnh được khoản chi phí này.
Uớc tính kế toán vào mỗi kỳ được thực hiện vào 
cuối mỗi kỳ kế toán, chẳng hạn:
- Ước tính chi phí bảo hành sản phẩm: Nhiều 
DN bán sản phẩm kèm theo điều khoản bảo hành 
sản phẩm trong một khoảng thời gian nhất định. 
Khi sản phẩm bị hư hỏng và được bảo hành, DN 
sẽ phát sinh chi phí để sửa chữa sản phẩm hoặc đổi 
mới sản phẩm cho khách hàng. Theo chuẩn mực 
kế toán chi phí bảo hành sản phẩm trong tương 
lai là để tạo ra doanh thu bán hàng trong hiện tại, 
do đó theo nguyên tắc cơ sở dồn tích, chi phí bảo 
hành sản phẩm trong tương lai phải được ghi nhận 
cùng thời kỳ với doanh thu bán hàng khi ghi nhận 
sản phẩm được bán ra. Để xác định khoản chi phí 
bảo hành sản phẩm cần được ghi nhận trên BCTC, 
chuẩn mực kế toán cho phép DN sử dụng xét đoán 
liên quan đến tỷ lệ sản phẩm bảo hành bình quân 
của quá khứ và chi phí bảo hành trên mỗi đơn vị 
sản phẩm để tính chi phí bảo hành đối với doanh số 
bán hàng trong kỳ kế toán hiện tại. Việc cho phép 
sử dụng xét đoán sẽ tăng cơ hội cho nhà quản lý 
quản trị được lợi nhuận thông qua ước tính chi phí 
bảo hành sản phẩm cao hơn hoặc thấp hơn mức 
cần trích lập.
- Ước tính tỷ lệ hoàn thành công trình xây lắp 
và cung cấp dịch vụ: Trong nhiều lĩnh vực như xây 
dựng, hợp đồng dịch vụ phát triển phần mềm
Khi hợp đồng dài hạn được thanh toán theo tiến độ 
kế hoạch, doanh thu và chi phí liên quan đến hợp 
đồng được ghi nhận với phần tương ứng công việc 
đã hoàn thành dựa trên biên bản nghiệm thu được 
hai bên xác nhận. Phương pháp tỷ lệ hoàn thành 
được áp dụng bởi vì phương pháp này giải quyết 
được vấn đề sự phù hợp giữa doanh thu và chi phí 
tạo ra doanh thu. Nhưng đối với việc xây dựng một 
ước tính kế toán hợp lý, mức chính xác của doanh 
thu đã hoàn thành và mức chi phí tương ứng với 
doanh thu sẽ gặp nhiều khó khăn và cũng dựa rất 
nhiều trên xét đoán của hai bên. Do vậy, sẽ tạo cơ 
hội cho hành vi thực hiện quản trị lợi nhuận của 
nhà quản lý. 
- Ước tính khoản phải thu khó đòi để lập dự 
phòng: Các DN thường cung cấp một hạn mức tín 
dụng cho khách hàng, do đó hầu hết các DN đều 
có nợ phải thu. Thủ thuật CJR dựa trên khoản mục 
dự phòng phải thu khó đòi theo yêu cầu của chuẩn 
mực kế toán về việc lập dự phòng đối với các khoản 
nợ phải thu có khả năng không thu hồi được. Theo 
chuẩn mực kế toán, khoản mục nợ phải thu cần 
được trình bày trên BCTC theo giá trị thuần có 
thể thực hiện được. Khi đó nhà quản lý cần ước 
tính các khoản nợ không thể thu hồi được để lập 
dự phòng. Mức trích lập có thể là 30%, 50%, 70%, 
100% tùy theo tuổi nợ quá hạn của các khoản nợ. 
Thông thường phương pháp lập dự phòng nợ phải 
thu khó đòi đòi hỏi nhiều xét đoán của nhà quản 
lý, do đó tạo cơ hội cho hành vi quản trị thu nhập.
