Đổi mới đào tạo kế toán - kiểm toán ở các trường Cao đẳng, Đại học trên địa bàn thành phố hải phòng nhằm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động
Trong hoàn cảnh đó, kế toán, kiểm
toán cũng phải đáp ứng những yêu cầu mới,
cụ thể như: Tính chuyên nghiệp và trách
nhiệm xã hội của kế toán, kiểm toán; tăng
cường năng lực chuyên môn, đạo đức nghề
nghiệp. Trong lộ trình hội nhập và thực hiện
các cam kết quốc tế, hệ thống kế toán, kiểm
toán Việt Nam đã và đang cải cách căn bản,
toàn diện trên cơ sở tiếp cận có chọn lọc với
những nguyên tắc, thông lệ kế toán, kiểm
toán phổ biến của quốc tế nhằm tạo dựng
khuôn khổ pháp lý và ban hành các hệ thống
kế toán và kiểm toán và đổi mới việc đào tạo,
bồi dưỡng kế toán và kiểm toán. Cần hướng
tới mục tiêu công nhận quốc tế về hệ thống
kế toán và kiểm toán Việt Nam, tạo dựng đầy
đủ khuôn khổ pháp lý cho hoạt động dịch vụ
kế toán, kiểm toán; tiếp tục mở rộng thị
trường, phát triển thêm số lượng và tăng
cường chất lượng dịch vụ của các tổ chức
dịch vụ và tổ chức nghề nghiệp hiện có ở
Việt Nam. Theo các cam kết quốc tế, Việt
Nam sẽ từng bước mở cửa lĩnh vực kế toán,
kiểm toán và tư vấn tài chính với mục tiêu
mở cửa rộng rãi vào năm 2020. Đây là cơ hội
và cũng là thách thức đối với hoạt động kế
toán, kiểm toán tại Việt Nam nói chung và
lĩnh vực đào tạo kế toán, kiểm toán nói riêng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đổi mới đào tạo kế toán - kiểm toán ở các trường Cao đẳng, Đại học trên địa bàn thành phố hải phòng nhằm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động
18 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN Ở CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG Đào Minh Hằng Khoa Kế toán - Tài chính Email: hangdm@dhhp@.edu.vn Ngày nhận bài:17/11/2017 Ngày PB đánh giá:25/12/2017 Ngày duyệt đăng:05/01/2018 TÓM TẮT Mục đích của nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng đào tạo kế toán - kiểm toán tại các trường cao đẳng, đại học trên địa bàn Hải Phòng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ đang diễn ra ở Việt Nam. Trên cơ sở đó có các đánh giá và phương hướng đổi mới chương trình, nội dung và cách thức đào tạo kế toán, kiểm toán nhằm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động. Từ khóa: đổi mới đào tạo, kế toán, kiểm toán, hội nhập kinh tế quốc tế ACCOUNTING AND AUDITING TRAINING INNOVATION AT COLLEGES AND UNIVERSITIES IN HAI PHONG TOWARDS REQUIREMENTS FOR VIETNAM’S INTERNATIONAL ECONOMIC INTEGRATION ABSTRACT The purpose of this research is to find out the reality of accounting - auditing training in all the colleges and universities located in HaiPhong in the context of strong international economic integration of Vietnam. On that basis, the author evaluated the accounting-auditing training methods and the curriculum content and proposed orientation for the teaching program renewal in order to meet the requirements for the global integration. Key words: training innovation, accounting, auditing, international economic integration. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trước yêu cầu của nền kinh tế và trong tiến trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, kế toán, kiểm toán đã phát triển và trở thành một ngành, một loại hình dịch vụ thiết yếu. Theo PGS, TS. Đặng Văn Thanh, Chủ tịch Hội kế toán và kiểm toán Việt Nam:“Đây là thời cơ lớn và thuận lợi để kế toán, kiểm toán Việt Nam hội nhập sâu hơn vào môi trường quốc tế. Tuy nhiên, vẫn cần sự chủ động chuẩn bị của ngành về nhân lực, năng lực hành nghề nhằm hạn chế tối thiểu những tổn 19 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 26, tháng 1/2018 thất, thiệt hại, bất lợi cho nền kinh tế”. Hoạt động dịch vụ kế toán, kiểm toán Việt Nam được phát triển cùng với việc tiếp tục tạo lập hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý, tăng cường hoạt động các tổ chức nghề nghiệp. Kế toán và người làm kế toán, kiểm toán không chỉ làm nhiệm vụ tổ chức hệ thống thông tin tài