Diễn trình tiếp biến văn hóa trên nghệ thuật tranh kính ở Việt Nam
Bài viết thông qua việc tìm hiểu, phân tích các thông tin, một số cơ sở lý luận
đã có, từ đó đưa ra một số nhận định nhằm mục đích nêu rõ quá trình tiếp biến văn hóa thể
hiện trên nghệ thuật tranh kính từ khi du nhập đến giai đoạn phát triển như ngày nay ở xã
hội Việt Nam. Lý thuyết về tiếp biến văn hóa là lý thuyết mang tính khoa học được hình thành
ở phương Tây, nhưng nó đã gắn với các lĩnh vực khác nhau trong xã hội cả phương Tây và
phương Đông, và ở lĩnh vực nào cũng có những vấn đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp,
trong lĩnh vực nghệ thuật cũng không nằm ngoài phạm vi đó. Lý thuyết tiếp biến văn hóa khi
soi chiếu trên nghệ thuật tranh kính ở Việt Nam để thấy bối cảnh lịch sử văn hóa là cơ sở cho
việc tìm hiểu sâu hơn các loại hình, chủ đề thể hiện trên tranh kính, nội dung, phương pháp
thể hiện tranh kính qua chiều dài thay đổi của văn hóa, của lịch sử.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Diễn trình tiếp biến văn hóa trên nghệ thuật tranh kính ở Việt Nam
34 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion DIỄN TRÌNH TIẾP BIẾN VĂN HÓA TRÊN NGHỆ THUẬT TRANH KÍNH Ở VIỆT NAM CULTURE PROCESS ON THE ART OF GLASS PAINTING IN VIETNAM Nguyễn Thị Bích Liễu, Đỗ Thị Thanh Huyền* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 2/10/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 3/04/2020 Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/04/2020 Tóm tắt: Bài viết thông qua việc tìm hiểu, phân tích các thông tin, một số cơ sở lý luận đã có, từ đó đưa ra một số nhận định nhằm mục đích nêu rõ quá trình tiếp biến văn hóa thể hiện trên nghệ thuật tranh kính từ khi du nhập đến giai đoạn phát triển như ngày nay ở xã hội Việt Nam. Lý thuyết về tiếp biến văn hóa là lý thuyết mang tính khoa học được hình thành ở phương Tây, nhưng nó đã gắn với các lĩnh vực khác nhau trong xã hội cả phương Tây và phương Đông, và ở lĩnh vực nào cũng có những vấn đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp, trong lĩnh vực nghệ thuật cũng không nằm ngoài phạm vi đó. Lý thuyết tiếp biến văn hóa khi soi chiếu trên nghệ thuật tranh kính ở Việt Nam để thấy bối cảnh lịch sử văn hóa là cơ sở cho việc tìm hiểu sâu hơn các loại hình, chủ đề thể hiện trên tranh kính, nội dung, phương pháp thể hiện tranh kính qua chiều dài thay đổi của văn hóa, của lịch sử. Từ khóa: Tiếp biến văn hóa, nghệ thuật tranh kính, Việt Nam Abstract: The essay through the study and analysis of the information, some theoretical bases already exist, from which to make some comments aimed at stating the cultural acculturation process refl ected in the art of glass paintings. when being introduced to the current stage of development in Vietnamese society. The theory of cultural acculturation is a scientifi c theory formed in the West, but it has been associated with diff erent fi elds in society both in the West and the East, and in every area there are problems. Topics that are directly or indirectly involved in the arts are not out of scope. The theory of cultural continuity when refl ecting on the art of glass painting in Vietnam to see the context of cultural history is the basis for further understanding the types and topics presented on glass paintings, content and methods. France shows glass paintings through the changing length of culture and history. Keywords: Cultural acculturation, art of glass painting, Vietnam * Trường Đại học Mở Hà Nội Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 66 (4/2020) 34-43 35Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 1. Đặt