Đổi mới đào tạo kế toán - kiểm toán ở các trường Cao đẳng, Đại học trên địa bàn thành phố hải phòng nhằm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động

Trong hoàn cảnh đó, kế toán, kiểm

toán cũng phải đáp ứng những yêu cầu mới,

cụ thể như: Tính chuyên nghiệp và trách

nhiệm xã hội của kế toán, kiểm toán; tăng

cường năng lực chuyên môn, đạo đức nghề

nghiệp. Trong lộ trình hội nhập và thực hiện

các cam kết quốc tế, hệ thống kế toán, kiểm

toán Việt Nam đã và đang cải cách căn bản,

toàn diện trên cơ sở tiếp cận có chọn lọc với

những nguyên tắc, thông lệ kế toán, kiểm

toán phổ biến của quốc tế nhằm tạo dựng

khuôn khổ pháp lý và ban hành các hệ thống

kế toán và kiểm toán và đổi mới việc đào tạo,

bồi dưỡng kế toán và kiểm toán. Cần hướng

tới mục tiêu công nhận quốc tế về hệ thống

kế toán và kiểm toán Việt Nam, tạo dựng đầy

đủ khuôn khổ pháp lý cho hoạt động dịch vụ

kế toán, kiểm toán; tiếp tục mở rộng thị

trường, phát triển thêm số lượng và tăng

cường chất lượng dịch vụ của các tổ chức

dịch vụ và tổ chức nghề nghiệp hiện có ở

Việt Nam. Theo các cam kết quốc tế, Việt

Nam sẽ từng bước mở cửa lĩnh vực kế toán,

kiểm toán và tư vấn tài chính với mục tiêu

mở cửa rộng rãi vào năm 2020. Đây là cơ hội

và cũng là thách thức đối với hoạt động kế

toán, kiểm toán tại Việt Nam nói chung và

lĩnh vực đào tạo kế toán, kiểm toán nói riêng.

pdf 14 trang kimcuc 4240
Bạn đang xem tài liệu "Đổi mới đào tạo kế toán - kiểm toán ở các trường Cao đẳng, Đại học trên địa bàn thành phố hải phòng nhằm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đổi mới đào tạo kế toán - kiểm toán ở các trường Cao đẳng, Đại học trên địa bàn thành phố hải phòng nhằm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động