chính kế toán mà đã trở thành một ngành, một lĩnh vực dịch vụ. Phát triển các hoạt động dịch vụ kế toán, kiểm toán theo xu hướng phát triển của các nước trong khu vực và quốc tế, tạo dựng và mở rộng giao lưu nghề nghiệp. Bên cạnh đó, thời đại ngày nay là thời đại của khoa học kỹ thuật, công nghệ, sự phát triển của công nghệ thông tin là sự hỗ trợ quan trọng và đắc lực cho quản trị kinh doanh. Kế toán là ngành và lĩnh vực sớm tiếp cận công nghệ thông tin và sử dụng công nghệ thông tin vào nghiệp vụ thay thế phần lớn công việc mang tính nghiệp vụ của những người làm kế toán và kiểm toán. Điều đó ảnh hưởng đáng kể tới tính chất công việc kế toán và đặc biệt là nội dung và cách thức đào tạo về kế toán, kiểm toán. Trong hoàn cảnh đó, kế toán, kiểm toán cũng phải đáp ứng những yêu cầu mới, cụ thể như: Tính chuyên nghiệp và trách nhiệm xã hội của kế toán, kiểm toán; tăng cường năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp. Trong lộ trình hội nhập và thực hiện các cam kết quốc tế, hệ thống kế toán, kiểm toán Việt Nam đã và đang cải cách căn bản, toàn diện trên cơ sở tiếp cận có chọn lọc với những nguyên tắc, thông lệ kế toán, kiểm toán phổ biến của quốc tế nhằm tạo dựng khuôn khổ pháp lý và ban hành các hệ thống kế toán và kiểm toán và đổi mới việc đào tạo, bồi dưỡng kế toán và kiểm toán. Cần hướng tới mục tiêu công nhận quốc tế về hệ thống kế toán và kiểm toán Việt Nam, tạo dựng đầy đủ khuôn khổ pháp lý cho hoạt động dịch vụ kế toán, kiểm toán; tiếp tục mở rộng thị trường, phát triển thêm số lượng và tăng cường chất lượng dịch vụ của các tổ chức dịch vụ và tổ chức nghề nghiệp hiện có ở Việt Nam. Theo các cam kết quốc tế, Việt Nam sẽ từng bước mở cửa lĩnh vực kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính với mục tiêu mở cửa rộng rãi vào năm 2020. Đây là cơ hội và cũng là thách thức đối với hoạt động kế toán, kiểm toán tại Việt Nam nói chung và lĩnh vực đào tạo kế toán, kiểm toán nói riêng. 2. XÂY DỰNG GIẢ THUYẾT VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Hiện nay, trên địa bàn Hải Phòng mới chỉ có 02 cơ sở đào tạo chính thức hệ đại học về kế toán, kiểm toán là Khoa Kế toán - Tài chính, trường Đại học Hải Phòng và khoa Quản trị kinh doanh, trường Đại học Dân lập Hải Phòng. Ngoài ra còn có các trường có đào tạo các hệ cao đẳng, trung cấp kế toán là các trường Cao đẳng nghề Kinh tế và kỹ thuật Bắc Bộ, Cao đẳng nghề Duyên hải, trường Cao đẳng nghề Bắc Nam, trường Cao đẳng nghề bách nghệ, trường Cao đẳng nghề và Du lịch Hải Phòng. Nhìn chung, việc đào tạo chính thống và chuyên sâu đội ngũ nhân lực kế toán, kiểm toán cho Hải Phòng và khu vực duyên hải Bắc bộ mới chỉ tập trung ở trường Đại học Hải Phòng. Để có cái nhìn cụ thể về hoạt động đào tạo kế toán, kiểm toán, tác giả thực hiện lấy phiếu khảo sát các sinh viên năm thứ 3, 4 và sinh viên đã tốt nghiệp ngành kế toán, kiểm toán của các trường trên địa bàn Hải Phòng đang làm việc tại các doanh nghiệp. Đối với các sinh viên đang theo học, việc khảo sát sẽ giúp tác giả nhìn nhận được thực tế cách thức, nội dung đào tạo hiện nay. Còn đối với các sinh viên đã tốt nghiệp - 20 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG những người đang làm việc trực tiếp tại các vị trí kế toán, kiểm toán trong doanh nghiệp, sẽ giúp trả lời câu hỏi Liệu nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán được cung cấp bởi các trường ĐH, CĐ ở Hải Phòng còn gặp các khó khăn, còn thiếu những kiến thức, kỹ năng nào để tiếp cận với các chuẩn nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động ? Để thu thập số liệu và thông tin phục vụ đánh giá rõ nét hơn thực trạng đào tạo kế toán, kiểm toán những năm qua và đánh giá về cơ bản về kết quả hoạt động đào tạo, tác giả đã phỏng vấn trực tiếp hoặc gửi thư điện tử bảng câu hỏi khảo sát dành cho sinh viên chuyên ngành kế toán đến các sinh viên và cựu sinh viên của các trường ĐH, CĐ ở Hải Phòng. Các câu hỏi trong phiếu khảo sát là các câu hỏi đóng (định lượng theo thang đo