- Ước tính khoản giá trị hàng tồn kho bị giảm 
giá để lập dự phòng: Khi giá trị thuần có thể thực 
hiện được của hàng tồn kho thấp hơn so với giá 
gốc thì DN cần lập dự phòng giảm giá hàng tồn 
kho (chuẩn mực số 02 về hàng tồn kho). Ngược lại, 
khi giá trị thuần của hàng tồn kho được phục hồi 
lại thì DN phải hoàn nhập dự phòng đã trích trước 
đó. Việc lập chi phí dự phòng giảm giá hàng tồn 
kho là hợp pháp theo pháp luật Việt Nam. Vì vậy, 
nhà quản lý có thể sử dụng thủ thuật CJR để điều 
chỉnh lợi nhuận trong kỳ. Trong kỳ kế toán hiện tại 
nhà quản lý lập dự phòng hàng tồn kho nhiều hơn 
hoặc thấp hơn mức thực tế cần lập để điều chỉnh 
lợi nhuận. Trong những kỳ sau khoản dự phòng đó 
được hoàn nhập khi hàng tồn kho được bán hoặc 
có bằng chứng về sự phục hồi của giá trị thuần có 
thể thực hiện được. 
Sở dĩ cần phân biệt quản trị lợi nhuận thông 
qua lựa chọn chính sách kế toán và quản trị lợi 
nhuận thông qua thực hiện các ước tính kế toán 
là vì điều này sẽ giúp phân biệt được khả năng vận 
dụng hai hình thức trên để thực hiện hành vi quản 
trị lợi nhuận. Khi nhà quản lý lựa chọn để áp dụng 
một chính sách kế toán hay một phương pháp kế 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 53Số 118 - tháng 8/2017
toán cụ thể, nguyên tắc nhất quán yêu cầu DN phải 
nhất quán chính sách đó trong nhiều kỳ kế toán 
khác nhau, nếu có thay đổi giữa hai kỳ thì cần phải 
có thuyết minh sự thay đổi chính sách kế toán và 
mức độ ảnh hưởng đến sự thay đổi này đến lợi 
nhuận trên BCTC. Do đó, việc áp dụng lựa chọn 
một chính sách kế toán để điều chỉnh lợi nhuận 
thường chỉ có thể áp dụng ở một kỳ kế toán nhất 
định. Trong khi việc thực hiện ước tính kế toán ta 
thấy có thể chia thành hai loại: ước tính một lần và 
ước tính mỗi kỳ. Các ước tính thực hiện một lần 
thì cũng có thể được sử dụng để thực hiện hành 
vi điều chỉnh lợi nhuận như đối với việc lựa chọn 
chính sách kế toán nhưng những ước tính thực 
hiện mỗi kỳ thì có thể được vận dụng vào mỗi kỳ 
và đây là công cụ để nhà quản lý sử dụng thường 
xuyên hành vi điều chỉnh lợi nhuận. 
* Quản trị lợi nhuận thông qua quyết định 
quản lý về thực hiện nghiệp vụ kinh tế
- Chính sách quyết định về việc thực hiện sản 
xuất, tiêu thụ sản phẩm: Nhà quản lý có thể quyết 
định sản xuất hoặc thay đổi chính sách bán hàng 
nhằm đạt được mức lợi nhuận mục tiêu. Ví dụ khi 
DN muốn tăng lợi nhuận, nhà quản lý sẽ quyết 
định tăng sản xuất, khi đó định phí cố định sẽ 
được phân bổ cho nhiều sản phẩm hơn nên định 
phí trên mỗi đơn vị sản phẩm giảm. Khi mức độ 
tăng lên của định phí không bị bù trừ bởi chi phí 
biên thì tổng chi phí của một đơn vị sản phẩm giảm 
xuống. Từ đó giá thành sản phẩm giảm dẫn đến giá 
vốn hàng bán giảm và lãi gộp cao hơn. Nhưng khi 
DN tăng sản xuất sẽ làm giảm dòng tiền hoạt động 
với mức doanh thu không đổi. Hoặc đối với chính 
sách bán hàng, khi NQT muốn đạt mức lợi nhuận 
mục tiêu để nhận các khoản lợi ích cá nhân thì họ 
có thể đưa ra chính sách giảm giá, khuyến mãi hoặc 
nới lỏng thời gian thanh toán của khách hàng. Khi 
đó doanh thu tạm thời sẽ tăng nhưng điều này sẽ 
không còn khi DN trở lại mức giá hoặc chính sách 
như cũ. Việc giảm giá và nới lỏng chính sách bán 
hàng sẽ làm giảm dòng tiền hoạt động của kỳ kế 
toán hiện tại.