Đổi mới đào tạo kế toán - kiểm toán ở các trường Cao đẳng, Đại học trên địa bàn thành phố hải phòng nhằm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động
 18 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN 
 Ở CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC 
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG NHẰM ĐÁP 
ỨNG YÊU CẦU CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG 
Đào Minh Hằng 
Khoa Kế toán - Tài chính 
Email: hangdm@dhhp@.edu.vn 
Ngày nhận bài:17/11/2017 
Ngày PB đánh giá:25/12/2017 
Ngày duyệt đăng:05/01/2018 
TÓM TẮT 
Mục đích của nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng đào tạo kế toán - kiểm toán tại các 
trường cao đẳng, đại học trên địa bàn Hải Phòng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế mạnh 
mẽ đang diễn ra ở Việt Nam. Trên cơ sở đó có các đánh giá và phương hướng đổi mới chương 
trình, nội dung và cách thức đào tạo kế toán, kiểm toán nhằm đáp ứng yêu cầu của người sử 
dụng lao động. 
Từ khóa: đổi mới đào tạo, kế toán, kiểm toán, hội nhập kinh tế quốc tế 
ACCOUNTING AND AUDITING TRAINING INNOVATION AT COLLEGES 
AND UNIVERSITIES IN HAI PHONG TOWARDS REQUIREMENTS FOR 
VIETNAM’S INTERNATIONAL ECONOMIC INTEGRATION 
ABSTRACT 
The purpose of this research is to find out the reality of accounting - auditing training in 
all the colleges and universities located in HaiPhong in the context of strong international 
economic integration of Vietnam. On that basis, the author evaluated the accounting-auditing 
training methods and the curriculum content and proposed orientation for the teaching 
program renewal in order to meet the requirements for the global integration. 
Key words: training innovation, accounting, auditing, international economic integration. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trước yêu cầu của nền kinh tế và trong 
tiến trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, 
kế toán, kiểm toán đã phát triển và trở thành 
một ngành, một loại hình dịch vụ thiết yếu. 
Theo PGS, TS. Đặng Văn Thanh, Chủ tịch 
Hội kế toán và kiểm toán Việt Nam:“Đây là 
thời cơ lớn và thuận lợi để kế toán, kiểm toán 
Việt Nam hội nhập sâu hơn vào môi trường 
quốc tế. Tuy nhiên, vẫn cần sự chủ động 
chuẩn bị của ngành về nhân lực, năng lực 
hành nghề nhằm hạn chế tối thiểu những tổn 
 19 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 26, tháng 1/2018 
thất, thiệt hại, bất lợi cho nền kinh tế”. Hoạt 
động dịch vụ kế toán, kiểm toán Việt Nam 
được phát triển cùng với việc tiếp tục tạo lập 
hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý, tăng cường 
hoạt động các tổ chức nghề nghiệp. Kế toán 
và người làm kế toán, kiểm toán không chỉ 
làm nhiệm vụ tổ chức hệ thống thông tin tài 
chính kế toán mà đã trở thành một ngành, 
một lĩnh vực dịch vụ. Phát triển các hoạt 
động dịch vụ kế toán, kiểm toán theo xu 
hướng phát triển của các nước trong khu vực 
và quốc tế, tạo dựng và mở rộng giao lưu 
nghề nghiệp. Bên cạnh đó, thời đại ngày nay 
là thời đại của khoa học kỹ thuật, công nghệ, 
sự phát triển của công nghệ thông tin là sự hỗ 
trợ quan trọng và đắc lực cho quản trị kinh 
doanh. Kế toán là ngành và lĩnh vực sớm tiếp 
cận công nghệ thông tin và sử dụng công 
nghệ thông tin vào nghiệp vụ thay thế phần 
lớn công việc mang tính nghiệp vụ của 
những người làm kế toán và kiểm toán. Điều 
đó ảnh hưởng đáng kể tới tính chất công việc 
kế toán và đặc biệt là nội dung và cách thức 
đào tạo về kế toán, kiểm toán. 
Trong hoàn cảnh đó, kế toán, kiểm 
toán cũng phải đáp ứng những yêu cầu mới, 
cụ thể như: Tính chuyên nghiệp và trách 
nhiệm xã hội của kế toán, kiểm toán; tăng 
cường năng lực chuyên môn, đạo đức nghề 
nghiệp. Trong lộ trình hội nhập và thực hiện 
các cam kết quốc tế, hệ thống kế toán, kiểm 
toán Việt Nam đã và đang cải cách căn bản, 
toàn diện trên cơ sở tiếp cận có chọn lọc với 
những nguyên tắc, thông lệ kế toán, kiểm 
toán phổ biến của quốc tế nhằm tạo dựng 
khuôn khổ pháp lý và ban hành các hệ thống 
kế toán và kiểm toán và đổi mới việc đào tạo, 
bồi dưỡng kế toán và kiểm toán. Cần hướng 
tới mục tiêu công nhận quốc tế về hệ thống 
kế toán và kiểm toán Việt Nam, tạo dựng đầy 
đủ khuôn khổ pháp lý cho hoạt động dịch vụ 
kế toán, kiểm toán; tiếp tục mở rộng thị 
trường, phát triển thêm số lượng và tăng 
cường chất lượng dịch vụ của các tổ chức 
dịch vụ và tổ chức nghề nghiệp hiện có ở 
Việt Nam. Theo các cam kết quốc tế, Việt 