Likert 5 bậc, mô tả thực trạng đào tạo với 5 mức độ từ mức 1- hoàn toàn không đồng ý/ rất thấp đến mức 5- hoàn toàn đồng ý/ rất cao) và các câu hỏi mở để người phản hồi đưa ra các ý kiến đề xuất. Bên cạnh đó, tác giả cũng thực hiện phỏng vấn trực tiếp bằng cách sử dụng các câu hỏi mở đối với một số nhà quản lý sử dụng lao động tại một số doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp kiểm toán và ngân hàng ở Hải Phòng. Các câu hỏi mở xoay quanh những đánh giá của các trưởng/phó phòng tài chính, kế toán trưởng, giám đốc/chủ nhiệm kiểm toán về khả năng đáp ứng yêu cầu công việc của các sinh viên kế toán, kiểm toán tốt nghiệp từ các trường ĐH, CĐ tại Hải Phòng. Sau khảo sát các sinh viên và cựu sinh viên đang làm việc tại các doanh nghiệp, tác giả đã thu về 127 phiếu hợp lệ. Về cơ cấu trả lời khảo sát, trong số 127 phiếu, có 98 phiếu phản hồi là nữ, chiếm 77,2% và 29 phiếu là nam, chiếm 22,8%. Điều này phản ánh đúng thực tiễn trong hoạt động kế toán hiện nay, do đặc thù nghề nghiệp nên số lượng nữ tham gia khá lớn. Đa phần các phiếu hợp lệ này do các sinh viên và cựu sinh viên chuyên ngành kế toán, kiểm toán của trường ĐH Hải Phòng phản hồi (chiếm tỷ lệ lần lượt là 51,2% và 26,1%), còn lại là của sinh viên chuyên ngành kế toán hoặc quản trị tài chính kế toán các trường ĐH, CĐ khác trên địa bàn. Nội dung khảo sát bao gồm các vấn đề: (1) Mục tiêu và nội dung chương trình đào tạo kế toán, kiểm toán nhằm đáp ứng như cầu người tuyển dụng; (2) Hoạt động giảng dạy kế toán, kiểm toán đáp ứng định hướng thực hành; Cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ học tập và giảng dạy trong điều kiện công nghệ; Đánh giá của sinh viên về kết quả đào tạo. Để đánh giá về thực trạng đào tạo kế toán, kiểm toán tại các trường ĐH, CĐ trên địa bàn Hải Phòng, tác giả thực hiện kiểm định Independen T- test, tìm ra liệu có sự khác biệt giữa việc đào tạo giữa các trường. ĐH Hải Phòng là cơ sở đào tạo chính về kế toán, kiểm toán tại Hải Phòng, do đó tác giả thực hiện kiểm định với 2 nhóm sinh viên/cựu sinh viên kế toán, kiểm toán của trường ĐH Hải Phòng (nhóm 1) và của các trường ĐH, CĐ còn lại trên địa bàn (nhóm 2). Giả thuyết được đưa ra: H1: Có sự khác biệt trong mục tiêu và nội dung chương trình đào tạo kế toán, kiểm toán nhằm đáp ứng nhu cầu người tuyển dụng giữa nhóm 1 và 2. H2: Có sự khác biệt trong hoạt động giảng dạy kế toán, kiểm toán đáp ứng định hướng thực hành giữa nhóm 1 và 2. H3: Có sự khác biệt về cơ sở vật chất, tài liệu, điều kiện phục vụ học tập và giảng dạy trong điều kiện công nghệ hiện nay giữa nhóm 1 và 2 21 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 26, tháng 1/2018 H4: Có sự khác biệt trong kết quả đào tạo kế toán, kiểm toán nhằm đáp ứng nhu cầu của người tuyển dụng lao động và xã hội giữa nhóm 1 và 2 Trong kiểm định Independent-samples T-test, ta cần dựa vào kết quả kiểm định sự bằng nhau của 2 phương sai tổng thể bằng kiểm định Levene, với độ tin cậy kiểm định 95% (mức α = 0,05). Nếu giá trị Sig. của kiểm định F trong kiểm định Levene lớn hơn mức α thì phương sai của 2 tổng thể đồng đều, tác giả sử dụng kết quả kiểm định t trong trường hợp không có sự khác nhau giữa phương sai của hai tổng thể. Ngược lại, tác giả sử dụng kết quả kiểm định t trong trường hợp có sự khác nhau giữa phương sai của hai tổng thể. Khi giá trị sig. của kiểm định t nhỏ hơn mức ý nghĩa α thì có thể khẳng định giữa 2 trung bình tổng thể có giá trị khác biệt và tiếp tục kiểm tra sự tác động của tổng thể đó tới biến định lượng bằng giá trị mean. Kết quả kiểm định các giả thuyết này sẽ giúp xác định liệu có sự khác biệt trong quá trình đào tạo kế toán, kiểm toán giữa các trường ĐH, CĐ trên địa bàn Hải Phòng hiện nay, đồng thời, thông qua kết quả thống kê mô tả và phản hồi về chất lượng sinh viên từ các nhà quản lý tại các doanh nghiệp có thể nhận định về thực trạng đào tạo kế toán, kiểm toán hiện nay. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN TẠI CÁC TRƢỜNG ĐH, CĐ TRÊN ĐỊA BÀN HẢI PHÕNG Tác giả kiểm định chất lượng thang đo của các câu hỏi trong phiếu khảo sát. Thang đo được đánh giá chấp nhận và tốt đòi hỏi đồng thời 2 điều kiện: hệ số Cronbach‟s Alpha (CA) tổng thể > 0,6 và hệ số tương quan biến -tổng (Corrected Item-Total Correlation) > 0,3 Nunnally (1978), Peterson (1994). Căn cứ kết quả kiểm định Cronbach‟s Alpha cho từng thành phần nhân tố, kết luận về độ tin cậy thang đo và dữ liệu như sau: Bảng 1: Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo của các biến trong mô hình Thang đo CA tổng thể Biến thỏa độ tin cậy Cronbach's Alpha (CA) Biến bị loại Số biến Tên biến Số biến Tên biến Mục tiêu đào tạo kế toán, kiểm toán phù hợp với điều kiện hiện nay 0,810 3 MT1-Mục tiêu đào tạo kế toán, kiểm toán rõ ràng MT2-Việc đào tạo hướng tới việc gắn lý thuyết – thực hành, đáp ứng nhu cầu nhân lực kế toán, kiểm toán MT3-Nội dung đào tạo phản ánh mục tiêu đào tạo kế toán, kiểm toán trong điều kiện hiện nay 22 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG Chương trình đào tạo kế toán, kiểm toán đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực 0,787 6 CTDT1-Chương trình đào tạo kế toán, kiểm toán có khối lượng kiến thức đại cương phù hợp, là nền tảng cho chuyên ngành CTDT2-Các học phần trong chương trình đào tạo đã có sự cập nhật các kiến thức kế toán, kiểm toán quốc tế CTDT3-Thời lượng của chương trình đào tạo đủ để phát triển kiến thức, kỹ năng theo mục tiêu đào tạo kế toán, kiểm toán CTDT4-Chương trình đào tạo có sự phân bổ hợp lý giờ lý thuyết và thực hành nhằm giúp tiếp cận thực tiễn nghề kế toán - kiểm toán CTDT5-Việc đào tạo các kỹ năng chuyên môn phục vụ kế toán, kiểm toán (sử dụng máy tính, phần mềm) được chú trọng trong chương trình đào tạo CTDT6-Chương trình đào tạo có chú trọng giai đoạn thực tập nghề kế toán, kiểm toán và hợp tác với doanh nghiệp Đào tạo ngoại ngữ và kỹ năng mềm trong kế toán, kiểm toán 0,835 3 KNM1-Các học phần có cung cấp kỹ năng mềm phục vụ cho hoạt động kế toán, kiểm toán 1 KNM2- Các học phần đào tạo kỹ năng mềm như giao tiếp, làm KNM3-Thời lượng các học phần thực hành đủ để hình thành các kỹ năng nghề nghiệp chuyên môn KNM4-Đào tạo ngoại ngữ trong chương trình đào tạo kế 23 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 26, tháng 1/2018 toán, kiểm toán phù hợp với yêu cầu xã hội việc nhóm, nghiên cứu khoa học trong chương trình đào tạo là hữu ích Hoạt động giảng dạy kế toán, kiểm toán gắn với thực tiễn 0,836 4 GD1-Giảng viên có kiến thức chuyên môn sâu về kế toán, kiểm toán GD2-Giảng viên có phương pháp đào tạo phù hợp với chuyên ngành kế toán, kiểm toán, luôn tạo điều kiện để sinh viên phát huy khả năng GD3-Các vấn đề về lý thuyết và thực tiễn kế toán, kiểm toán luôn được giảng viên gợi mở, liên hệ GD4-Hoạt động giảng dạy theo định hướng nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, sinh viên được thực hành Cơ sở vật chất, tài liệu, điều kiện phục vụ học tập 0,784 2 CS1-Sinh viên được tiếp cận đầy đủ với các tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về kế toán, kiểm toán (trong nước và quốc tế) tại thư viện trường 1 CS3- Trường có các khu vực phục vụ học tập lý thuyết và thực hành, CS2-Trường có phòng kế toán ảo hoặc các trang thiết bị phục vụ việc thực hành kế toán, kiểm toán của sinh viên 24 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên Đánh giá về kết quả đào tạo có đáp ứng yêu cầu xã hội trong điều kiện hội nhập kế toán, kiểm toán 0,723 5 KQ1-Chương trình đào tạo ngành kế toán, kiểm toán có áp dụng được vào thực tế KQ2-Các kỹ năng chuyên môn của nghề kế toán, kiểm toán (sử dụng phần mềm, máy tính, phân tích, thực hành kiểm toán) thành thạo KQ3-Sinh viên được trang bị tốt về kỹ năng mềm trong hoạt động kế toán, kiểm toán KQ4-Khả năng giao tiếp ngoại ngữ và tìm hiểu tài liệu quốc tế về chuyên ngành kế toán, kiểm toán tốt KQ5-Sinh viên có khả năng tự nghiên cứu, tích lũy kiến thức để hội nhập quốc tế sâu rộng về kế toán, kiểm toán KQ6-Sinh viên sau tốt nghiệp tự tin