- Chính sách về thực hiện nghiệp vụ thanh lý tài 
sản dài hạn: Nếu lợi nhuận trong kỳ đạt thấp DN 
cũng có thể quyết định nhượng bán tài sản trong 
kỳ để điều chỉnh lợi nhuận. NQT có thể chọn thời 
điểm thanh lý tài sản, nếu việc thanh lý tài sản cố 
định dẫn đến lợi nhuận bị giảm, DN có thể quyết 
định thực hiện kỳ này để giảm lợi nhuận hoặc đẩy 
kỳ sau để làm giữ mức lợi nhuận đạt được trong kỳ. 
Thông thường các DN có lợi nhuận giảm sẽ có thu 
nhập từ thanh lý tài sản cố định nhiều hơn so với 
các DN có lợi nhuận tăng, đây là dấu hiệu của hành 
vi quản trị lợi nhuận. 
- Quyết định về việc thực hiện các khoản chi phí: 
Nhà quản lý có thể điều chỉnh chi phí thông qua 
việc quyết định thực hiện quyết định thực hiện 
các khoản chi phí như chi phí quảng cáo, chi phí 
nghiên cứu và phát triển, chi phí sửa chữa tài sản 
cố định.
- Quyết định về đầu tư dài hạn: Chuẩn mực kế 
toán phân loại khoản đầu tư vào một công ty khác 
dựa trên mức độ ảnh hưởng của nhà đầu tư đối với 
đơn vị nhận đầu tư. Ví dụ như đầu tư vào công ty 
con (nếu như nhà đầu tư nắm giữ quyền kiểm soát, 
thông thường nắm giữ trên 50% tỷ lệ lợi ích trong 
đơn vị nhận đầu tư), đầu tư vào công ty liên kết, 
đầu tư liên doanh đồng kiểm soát, đầu tư khác
Khi đó nhà quản lý có cơ hội để thực hiện chiến 
lược bán các khoản đầu tư có lãi hoặc giữ lại các 
khoản đầu tư lỗ để đẩy kết quả kinh doanh của kỳ 
hiện tại. Hoặc nhà quản lý sẽ làm ngược lại nếu 
muốn điều chỉnh giảm lợi nhuận.
* Quản trị lợi nhuận thông qua hành vi vận 
dụng sai các quy định kế toán
Đây là hành vi cố tình làm sai các quy định kế 
toán để điều chỉnh lợi nhuận, bao gồm cả hành vi 
gian lận. Các hành vi này thông thường là các đối 
tượng chú ý của kiểm toán, do vậy các hành vi này 
thường được phát hiện bởi kiểm toán viên khi kiểm 
toán BCTC, như cố tình ghi nhận tài sản sai niên 
độ, che giấu các khoản công nợ và chi phí Ví dụ 
như số liệu kế toán của Tập đoàn Công nghiệp Tàu 
thủy Vinashin đã được Công ty Kiểm toán KPMG 
phát hiện ra rất nhiều các sai phạm làm lệch lạc đến 
kết quả lợi nhuận kinh doanh. Cụ thể, như Vinashin 
đã che giấu các khoản lỗ thông qua các biện pháp 
kế toán. Mặc dù, kết quả BCTC của Vinashin cho 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN54 Số 118 - tháng 8/2017
thấy năm 2009 Tập đoàn này lỗ 1.682,5 tỷ đồng 
nhưng số lỗ thực tế là 4.954 tỷ đồng, tăng lỗ thêm 
3.302 tỷ so với số liệu trước kiểm toán. Trong đó, 
Tập đoàn Vinashin đã sử dụng các hành vi để quản 
trị lợi nhuận, giấu mức lỗ thực như: chưa phân bổ 
hết chi phí đối với những hợp đồng đóng tàu đã 
hoàn thành, chưa ghi nhận chi phí phải trả cho các 
công ty quản lý tàu, chưa trích khấu hao tài sản cố 
định đối với những tài sản đã đưa vào sử dụng theo 
quy định, chưa phân bổ các khoản trả trước dài 
hạn và rất nhiều các sai phạm khác. 