Nam sẽ từng bước mở cửa lĩnh vực kế toán, 
kiểm toán và tư vấn tài chính với mục tiêu 
mở cửa rộng rãi vào năm 2020. Đây là cơ hội 
và cũng là thách thức đối với hoạt động kế 
toán, kiểm toán tại Việt Nam nói chung và 
lĩnh vực đào tạo kế toán, kiểm toán nói riêng. 
2. XÂY DỰNG GIẢ THUYẾT VÀ 
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Hiện nay, trên địa bàn Hải Phòng mới chỉ 
có 02 cơ sở đào tạo chính thức hệ đại học về kế 
toán, kiểm toán là Khoa Kế toán - Tài chính, 
trường Đại học Hải Phòng và khoa Quản trị 
kinh doanh, trường Đại học Dân lập Hải Phòng. 
Ngoài ra còn có các trường có đào tạo các hệ 
cao đẳng, trung cấp kế toán là các trường Cao 
đẳng nghề Kinh tế và kỹ thuật Bắc Bộ, Cao 
đẳng nghề Duyên hải, trường Cao đẳng nghề 
Bắc Nam, trường Cao đẳng nghề bách nghệ, 
trường Cao đẳng nghề và Du lịch Hải Phòng. 
Nhìn chung, việc đào tạo chính thống và 
chuyên sâu đội ngũ nhân lực kế toán, kiểm toán 
cho Hải Phòng và khu vực duyên hải Bắc bộ 
mới chỉ tập trung ở trường Đại học Hải Phòng. 
Để có cái nhìn cụ thể về hoạt động đào tạo kế 
toán, kiểm toán, tác giả thực hiện lấy phiếu 
khảo sát các sinh viên năm thứ 3, 4 và sinh viên 
đã tốt nghiệp ngành kế toán, kiểm toán của các 
trường trên địa bàn Hải Phòng đang làm việc tại 
các doanh nghiệp. Đối với các sinh viên đang 
theo học, việc khảo sát sẽ giúp tác giả nhìn nhận 
được thực tế cách thức, nội dung đào tạo hiện 
nay. Còn đối với các sinh viên đã tốt nghiệp - 
 20 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
những người đang làm việc trực tiếp tại các vị 
trí kế toán, kiểm toán trong doanh nghiệp, sẽ 
giúp trả lời câu hỏi Liệu nguồn nhân lực kế 
toán, kiểm toán được cung cấp bởi các trường 
ĐH, CĐ ở Hải Phòng còn gặp các khó khăn, 
còn thiếu những kiến thức, kỹ năng nào để tiếp 
cận với các chuẩn nghề nghiệp, đáp ứng yêu 
cầu của người sử dụng lao động ? 
Để thu thập số liệu và thông tin phục 
vụ đánh giá rõ nét hơn thực trạng đào tạo kế 
toán, kiểm toán những năm qua và đánh giá 
về cơ bản về kết quả hoạt động đào tạo, tác 
giả đã phỏng vấn trực tiếp hoặc gửi thư điện 
tử bảng câu hỏi khảo sát dành cho sinh viên 
chuyên ngành kế toán đến các sinh viên và 
cựu sinh viên của các trường ĐH, CĐ ở Hải 
Phòng. Các câu hỏi trong phiếu khảo sát là 
các câu hỏi đóng (định lượng theo thang đo 
Likert 5 bậc, mô tả thực trạng đào tạo với 5 
mức độ từ mức 1- hoàn toàn không đồng ý/ 
rất thấp đến mức 5- hoàn toàn đồng ý/ rất 
cao) và các câu hỏi mở để người phản hồi 
đưa ra các ý kiến đề xuất. Bên cạnh đó, tác 
giả cũng thực hiện phỏng vấn trực tiếp bằng 
cách sử dụng các câu hỏi mở đối với một số 
nhà quản lý sử dụng lao động tại một số 
doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp kiểm 
toán và ngân hàng ở Hải Phòng. Các câu hỏi 
mở xoay quanh những đánh giá của các 
trưởng/phó phòng tài chính, kế toán trưởng, 
giám đốc/chủ nhiệm kiểm toán về khả năng 
đáp ứng yêu cầu công việc của các sinh viên 
kế toán, kiểm toán tốt nghiệp từ các trường 
ĐH, CĐ tại Hải Phòng. 
Sau khảo sát các sinh viên và cựu sinh 
viên đang làm việc tại các doanh nghiệp, tác 
giả đã thu về 127 phiếu hợp lệ. Về cơ cấu trả 
lời khảo sát, trong số 127 phiếu, có 98 phiếu 
phản hồi là nữ, chiếm 77,2% và 29 phiếu là 
nam, chiếm 22,8%. Điều này phản ánh đúng 
thực tiễn trong hoạt động kế toán hiện nay, do 
đặc thù nghề nghiệp nên số lượng nữ tham gia 
khá lớn. Đa phần các phiếu hợp lệ này do các 
sinh viên và cựu sinh viên chuyên ngành kế 
toán, kiểm toán của trường ĐH Hải Phòng 
phản hồi (chiếm tỷ lệ lần lượt là 51,2% và 
26,1%), còn lại là của sinh viên chuyên ngành 
kế toán hoặc quản trị tài chính kế toán các 
trường ĐH, CĐ khác trên địa bàn. Nội dung 
khảo sát bao gồm các vấn đề: (1) Mục tiêu và 
nội dung chương trình đào tạo kế toán, kiểm 
toán nhằm đáp ứng như cầu người tuyển dụng; 
(2) Hoạt động giảng dạy kế toán, kiểm toán 
đáp ứng định hướng thực hành; Cơ sở vật 
chất, tài liệu phục vụ học tập và giảng dạy 
trong điều kiện công nghệ; Đánh giá của sinh 
viên về kết quả đào tạo. 
Để đánh giá về thực trạng đào tạo kế 
toán, kiểm toán tại các trường ĐH, CĐ trên 
địa bàn Hải Phòng, tác giả thực hiện kiểm 
định Independen T- test, tìm ra liệu có sự 
khác biệt giữa việc đào tạo giữa các trường. 
ĐH Hải Phòng là cơ sở đào tạo chính về kế 
toán, kiểm toán tại Hải Phòng, do đó tác giả 
thực hiện kiểm định với 2 nhóm sinh 
viên/cựu sinh viên kế toán, kiểm toán của 
trường ĐH Hải Phòng (nhóm 1) và của các 