tham gia tuyển dụng và làm việc tại các vị trí kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp (Nguồn: Tác giả tổng hợp kết quả phân tích dữ liệu từ SPSS 22.0) Sau khi thực hiện kiểm định Cronbach‟s Alpha cho 6 thang đo độc lập, có 2 biến không đủ độ tin cậy nên bị loại khỏi thang đo, tác giả tiếp tục phân tích nhân tố khám phá EFA với 6 thang đo trên. Theo Hair (1998), phân tích nhân tố là phù hợp khi Hệ số KMO (Kaiser-Meyer- Olkin) đạt giá trị 0,5 đến 1; kiểm định Bartlett có ý nghĩa thống kê (sig < 0,05), chứng tỏ các biến quan sát có tương quan với nh ... .08821 Đánh giá kết quả đào tạo kế toán, kiểm toán N2 2.9606 .48725 .06570 N1 CTDT4 4.0365 .72748 .10500 KQ1 3.9000 .8944 .2000 N2 3.9864 .56972 .07682 3.4333 .8172 .1492 N1 CTDT5 4.2000 .58346 .08422 KQ2 3.2500 .7164 .1602 N2 3.8848 .47236 .06369 3.1667 .8743 .,1596 N1 CTDT6 3.5384 .69009 .09961 KQ3 3.9000 .5712 .1277 N2 3.2899 .46391 .06255 3.8333 .5307 .0969 N1 KNM1 3.3229 .70326 .10151 KQ4 3.3500 .7452 .1666 N2 3.2818 .42507 .05732 3.3000 .5960 .1088 N1 KNM3 3.9521 .50781 .07330 KQ5 3.2521 1.0052 .2248 N2 3.4636 .48928 .06597 2.786 1.1919 .,2176 N1 KNM4 3.7500 .4443 .0993 KQ6 3.2503 .4443 .0993 N2 3.2333 .7279 .1329 3.1333 .6915 .1262 (Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu SPSS 22.0) Về kết quả phỏng vấn người sử dụng lao động, đa số người được hỏi (91,3%) đều cho rằng, sinh viên chuyên ngành kế toán – kiểm toán được đào tạo thường yếu ở các kỹ năng sử dụng các ứng dụng cơ bản như excel trong hạch toán, hay các phần mềm kế toán. Với các sinh viên kế toán các nhà quản lý được phỏng vấn đã đánh giá các sinh viên gần như chưa có kỹ năng trong việc lập báo cáo tài chính. Đối với các sinh viên mới tốt nghiệp làm việc tại các doanh nghiệp kiểm toán, việc trình bày thủ tục, kết quả kiểm toán trên các giấy tờ làm việc bằng excel thường gặp khó khăn. Bên cạnh đó các chương trình kiểm toán của các doanh nghiệp bằng tiếng Anh cũng là rào cản đối với sinh viên trong việc tiếp cận. 4. THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Theo bảng 4, thực trạng đào tạo kế toán, kiểm toán ở các trường ĐH, CĐ trên địa bàn Hải Phòng thể hiện ở các khía cạnh như sau: - Thứ nhất, về chương trình đào tạo kế toán, kiểm toán, việc đào tạo hiện nay còn có nhiều môn trùng lặp về nội dung khoa học nên cả người giảng và người nghe đều không hứng thú. Mặc dù Bộ Tài chính đã ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán nhưng hầu hết các giáo trình về kế toán, kiểm toán đều được soạn theo các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính nên hạn chế phần nào đến khả năng suy luận và phát triển kiến thức của sinh viên. Đánh giá chương trình đào tạo ngành kế toán, kiểm toán có áp dụng được vào thực tế 28 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG không, mean N1= 3.900 và mean N2= 3.4333 (chủ yếu là mức độ trung bình), điều này khá phù hợp với các nghiên cứu trước đây về thực trạng đào tạo ở Việt Nam, hầu hết sinh viên được hỏi đều cho rằng đào tạo ngành kế toán, kiểm toán nặng về kiến thức hàn lâm. Sinh viên tốt nghiệp các trường ĐH, CĐ phần lớn được trang bị nhiều về lý thuyết kế toán, kiểm toán nhưng lại không được thực hành nhiều nên kỹ năng làm việc còn nhiều hạn chế. Hoạt động kế toán, kiểm toán tại doanh nghiệp không chỉ quan tâm tới hạch toán đúng chế độ, tuân thủ chuẩn mực kế toán, kiểm toán mà còn phải tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ có liên quan. Nhưng các chính sách, quy định liên quan mật thiết đến công tác kế toán như thuế, bảo hiểm, thì những sinh viên mới ra trường lại nắm chưa chắc và chưa có kinh nghiệm để xử lý sao cho phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp. Khối kiến thức chung mang nặng tính lý thuyết giáo điều, chưa thực sự làm cơ sở cho kiến thức chuyên ngành (có thể nhận thấy vấn đề này trong kết quả khảo sát biến CTDT1, mean N1=3.1667, mean N2= 2.5091), trong khi khối kiến thức chuyên ngành lại bị xé lẻ. Các kiến thức đào tạo truyền