5. kết luận 
Chất lượng thông tin trên BCTC của các công ty 
đang là một vấn đề được các nhà quản lý, nhà đầu 
tư quan tâm. Một trong những nguyên nhân quan 
trọng ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các 
công ty niêm yết là hành vi quản trị lợi nhuận của 
nhà quản lý của các công ty. Do đó, làm rõ động cơ 
và cách thức thực hiện hành vi này là rất cần thiết. 
Điều này cung cấp cho các cổ đông, ban quản trị 
một số kiến thức lẫn lưu ý trong quá trình tái cấu 
trúc doanh nghiệp được hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ayers, B. C. 1998. Deferred tax 
accounting under SFAS No. 109: An 
empirical investigation of its incremental 
value-relevance relative to APB No. 11. The 
Accounting Review 73 (2): 195–212;
2. Boynton, C. E., Dobbins, P. S., & Plesko, G. 
A. (1992). Earnings management and the 
corporate alternative minimum tax. Journal 
of Accounting Research, 131-153;
3. Dechow P. M. Sloan R.G. Sweeney A. P. 
1995, Detecting earnings management. 
The Accounting Review, Vol. 70, No 2, pp. 
193-225;
4. Guidry, F., Leone, A. J., & Rock, S. (1999). 
Earnings-based bonus plans and earnings 
management by business-unit managers. 
Journal of accounting and economics, 26(1), 
113-142;
5. Giang Thanh.2011, Lợi nhuận ảo lộ diện trong 
BCTC soát xét.Tạp chí Đầu tư Chứng khoán;
6. Han, J. C., & Wang, S. W. (1998). Political 
costs and earnings management of oil 
companies during the 1990 Persian Gulf 
crisis. Accounting Review, 103-117;
7. Healy, P. M., & Wahlen, J. M. (1999). A review 
of the earnings management literature 
and its implications for standard setting. 
Accounting horizons, 13(4), 365-383;
8. Huỳnh Thị Vân, 2012, Nghiên cứu hành vi 
điều chỉnh lợi nhuận ở các công ty cổ phần 
trong năm đầu niêm yết trên thị trường 
chứng khoán Việt Nam. Luận văn thạc sĩ. 
Đại học Đà Nẵng;
9. Jones J.,1991, Earnings management during 
import relief Investigations. Journal 
ofAccounting Research, Vol. 29, pp. 193-228;
10. Kothari S.P. and Leone, Andrew J. and 
Wasley Charles E., 2005, Performance 
Matched Discretionary Accrual Measures. 
Journal of Accounting & Economics, Vol. 39, 
No. 1, pp163-197;
11. Miller, G. S., and D. J. Skinner. 1998. 
Determinants of the valuation allowances 
for deferred tax assets under SFAS No. 109. 
The Accounting Review 73 (2): 213–233;
12. Phạm Thị Bích Vân, 2012, Mô hình nhận 
diện điều chỉnh lợi nhuận của các doanh 
nghiệp niêm yết ở Sở Giao dịch chứng khoán 
Tp.HCM. Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 258, 
tr.35-42;
13. Phạm Thị Bích Vân. 2012, Nghiên cứu ảnh 
hưởng của thuế TNDN đến sự lựa chọn 
chính sách kế toán của các DN trên địa bàn 
TP Đà Nẵng . Tạp chí Khoa học Công nghệ 
số 04/2012- ĐH Đà Nẵng;
14. Phạm Thị Bích Vân. 2013, Quản trị lợi 
nhuận của các DN phát hành thêm cổ phiếu 
trên sở giao dịch chứng khoán TPHCM. Tạp 
chí Ngân hàng số 18;
15. Ronen J., Yaari V., 2008, Earning 
management Emerging insights in theory, 
practices and research. Springer;
16. Scott, W. R. (1997). Financial accounting 
theory . Upper Saddle River, NJ: Prentice hall.
17. Schipper, K. (1989). Commentary on 
earnings management. Accounting horizons, 
3(4), 91-102;
18. Visvanathan, G. 1998. Deferred tax valuation 
allowances and earnings management. 
Journal of Financial Statement Analysis 3 
(4): 6–15.

File đính kèm:

  • pdfdong_co_va_cach_thuc_thuc_hien_hanh_vi_quan_tri_loi_nhuan_th.pdf