trường ĐH, CĐ còn lại trên địa bàn (nhóm 
2). Giả thuyết được đưa ra: 
H1: Có sự khác biệt trong mục tiêu và 
nội dung chương trình đào tạo kế toán, kiểm 
toán nhằm đáp ứng nhu cầu người tuyển 
dụng giữa nhóm 1 và 2. 
H2: Có sự khác biệt trong hoạt động 
giảng dạy kế toán, kiểm toán đáp ứng định 
hướng thực hành giữa nhóm 1 và 2. 
H3: Có sự khác biệt về cơ sở vật chất, 
tài liệu, điều kiện phục vụ học tập và giảng 
dạy trong điều kiện công nghệ hiện nay giữa 
nhóm 1 và 2 
 21 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 26, tháng 1/2018 
H4: Có sự khác biệt trong kết quả đào 
tạo kế toán, kiểm toán nhằm đáp ứng nhu cầu 
của người tuyển dụng lao động và xã hội 
giữa nhóm 1 và 2 
Trong kiểm định Independent-samples 
T-test, ta cần dựa vào kết quả kiểm định sự 
bằng nhau của 2 phương sai tổng thể bằng 
kiểm định Levene, với độ tin cậy kiểm định 
95% (mức α = 0,05). Nếu giá trị Sig. của 
kiểm định F trong kiểm định Levene lớn hơn 
mức α thì phương sai của 2 tổng thể đồng 
đều, tác giả sử dụng kết quả kiểm định t 
trong trường hợp không có sự khác nhau giữa 
phương sai của hai tổng thể. Ngược lại, tác 
giả sử dụng kết quả kiểm định t trong trường 
hợp có sự khác nhau giữa phương sai của hai 
tổng thể. Khi giá trị sig. của kiểm định t nhỏ 
hơn mức ý nghĩa α thì có thể khẳng định giữa 
2 trung bình tổng thể có giá trị khác biệt và 
tiếp tục kiểm tra sự tác động của tổng thể đó 
tới biến định lượng bằng giá trị mean. 
Kết quả kiểm định các giả thuyết này 
sẽ giúp xác định liệu có sự khác biệt trong 
quá trình đào tạo kế toán, kiểm toán giữa các 
trường ĐH, CĐ trên địa bàn Hải Phòng hiện 
nay, đồng thời, thông qua kết quả thống kê 
mô tả và phản hồi về chất lượng sinh viên từ 
các nhà quản lý tại các doanh nghiệp có thể 
nhận định về thực trạng đào tạo kế toán, kiểm 
toán hiện nay. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ 
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO KẾ TOÁN - 
KIỂM TOÁN TẠI CÁC TRƢỜNG ĐH, 
CĐ TRÊN ĐỊA BÀN HẢI PHÕNG 
Tác giả kiểm định chất lượng thang 
đo của các câu hỏi trong phiếu khảo sát. 
Thang đo được đánh giá chấp nhận và tốt 
đòi hỏi đồng thời 2 điều kiện: hệ số 
Cronbach‟s Alpha (CA) tổng thể > 0,6 và 
hệ số tương quan biến -tổng (Corrected 
Item-Total Correlation) > 0,3 Nunnally 
(1978), Peterson (1994). Căn cứ kết quả 
kiểm định Cronbach‟s Alpha cho từng 
thành phần nhân tố, kết luận về độ tin cậy 
thang đo và dữ liệu như sau: 
Bảng 1: Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo của các biến trong mô hình 
Thang đo 
CA 
tổng thể 
Biến thỏa độ tin cậy Cronbach's 
Alpha (CA) 
Biến bị loại 
 Số 
biến 
Tên biến Số biến 
Tên 
biến 
Mục tiêu đào 
tạo kế toán, 
kiểm toán 
phù hợp với 
điều kiện 
hiện nay 
0,810 
3 
MT1-Mục tiêu đào tạo kế 
toán, kiểm toán rõ ràng 
MT2-Việc đào tạo hướng tới 
việc gắn lý thuyết – thực hành, 
đáp ứng nhu cầu nhân lực kế 
toán, kiểm toán 
MT3-Nội dung đào tạo phản ánh 
mục tiêu đào tạo kế toán, kiểm 
toán trong điều kiện hiện nay 
 22 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
Chương trình 
đào tạo kế 
toán, kiểm 
toán đáp ứng 
yêu cầu về 
nguồn nhân 
lực 
0,787 6 
CTDT1-Chương trình đào tạo 
kế toán, kiểm toán có khối 
lượng kiến thức đại cương 
phù hợp, là nền tảng cho 
chuyên ngành 
CTDT2-Các học phần trong 
chương trình đào tạo đã có sự 
cập nhật các kiến thức kế toán, 
kiểm toán quốc tế 
CTDT3-Thời lượng của 
chương trình đào tạo đủ để 
phát triển kiến thức, kỹ năng 
theo mục tiêu đào tạo kế toán, 
kiểm toán 
CTDT4-Chương trình đào tạo 
có sự phân bổ hợp lý giờ lý 
thuyết và thực hành nhằm giúp 
tiếp cận thực tiễn nghề kế toán 
- kiểm toán 
CTDT5-Việc đào tạo các kỹ 
năng chuyên môn phục vụ kế 
toán, kiểm toán (sử dụng máy 
tính, phần mềm) được chú trọng 
trong chương trình đào tạo 
CTDT6-Chương trình đào tạo 
có chú trọng giai đoạn thực 
tập nghề kế toán, kiểm toán 
và hợp tác với doanh nghiệp 
Đào tạo 
ngoại ngữ và 
kỹ năng mềm 
trong kế toán, 
kiểm toán 
0,835 3 
KNM1-Các học phần có cung 
cấp kỹ năng mềm phục vụ cho 
hoạt động kế toán, kiểm toán 
1 
KNM2- 
Các học 
phần 
đào tạo 
kỹ năng 
mềm 
như 
giao 
tiếp, 
làm 
KNM3-Thời lượng các học 
phần thực hành đủ để hình 
thành các kỹ năng nghề nghiệp 
chuyên môn 
KNM4-Đào tạo ngoại ngữ 
trong chương trình đào tạo kế 
 23 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 26, tháng 1/2018 
toán, kiểm toán phù hợp với 
yêu cầu xã hội 
việc 
nhóm, 
nghiên 
cứu 
khoa 
học 
trong 
chương 