tải đến cho sinh viên hiện nay mới chỉ dừng lại ở các kiến thức nguyên lý về kế toán, kiểm toán mà chưa có sự kết nối với các kiến thức về kinh tế, tài chính. Điều này làm cho sinh viên bị hạn chế ở việc nhìn nhận, đánh giá và phân tích thông tin do kế toán và kiểm toán cung cấp. Các doanh nghiệp thì lại muốn tuyển những người có thể làm công việc chuyên môn được ngay để giảm bớt chi phí và thời gian đào tạo. Số lượng sinh viên trong một lớp khá nhiều (40 đến 80 sinh viên/lớp), trong khi đó chỉ có một giảng viên hướng dẫn nên việc đào tạo kỹ năng làm việc ở các trường ĐH, CĐ hết sức hạn chế. Bên cạnh đó, chương trình đào tạo hiện nay vẫn chưa tính nhiều đến vấn đề hội nhập, ngoại ngữ và kỹ năng mềm của người làm kế toán - kiểm toán sau này chưa được chú trọng thích đáng. Thỏa thuận trong khuôn khổ AEC về 8 lĩnh vực ngành nghề được tự do di chuyển có kèm theo yêu cầu lao động phải qua đào tạo và nếu thông thạo ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh sẽ được di chuyển tự do hơn. Tuy nhiên, trình độ tiếng Anh của sinh viên đang trở thành các thách thức với hoạt động đào tạo tại các trường ĐH, kết quả khảo sát biến KQ4 của cả 2 nhóm phần lớn đều ở mức độ trung bình đến khá. Điều này cũng là một trong các nguyên nhân dẫn tới việc sinh viên khó tiếp cận các kiến thức kế toán, kiểm toán trong tài liệu quốc tế tốt nghiệp không tự tin với việc tham gia tuyển dụng các vị trí kế toán, kiểm toán yêu cầu ngoại ngữ hoặc các doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Thực tế cho thấy, khi sinh viên năm thứ 3,4 trong giai đoạn thực tập tốt nghiệp, ứng tuyển vào vị trí thực tập sinh của các doanh nghiệp kiểm toán, các sinh viên thường e ngại đăng ký thi tuyển do không đáp ứng về điều kiện ngoại ngữ hoặc nếu có thi tuyển thì kết quả thi ngoại ngữ khá thấp so với kết quả thi nghiệp vụ. - Thứ hai, về phương pháp đào tạo: chủ yếu giảng viên vẫn đào tạo theo cách truyền thống là đọc - chép, xa rời thực tế, dẫn đến sinh viên ra trường chậm làm quen với công việc kế toán, kiểm toán. Sinh viên vẫn chưa có điều kiện được thực hành nhiều trong thực tiễn các hoạt động kế toán, kiểm toán, chỉ có một số rất ít sinh viên được tham gia thực tập tại một số công ty kiểm toán. Cũng chính cách thức đào tạo này đã khiến sinh viên thụ động trong việc tự nghiên cứu, trang bị kiến thức, dẫn tới việc 29 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 26, tháng 1/2018 nhà quản lý đánh giá sinh viên tốt nghiệp ở Hải Phòng thường thiếu năng động, thiếu chuyên nghiệp. Mặc dù sinh viên được khảo sát đều đánh giá chương trình đào tạo đảm bảo việc phân bổ giờ lý thuyết – thực hành (giá trị mean của biến CTDT4 lần lượt là N1= 4.0635; N2= 3.9864). Nguyên nhân là do cơ sở vật chất và kinh phí của các trường trong khu vực thường quá thiếu (giá trị mean biến CS2 chủ yếu ở mức thấp và rất thấp), mới chỉ có trường ĐH Hải Phòng đang trong giai đoạn triển khai xây dựng và đưa vào sử dụng phòng kế toán ảo. Do đó việc thực hành của sinh viên trong quá trình đào tạo không cao, kỹ năng sử dụng phần mềm kế toán, máy tính và các phương tiện quản lý khác còn yếu, kỹ năng về phân tích, tổ chức hệ thống thông tin kế toán bằng phương tiện hiện đại còn mơ hồ. Hầu hết sinh viên trả lời học kỹ năng chuyên môn chủ yếu qua lý thuyết, thực hành trên chứng từ, sổ sách thủ công, phần mềm kế toán còn đơn giản, sơ sài, được thực hành rất ít. Một kỹ năng quan trọng của kiểm toán là kỹ năng thực hành kiểm toán báo cáo tài chính thì gần như các sinh viên được khảo sát đều trả lời không nắm được cách thức tiến hành. Mặt khác, kết quả khảo sát vấn đề này qua biến CTDT6 cho thấy sự phối hợp với các doanh nghiệp để sinh viên đi thực tập tốt nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, thời gian thực tập ít, thậm chí chỉ là hình thức, chỉ có một số trường hợp sinh viên được hỗ trợ thực tập tại doanh nghiệp kiểm toán như sinh viên tự thi tuyển thực tập vào doanh nghiệp kiểm toán hoặc trường ĐH hợp tác với doanh nghiệp