trình 
đào tạo 
là hữu 
ích 
Hoạt động 
giảng dạy kế 
toán, kiểm 
toán gắn với 
thực tiễn 
0,836 
4 
GD1-Giảng viên có kiến thức 
chuyên môn sâu về kế toán, 
kiểm toán 
GD2-Giảng viên có phương 
pháp đào tạo phù hợp với 
chuyên ngành kế toán, kiểm 
toán, luôn tạo điều kiện để 
sinh viên phát huy khả năng 
GD3-Các vấn đề về lý thuyết và 
thực tiễn kế toán, kiểm toán luôn 
được giảng viên gợi mở, liên hệ 
GD4-Hoạt động giảng dạy 
theo định hướng nghề nghiệp 
kế toán, kiểm toán, sinh viên 
được thực hành 
Cơ sở vật 
chất, tài liệu, 
điều kiện 
phục vụ học 
tập 
0,784 2 
CS1-Sinh viên được tiếp cận 
đầy đủ với các tài liệu nghiên 
cứu chuyên sâu về kế toán, 
kiểm toán (trong nước và quốc 
tế) tại thư viện trường 1 
CS3- 
Trường 
có các 
khu vực 
phục vụ 
học tập 
lý 
thuyết 
và thực 
hành, 
CS2-Trường có phòng kế toán 
ảo hoặc các trang thiết bị phục 
vụ việc thực hành kế toán, 
kiểm toán của sinh viên 
 24 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
tạo điều 
kiện 
thuận 
lợi cho 
sinh 
viên 
Đánh giá về 
kết quả đào 
tạo có đáp 
ứng yêu cầu 
xã hội trong 
điều kiện hội 
nhập kế toán, 
kiểm toán 
0,723 
5 
KQ1-Chương trình đào tạo 
ngành kế toán, kiểm toán có 
áp dụng được vào thực tế 
KQ2-Các kỹ năng chuyên môn 
của nghề kế toán, kiểm toán 
(sử dụng phần mềm, máy tính, 
phân tích, thực hành kiểm 
toán) thành thạo 
KQ3-Sinh viên được trang bị 
tốt về kỹ năng mềm trong hoạt 
động kế toán, kiểm toán 
KQ4-Khả năng giao tiếp ngoại 
ngữ và tìm hiểu tài liệu quốc 
tế về chuyên ngành kế toán, 
kiểm toán tốt 
KQ5-Sinh viên có khả năng tự 
nghiên cứu, tích lũy kiến thức 
để hội nhập quốc tế sâu rộng 
về kế toán, kiểm toán 
KQ6-Sinh viên sau tốt nghiệp 
tự tin tham gia tuyển dụng và 
làm việc tại các vị trí kế toán, 
kiểm toán của doanh nghiệp 
(Nguồn: Tác giả tổng hợp kết quả phân tích dữ liệu từ SPSS 22.0) 
Sau khi thực hiện kiểm định Cronbach‟s 
Alpha cho 6 thang đo độc lập, có 2 biến không 
đủ độ tin cậy nên bị loại khỏi thang đo, tác giả 
tiếp tục phân tích nhân tố khám phá EFA với 6 
thang đo trên. Theo Hair (1998), phân tích nhân 
tố là phù hợp khi Hệ số KMO (Kaiser-Meyer-
Olkin) đạt giá trị 0,5 đến 1; kiểm định Bartlett có 
ý nghĩa thống kê (sig < 0,05), chứng tỏ các biến 
quan sát có tương quan với nh ... .08821 Đánh giá kết quả đào tạo kế toán, 
kiểm toán 
N2 2.9606 .48725 .06570 
N1 CTDT4 4.0365 .72748 .10500 KQ1 3.9000 .8944 .2000 
N2 3.9864 .56972 .07682 3.4333 .8172 .1492 
N1 CTDT5 4.2000 .58346 .08422 KQ2 3.2500 .7164 .1602 
N2 3.8848 .47236 .06369 3.1667 .8743 .,1596 
N1 CTDT6 3.5384 .69009 .09961 KQ3 3.9000 .5712 .1277 
N2 3.2899 .46391 .06255 3.8333 .5307 .0969 
N1 KNM1 3.3229 .70326 .10151 KQ4 3.3500 .7452 .1666 
N2 3.2818 .42507 .05732 3.3000 .5960 .1088 
N1 KNM3 3.9521 .50781 .07330 KQ5 3.2521 1.0052 .2248 
N2 3.4636 .48928 .06597 2.786 1.1919 .,2176 
N1 KNM4 3.7500 .4443 .0993 KQ6 3.2503 .4443 .0993 
N2 3.2333 .7279 .1329 3.1333 .6915 .1262 
(Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu SPSS 22.0) 
Về kết quả phỏng vấn người sử dụng 
lao động, đa số người được hỏi (91,3%) 
đều cho rằng, sinh viên chuyên ngành kế 
toán – kiểm toán được đào tạo thường yếu 
ở các kỹ năng sử dụng các ứng dụng cơ 
bản như excel trong hạch toán, hay các 
phần mềm kế toán. Với các sinh viên kế 
toán các nhà quản lý được phỏng vấn đã 
đánh giá các sinh viên gần như chưa có kỹ 
năng trong việc lập báo cáo tài chính. Đối 
với các sinh viên mới tốt nghiệp làm việc 
tại các doanh nghiệp kiểm toán, việc trình 
bày thủ tục, kết quả kiểm toán trên các 
giấy tờ làm việc bằng excel thường gặp 
khó khăn. Bên cạnh đó các chương trình 
kiểm toán của các doanh nghiệp bằng 
tiếng Anh cũng là rào cản đối với sinh 
viên trong việc tiếp cận. 
4. THẢO LUẬN KẾT QUẢ 
NGHIÊN CỨU 
Theo bảng 4, thực trạng đào tạo kế 
toán, kiểm toán ở các trường ĐH, CĐ trên 
địa bàn Hải Phòng thể hiện ở các khía cạnh 
như sau: 
- Thứ nhất, về chương trình đào tạo kế 
toán, kiểm toán, việc đào tạo hiện nay còn có 
nhiều môn trùng lặp về nội dung khoa học nên 
cả người giảng và người nghe đều không hứng 
thú. Mặc dù Bộ Tài chính đã ban hành các 
chuẩn mực kế toán, kiểm toán nhưng hầu hết 
các giáo trình về kế toán, kiểm toán đều được 
soạn theo các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài 
chính nên hạn chế phần nào đến khả năng suy 
luận và phát triển kiến thức của sinh viên. 
Đánh giá chương trình đào tạo ngành kế 
toán, kiểm toán có áp dụng được vào thực tế 