kiểm toán. Giảng viên chưa có sự định hướng sâu sắc cho sinh viên trước khi đi thực tập, chưa có trách nhiệm với các sản phẩm đào tạo của mình. - Thứ ba, về việc tiếp cận các kiến thức kế toán, kiểm toán theo chương trình quốc tế, kết quả khảo sát ở biến CTDT1 (các học phần cập nhật kiến thức kế toán, kiểm toán quốc tế) và CS1 (điều kiện tiếp cận tài liệu quốc tế tại thư viện) đều ở mức trung bình. Hiện tại, ở Hải Phòng, chưa có một trường CĐ, ĐH nào có sự liên kết chính thức với các tổ chức đào tạo quốc tế về kế toán, kiểm toán có uy tín. Nguyên nhân cơ bản là các trường trong khu vực hầu như chưa có đầy đủ kinh phí để thực hiện việc liên kết đào tạo đồng thời sinh viên và ngay cả giảng viên vẫn chưa có tinh thần cạnh tranh trong học tập, tìm kiếm cơ hội tiếp cận với các hoạt động đào tạo theo chuẩn quốc tế. Điều này một phần có thể do các năm gần đây, Hải Phòng vẫn chưa thực sự có sự phát triển mạnh về các công ty cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán, áp lực cạnh tranh trong việc tìm kiếm cơ hội phát triển nghề nghiệp tại các công ty này chưa cao. Bên cạnh đó, hiện nay chưa có một cơ sở đào tạo uy tín theo chuẩn quốc tế đặt chi nhánh, văn phòng tại Hải Phòng, do đó sinh viên và giảng viên đều gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn đào tạo chất lượng cao này. Bên cạnh hạn chế về ngoại ngữ, đây cũng là một trong các lý do sinh viên tốt nghiệp e ngại trong việc ứng tuyển vào các vị trí kế toán, kiểm toán tại các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài. 5. PHƢƠNG HƢỚNG ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN TẠI CÁC TRƢỜNG CĐ, ĐH TRÊN ĐỊA BÀN HẢI PHÒNG Từ yêu cầu và thực tế trên, để các sinh viên kế toán, kiểm toán thuộc các trường CĐ, ĐH ở Hải Phòng có thể đáp ứng được các đòi hỏi về kỹ năng nghề nghiệp, cần đổi mới căn bản chương trình, nội dung và phương thức đào 30 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG tạo kế toán và kiểm toán. Đổi mới chương trình đào tạo phải thực hiện đồng bộ với việc đổi mới phương pháp dạy và học. Không thể đổi mới chương trình đào tạo trên cơ sở phương pháp dạy và học cũ. Về chương trình đào tạo, cần đa dạng hơn, linh hoạt hơn cho các chuyên ngành kế toán và kiểm toán. Việc đào tạo cần lược bỏ các học phần trùng lặp về nội dung khoa học, bổ sung các học phần đào tạo chuyên sâu về tin học, ngoại ngữ và kỹ năng mềm của cán bộ kế toán - kiểm toán. Các trường ĐH, CĐ không nên chỉ dựa trên chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quy định trước đây để xây dựng chương trình đào tạo cho riêng mình, khiến khả năng được thừa nhận của sinh viên tại các chương trình quốc tế không cao. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến phần đông sinh viên ở Hải Phòng ra trường khó có thể đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp nước ngoài. Các trường nên xây dựng các Module kiến thức cơ bản như nguyên lý kế toán, lý thuyết kiểm toán, luật kế toán, kiểm toán,... để làm tiền đề, là nền tảng trang bị cho sinh viên các kiến thức chung nhằm tiếp tục học các Module chuyên ngành. Các module về kiến thức chuyên ngành trang bị cho sinh viên kế toán, kiểm toán cần được tách biệt cụ thể cho từng chuyên ngành kế toán, chuyên ngành kiểm toán. Về nội dung, cần phong phú về kiến thức để vừa đảm bảo những kiến thức lý thuyết cơ bản, có tính nguyên lý, đạo lý và khoa học vừa có tính thực tiễn. Khoa học kế toán có tính độc lập và khá hoàn chỉnh cả về nội dung và phương pháp luận nhưng dựa trên nền tảng của khoa học quản lý và lý thuyết tài chính. Vì vậy, nội dung đào tạo không chỉ là những kiến thức nguyên lý, nguyên tắc của kế toán, kiểm toán, kỹ năng về phương pháp kế toán, kiểm toán mà rất cần những kiến thức về lý thuyết kinh tế, quản lý kinh tế và tài chính,... Kiến thức về kế toán và kiểm toán không chỉ dừng lại ở phương pháp kế toán, kiểm toán, phương pháp xử lý, tổng hợp và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính mà quan trọng hơn là kỹ năng tổ chức thu thập, đánh giá thông tin, kỹ năng sử dụng thông tin do kế toán xử lý và cung cấp, do kiểm toán đã kiểm tra, đánh giá và xác nhận. Cần phải cung cấp cho người học kỹ năng nhìn nhận, đánh giá và phân tích thông tin do kế toán và kiểm toán cung cấp. Phương thức đào tạo cũng cần có thay đổi căn bản, hạn chế cách đào tạo truyền thống, cần có những đổi mới tích cực theo hướng giảm giờ lý thuyết, tăng giờ thực hành và giờ tự học của sinh viên. Để thực hiện được hiệu quả, các trường cần đầu tư nhiều hơn vào cơ sở vật chất phục vụ hoạt động thực hành kế toán, kiểm toán của sinh viên cũng như tăng sự phối hợp với các doanh nghiệp để sinh viên đi thực tập một cách thực chất Mục tiêu hướng tới là cần phải tạo cho sinh viên hiểu và phát triển lý luận mang tính bản chất của kế toán và kiểm toán còn chế độ hay các quy định kế toán, kiểm toán của Nhà nước trong từng thời kỳ, trong từng cơ chế quản lý chỉ là sự hiện thân, minh chứng cho những nguyên lý mang tính bản chất của kế toán. Giảng viên nên lựa chọn phương pháp giảng dạy và phương pháp học tích cực đối với các học phần kế toán và kiểm toán, tăng cường các bài tập tình huống, đối thoại giữa giảng viên và sinh viên. Các trường CĐ, ĐH ở Hải Phòng cần sớm đưa các phòng kế toán ảo vào hoạt động kết hợp với doanh nghiệp nhằm tạo cơ hội để sinh viên sớm tiếp cận kế toán, kiểm toán thực tế, đây là nội dung quan trọng, có tính quyết định chất lượng đào tạo. Bên 31 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 26, tháng 1/2018 cạnh đó, nên xây dựng mối liên kết với các tổ chức quốc tế để đào tạo Kế toán, kiểm toán như ICEAW - Viện Kế toán Công Chứng Vương quốc Anh và xứ Wales, ACCA - Hiệp hội Kế toán Công chứng Anh, để xây dựng chương trình học tập và phát triển nghề nghiệp chuyên nghiệp, được công nhận rộng rãi trong giới kế toán, tài chính và kiểm toán trên khắp thế giới. Để làm được điều này, các trường cần quan tâm nhiều hơn tới việc bồi dưỡng ngoại ngữ cho sinh viên và giảng viên, đầu từ xây dựng các học phần ngoại ngữ phục vụ chuyên ngành kế toán, kiểm toán. Bản thân người giảng viên cũng cần có những hiểu biết thực tế, kết hợp giữa giảng dạy lý thuyết với những báo cáo thực tế của các chuyên gia kinh tế, các doanh nhân, các nhà kế toán, kế toán trưởng, kiểm toán viên, đưa hơi thở của nghề nghiệp vào quá trình đào tạo. 6. KẾT LUẬN Để thực hiện được một cách có hiệu quả quá trình đổi mới đào tạo chuyên ngành kế toán, kiểm toán ở các trường CĐ, ĐH trên địa bàn Hải Phòng trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng cũng như sự phát triển của công nghiệp 4.0, cần có sự phối – kết hợp đồng bộ giữa cán bộ, giảng viên và phía nhà trường, với các doanh nghiệp cũng như sự hưởng ứng trong thay đổi việc dạy và học từ phía bản thân các sinh viên - những nhà kế toán, kiểm toán viên tương lai. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Đình Ánh (2016), “Khả năng hội nhập của nguồn nhân lực kế toán Việt Nam trong AEC”, Kỷ yếu Hội thảo Brexit và cộng đồng kinh tế ASEAN dưới góc nhìn hội nhập, Đại học Văn Hiến 2. Phan Thanh Hải, Nguyễn Phi Sơn, “Đào tạo nhân lực cho ngành Kiểm toán độc lập của Việt Nam trong các đường đại học: Cơ hội và thách thức khi gia nhập, AEC”, Đại học Duy Tân 3. Đặng Văn Thanh (2011), “Đổi mới chương trình, nội dung và phương thức đào tạo kế toán - kiểm toán ở Việt Nam”, Tạp chí Kiểm toán, số 5/2011 4. Quyết định số 865/QĐ-TTG ngày 10/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ, Về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng Vùng Duyên hải Bắc Bộ đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 5. Nguyễn Thanh Hà, “Dịch vụ kế toán kiển toán trong hội nhập AEC”, SBLAW, 6. Hồng Hạnh (2011), “Nhiều bất cập trong đào tạo ngành Kế toán - kiểm toán”, Dân trí, 04/11/2011, ke-toan-kiem-toan-1320733088.htm 7. Thu Hằng (2015), “Kế toán kiểm toán Việt Nam hội nhập TPP và AEC”, Công thương, 18/12/2015, aec.html
File đính kèm:
- doi_moi_dao_tao_ke_toan_kiem_toan_o_cac_truong_cao_dang_dai.pdf