 28 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
không, mean N1= 3.900 và mean N2= 3.4333 
(chủ yếu là mức độ trung bình), điều này khá 
phù hợp với các nghiên cứu trước đây về thực 
trạng đào tạo ở Việt Nam, hầu hết sinh viên 
được hỏi đều cho rằng đào tạo ngành kế toán, 
kiểm toán nặng về kiến thức hàn lâm. Sinh 
viên tốt nghiệp các trường ĐH, CĐ phần lớn 
được trang bị nhiều về lý thuyết kế toán, kiểm 
toán nhưng lại không được thực hành nhiều 
nên kỹ năng làm việc còn nhiều hạn chế. Hoạt 
động kế toán, kiểm toán tại doanh nghiệp 
không chỉ quan tâm tới hạch toán đúng chế 
độ, tuân thủ chuẩn mực kế toán, kiểm toán mà 
còn phải tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ 
có liên quan. Nhưng các chính sách, quy định 
liên quan mật thiết đến công tác kế toán như 
thuế, bảo hiểm, thì những sinh viên mới ra 
trường lại nắm chưa chắc và chưa có kinh 
nghiệm để xử lý sao cho phù hợp với hoạt 
động của doanh nghiệp. Khối kiến thức chung 
mang nặng tính lý thuyết giáo điều, chưa thực 
sự làm cơ sở cho kiến thức chuyên ngành (có 
thể nhận thấy vấn đề này trong kết quả khảo 
sát biến CTDT1, mean N1=3.1667, mean N2= 
2.5091), trong khi khối kiến thức chuyên 
ngành lại bị xé lẻ. Các kiến thức đào tạo 
truyền tải đến cho sinh viên hiện nay mới chỉ 
dừng lại ở các kiến thức nguyên lý về kế toán, 
kiểm toán mà chưa có sự kết nối với các kiến 
thức về kinh tế, tài chính. Điều này làm cho 
sinh viên bị hạn chế ở việc nhìn nhận, đánh 
giá và phân tích thông tin do kế toán và kiểm 
toán cung cấp. Các doanh nghiệp thì lại muốn 
tuyển những người có thể làm công việc 
chuyên môn được ngay để giảm bớt chi phí và 
thời gian đào tạo. Số lượng sinh viên trong 
một lớp khá nhiều (40 đến 80 sinh viên/lớp), 
trong khi đó chỉ có một giảng viên hướng dẫn 
nên việc đào tạo kỹ năng làm việc ở các 
trường ĐH, CĐ hết sức hạn chế. 
Bên cạnh đó, chương trình đào tạo hiện 
nay vẫn chưa tính nhiều đến vấn đề hội nhập, 
ngoại ngữ và kỹ năng mềm của người làm kế 
toán - kiểm toán sau này chưa được chú trọng 
thích đáng. Thỏa thuận trong khuôn khổ AEC 
về 8 lĩnh vực ngành nghề được tự do di 
chuyển có kèm theo yêu cầu lao động phải 
qua đào tạo và nếu thông thạo ngoại ngữ, đặc 
biệt là tiếng Anh sẽ được di chuyển tự do 
hơn. Tuy nhiên, trình độ tiếng Anh của sinh 
viên đang trở thành các thách thức với hoạt 
động đào tạo tại các trường ĐH, kết quả khảo 
sát biến KQ4 của cả 2 nhóm phần lớn đều ở 
mức độ trung bình đến khá. Điều này cũng là 
một trong các nguyên nhân dẫn tới việc sinh 
viên khó tiếp cận các kiến thức kế toán, kiểm 
toán trong tài liệu quốc tế tốt nghiệp không 
tự tin với việc tham gia tuyển dụng các vị trí 
kế toán, kiểm toán yêu cầu ngoại ngữ hoặc 
các doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Thực tế 
cho thấy, khi sinh viên năm thứ 3,4 trong giai 
đoạn thực tập tốt nghiệp, ứng tuyển vào vị trí 
thực tập sinh của các doanh nghiệp kiểm 
toán, các sinh viên thường e ngại đăng ký 
thi tuyển do không đáp ứng về điều kiện 
ngoại ngữ hoặc nếu có thi tuyển thì kết quả 
thi ngoại ngữ khá thấp so với kết quả thi 
nghiệp vụ. 
- Thứ hai, về phương pháp đào tạo: 
chủ yếu giảng viên vẫn đào tạo theo cách 
truyền thống là đọc - chép, xa rời thực tế, 
dẫn đến sinh viên ra trường chậm làm quen 
với công việc kế toán, kiểm toán. Sinh viên 
vẫn chưa có điều kiện được thực hành nhiều 
trong thực tiễn các hoạt động kế toán, kiểm 
toán, chỉ có một số rất ít sinh viên được 
tham gia thực tập tại một số công ty kiểm 
toán. Cũng chính cách thức đào tạo này đã 
khiến sinh viên thụ động trong việc tự 
nghiên cứu, trang bị kiến thức, dẫn tới việc 
 29 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 26, tháng 1/2018 
nhà quản lý đánh giá sinh viên tốt nghiệp ở 
Hải Phòng thường thiếu năng động, thiếu 
chuyên nghiệp. Mặc dù sinh viên được khảo 
sát đều đánh giá chương trình đào tạo đảm 
bảo việc phân bổ giờ lý thuyết – thực hành 
(giá trị mean của biến CTDT4 lần lượt là 
N1= 4.0635; N2= 3.9864). Nguyên nhân là 
do cơ sở vật chất và kinh phí của các trường 
trong khu vực thường quá thiếu (giá trị 
mean biến CS2 chủ yếu ở mức thấp và rất 
thấp), mới chỉ có trường ĐH Hải Phòng 
đang trong giai đoạn triển khai xây dựng và 
đưa vào sử dụng phòng kế toán ảo. Do đó 
việc thực hành của sinh viên trong quá trình 
đào tạo không cao, kỹ năng sử dụng phần 
mềm kế toán, máy tính và các phương tiện 
quản lý khác còn yếu, kỹ năng về phân tích, 
tổ chức hệ thống thông tin kế toán bằng 
phương tiện hiện đại còn mơ hồ. Hầu hết 
sinh viên trả lời học kỹ năng chuyên môn 
chủ yếu qua lý thuyết, thực hành trên chứng 
từ, sổ sách thủ công, phần mềm kế toán còn 
đơn giản, sơ sài, được thực hành rất ít. Một 
kỹ năng quan trọng của kiểm toán là kỹ 
năng thực hành kiểm toán báo cáo tài chính 
thì gần như các sinh viên được khảo sát đều 
trả lời không nắm được cách thức tiến hành. 
Mặt khác, kết quả khảo sát vấn đề này 
qua biến CTDT6 cho thấy sự phối hợp với 
các doanh nghiệp để sinh viên đi thực tập tốt 
nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, thời gian 
thực tập ít, thậm chí chỉ là hình thức, chỉ có 
một số trường hợp sinh viên được hỗ trợ thực 
tập tại doanh nghiệp kiểm toán như sinh viên 
tự thi tuyển thực tập vào doanh nghiệp kiểm 
toán hoặc trường ĐH hợp tác với doanh 
nghiệp kiểm toán. Giảng viên chưa có sự 
định hướng sâu sắc cho sinh viên trước khi đi 
thực tập, chưa có trách nhiệm với các sản 
phẩm đào tạo của mình. 
- Thứ ba, về việc tiếp cận các kiến thức 
kế toán, kiểm toán theo chương trình quốc tế, 
kết quả khảo sát ở biến CTDT1 (các học phần 
cập nhật kiến thức kế toán, kiểm toán quốc tế) 
và CS1 (điều kiện tiếp cận tài liệu quốc tế tại 
thư viện) đều ở mức trung bình. Hiện tại, ở 
Hải Phòng, chưa có một trường CĐ, ĐH nào 
có sự liên kết chính thức với các tổ chức đào 
tạo quốc tế về kế toán, kiểm toán có uy tín. 
Nguyên nhân cơ bản là các trường trong khu 
vực hầu như chưa có đầy đủ kinh phí để thực 
hiện việc liên kết đào tạo đồng thời sinh viên 
và ngay cả giảng viên vẫn chưa có tinh thần 
cạnh tranh trong học tập, tìm kiếm cơ hội tiếp 
cận với các hoạt động đào tạo theo chuẩn quốc 
tế. Điều này một phần có thể do các năm gần 
đây, Hải Phòng vẫn chưa thực sự có sự phát 
triển mạnh về các công ty cung cấp dịch vụ kế 
toán, kiểm toán, áp lực cạnh tranh trong việc 
tìm kiếm cơ hội phát triển nghề nghiệp tại các 
công ty này chưa cao. Bên cạnh đó, hiện nay 
chưa có một cơ sở đào tạo uy tín theo chuẩn 
quốc tế đặt chi nhánh, văn phòng tại Hải 
Phòng, do đó sinh viên và giảng viên đều gặp 
khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn đào 
tạo chất lượng cao này. Bên cạnh hạn chế về 
ngoại ngữ, đây cũng là một trong các lý do 
sinh viên tốt nghiệp e ngại trong việc ứng 
tuyển vào các vị trí kế toán, kiểm toán tại các 
doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài. 
5. PHƢƠNG HƢỚNG ĐỔI MỚI 
ĐÀO TẠO KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN TẠI 
CÁC TRƢỜNG CĐ, ĐH TRÊN ĐỊA BÀN 
HẢI PHÒNG 
 Từ yêu cầu và thực tế trên, để các sinh 
viên kế toán, kiểm toán thuộc các trường CĐ, 
ĐH ở Hải Phòng có thể đáp ứng được các đòi 
hỏi về kỹ năng nghề nghiệp, cần đổi mới căn 
bản chương trình, nội dung và phương thức đào 
 30 TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 
tạo kế toán và kiểm toán. Đổi mới chương trình 
đào tạo phải thực hiện đồng bộ với việc đổi 
mới phương pháp dạy và học. Không thể đổi 
mới chương trình đào tạo trên cơ sở phương 
pháp dạy và học cũ. 
Về chương trình đào tạo, cần đa dạng 
hơn, linh hoạt hơn cho các chuyên ngành kế 
toán và kiểm toán. Việc đào tạo cần lược bỏ 
các học phần trùng lặp về nội dung khoa học, 
bổ sung các học phần đào tạo chuyên sâu về tin 
học, ngoại ngữ và kỹ năng mềm của cán bộ kế 
toán - kiểm toán. Các trường ĐH, CĐ không 
nên chỉ dựa trên chương trình khung của Bộ 
Giáo dục và Đào tạo đã quy định trước đây để 
xây dựng chương trình đào tạo cho riêng mình, 
khiến khả năng được thừa nhận của sinh viên 
tại các chương trình quốc tế không cao. Đây 
cũng là nguyên nhân dẫn đến phần đông sinh 
viên ở Hải Phòng ra trường khó có thể đáp ứng 
yêu cầu của các doanh nghiệp nước ngoài. Các 
trường nên xây dựng các Module kiến thức cơ 
bản như nguyên lý kế toán, lý thuyết kiểm toán, 
luật kế toán, kiểm toán,... để làm tiền đề, là nền 
tảng trang bị cho sinh viên các kiến thức chung 
nhằm tiếp tục học các Module chuyên ngành. 
Các module về kiến thức chuyên ngành trang 
bị cho sinh viên kế toán, kiểm toán cần được 
tách biệt cụ thể cho từng chuyên ngành kế toán, 
chuyên ngành kiểm toán. 
Về nội dung, cần phong phú về kiến 
thức để vừa đảm bảo những kiến thức lý 
thuyết cơ bản, có tính nguyên lý, đạo lý và 
khoa học vừa có tính thực tiễn. Khoa học kế 
toán có tính độc lập và khá hoàn chỉnh cả về 
nội dung và phương pháp luận nhưng dựa 
trên nền tảng của khoa học quản lý và lý 
thuyết tài chính. Vì vậy, nội dung đào tạo 
không chỉ là những kiến thức nguyên lý, 
nguyên tắc của kế toán, kiểm toán, kỹ năng 
về phương pháp kế toán, kiểm toán mà rất 
cần những kiến thức về lý thuyết kinh tế, 
quản lý kinh tế và tài chính,... Kiến thức về 
kế toán và kiểm toán không chỉ dừng lại ở 
phương pháp kế toán, kiểm toán, phương 
pháp xử lý, tổng hợp và cung cấp thông tin 
kinh tế, tài chính mà quan trọng hơn là kỹ 
năng tổ chức thu thập, đánh giá thông tin, kỹ 
năng sử dụng thông tin do kế toán xử lý và 
cung cấp, do kiểm toán đã kiểm tra, đánh giá 
và xác nhận. Cần phải cung cấp cho người 
học kỹ năng nhìn nhận, đánh giá và phân tích 
thông tin do kế toán và kiểm toán cung cấp. 
Phương thức đào tạo cũng cần có 
thay đổi căn bản, hạn chế cách đào tạo 
truyền thống, cần có những đổi mới tích 
cực theo hướng giảm giờ lý thuyết, tăng giờ 
thực hành và giờ tự học của sinh viên. Để 
thực hiện được hiệu quả, các trường cần 
đầu tư nhiều hơn vào cơ sở vật chất phục 
vụ hoạt động thực hành kế toán, kiểm toán 
của sinh viên cũng như tăng sự phối hợp 
với các doanh nghiệp để sinh viên đi thực 
tập một cách thực chất 
Mục tiêu hướng tới là cần phải tạo cho 
sinh viên hiểu và phát triển lý luận mang tính 
bản chất của kế toán và kiểm toán còn chế độ 
hay các quy định kế toán, kiểm toán của Nhà 
nước trong từng thời kỳ, trong từng cơ chế 
quản lý chỉ là sự hiện thân, minh chứng cho 
những nguyên lý mang tính bản chất của kế 
toán. Giảng viên nên lựa chọn phương pháp 
giảng dạy và phương pháp học tích cực đối 
với các học phần kế toán và kiểm toán, tăng 
cường các bài tập tình huống, đối thoại giữa 
giảng viên và sinh viên. Các trường CĐ, ĐH ở 
Hải Phòng cần sớm đưa các phòng kế toán ảo 
vào hoạt động kết hợp với doanh nghiệp nhằm 
tạo cơ hội để sinh viên sớm tiếp cận kế toán, 
kiểm toán thực tế, đây là nội dung quan trọng, 
có tính quyết định chất lượng đào tạo. Bên 
 31 TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 26, tháng 1/2018 
cạnh đó, nên xây dựng mối liên kết với các tổ 
chức quốc tế để đào tạo Kế toán, kiểm toán 
như ICEAW - Viện Kế toán Công Chứng 
Vương quốc Anh và xứ Wales, ACCA - Hiệp 
hội Kế toán Công chứng Anh, để xây dựng 
chương trình học tập và phát triển nghề nghiệp 
chuyên nghiệp, được công nhận rộng rãi trong 
giới kế toán, tài chính và kiểm toán trên khắp 
thế giới. Để làm được điều này, các trường 
cần quan tâm nhiều hơn tới việc bồi dưỡng 
ngoại ngữ cho sinh viên và giảng viên, đầu từ 
xây dựng các học phần ngoại ngữ phục vụ 
chuyên ngành kế toán, kiểm toán. Bản thân 
người giảng viên cũng cần có những hiểu biết 
thực tế, kết hợp giữa giảng dạy lý thuyết với 
những báo cáo thực tế của các chuyên gia kinh 
tế, các doanh nhân, các nhà kế toán, kế toán 
trưởng, kiểm toán viên, đưa hơi thở của nghề 
nghiệp vào quá trình đào tạo. 
6. KẾT LUẬN 
Để thực hiện được một cách có hiệu 
quả quá trình đổi mới đào tạo chuyên 
ngành kế toán, kiểm toán ở các trường CĐ, 
ĐH trên địa bàn Hải Phòng trong quá trình 
hội nhập quốc tế sâu rộng cũng như sự 
phát triển của công nghiệp 4.0, cần có sự 
phối – kết hợp đồng bộ giữa cán bộ, giảng 
viên và phía nhà trường, với các doanh 
nghiệp cũng như sự hưởng ứng trong thay 
đổi việc dạy và học từ phía bản thân các 
sinh viên - những nhà kế toán, kiểm toán 
viên tương lai. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Vũ Đình Ánh (2016), “Khả năng hội nhập của nguồn nhân lực kế toán Việt Nam trong 
AEC”, Kỷ yếu Hội thảo Brexit và cộng đồng kinh tế ASEAN dưới góc nhìn hội nhập, Đại 
học Văn Hiến 
2. Phan Thanh Hải, Nguyễn Phi Sơn, “Đào tạo nhân lực cho ngành Kiểm toán độc lập của 
Việt Nam trong các đường đại học: Cơ hội và thách thức khi gia nhập, AEC”, Đại học 
Duy Tân 
3. Đặng Văn Thanh (2011), “Đổi mới chương trình, nội dung và phương thức đào tạo kế 
toán - kiểm toán ở Việt Nam”, Tạp chí Kiểm toán, số 5/2011 
4. Quyết định số 865/QĐ-TTG ngày 10/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ, Về việc phê duyệt 
Quy hoạch xây dựng Vùng Duyên hải Bắc Bộ đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 
5. Nguyễn Thanh Hà, “Dịch vụ kế toán kiển toán trong hội nhập AEC”, SBLAW, 
6. Hồng Hạnh (2011), “Nhiều bất cập trong đào tạo ngành Kế toán - kiểm toán”, Dân trí, 
04/11/2011,
ke-toan-kiem-toan-1320733088.htm 
7. Thu Hằng (2015), “Kế toán kiểm toán Việt Nam hội nhập TPP và AEC”, Công thương, 
18/12/2015,
aec.html 

File đính kèm:

  • pdfdoi_moi_dao_tao_ke_toan_kiem_toan_o_cac_truong_cao_dang_dai.pdf