vấn đề Tiếp biến văn hóa không còn là vấn đề mới, nó đã được các nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu một cách khoa học từ đầu thế kỷ XX, những năm 1918. Thực tế, thuật ngữ Tiếp biến văn hóa này được các nhà dân tộc học phương Tây sử dụng đầu tiên vào khoảng năm 1880. Tiếp biến văn hóa là từ dùng để giải thích quá trình thay đổi văn hóa và thay đổi tâm lý từ kết quả của các cuộc gặp gỡ giữa các nền văn hóa. Quá trình gặp gỡ giữa các nền văn hóa đó sẽ xuất hiện những ảnh hưởng của giao lưu văn hóa, việc ảnh hưởng của giao lưu văn hóa này diễn ra ở nhiều cấp độ bên trong sự tương tác của cả hai nền văn hóa giao lưu đó. “Tiếp biến văn hóa là một quá trình biến đổi kép về văn hóa và tâm lý xảy ra do kết quả của sự tiếp xúc giữa hai hoặc nhiều nhóm văn hóa và những cá nhân thành viên của những nhóm văn hóa đó”.† 2. Nội dung 2.1. Thuật ngữ tiếp biến văn hóa Tiếp biến văn hóa có nhiều khái niệm khác nhau, ở mỗi một lĩnh vực sẽ có một cách hiểu, một khái niệm. Theo tác giả Radugin trong cuốn Từ điển Bách Khoa văn học đã nhận định rằng: Tiếp nhận văn hóa là quá trình một nhóm sắc tộc này tiếp nhận văn hóa một nhóm sắc tộc khác tiến bộ hơn trong quá trình giao lưu văn hóa giữa hai bên. Trong Nhân loại học, ‘tiếp nhận văn hóa’ có nghĩa một nhóm sắc tộc này có ảnh hưởng đến một sắc tộc khác về mặt văn hóa trong khi † International Journal of intercultural relation, No 29 (2005) hai bên có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tiếp nhận văn hóa là hình thái của truyền bá văn hóa, và để chỉ quá trình tiếp xúc này. Nói cách chặt chẽ, tiếp nhận văn hóa bao gồm việc biến đối về văn hóa giữa cả hai bên trong khi tiếp xúc một thời gian dài. Tuy nhiên, nghĩa thông thường của tiếp nhận văn hóa chủ yếu dùng để chỉ những thay đổi về văn hóa của những xã hội phương Tây đã công nghiệp hóa. [10, tr.448] 2.2. Tiếp biến văn hóa trên nghệ thuật tranh kính ở Việt Nam Việc nhận định tiếp biến văn hóa trong nghiên cứu cụ thể của nghệ thuật tranh kính ở Việt Nam với các nội dung chi tiết sau: Sự tiếp nhận, tiếp biến văn hóa ở loại hình tranh kính nhà thờ Trên thế giới, tranh kính được hình thành từ kính ghép màu, đây là loại hình có từ rất sớm và là loại hình nghệ thuật phổ biến ở các nước phương Tây. Hình thức ban đầu của cửa sổ kính màu là những tấm thủy tinh phẳng. Về sau, bằng sự sáng tạo của những họa sĩ, nghệ sĩ, kính ghép màu đã được sử dụng để tạo nên rất nhiều sản phẩm nghệ thuật độc đáo, lạ mắt và ấn tượng phục vụ cho con người. Kính ghép màu đã tạo nên các tác phẩm trang trí trên cửa sổ được xem là một loại hình nghệ thuật, những cửa sổ kính màu trong các công trình nhà thờ, công trình tôn giáo vẫn tồn tại nguyên vẹn và uy nghi đến nay. Nội dung mô tả trên các cửa sổ kính màu có thể được kết hợp từ những câu chuyện trong Kinh thánh, lịch sử hoặc văn học, miêu tả các thiên thần, thần thánh. Tranh 36 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion kính màu là yếu tố không thể thiếu trong kiến trúc của các nhà thờ Công giáo ở phương Tây. Và tranh kính nhà thờ Công giáo phương Tây này đã theo chân những người truyền giáo để du nhập vào Việt Nam và góp mặt trong các công trình kiến trúc nhà thờ Công giáo ở Việt Nam. Việc truyền đạo vào Việt Nam có từ sớm, nhưng việc truyền đạo này cũng trải qua nhiều giai đoạn, nhiều khó khăn khác nhau, và không phải lúc nào cũng thuận lợi. Chính vì vậy, giai đoạn đầu các linh mục người phương Tây chưa có đủ điều kiện về mọi mặt để xây dựng công trình nhà thờ có quy mô như ở các nước phương Tây. Mãi đến thế kỷ thứ XIX, một số nhà thờ có quy mô mới được xây dựng ở Việt Nam, và đa phần đều do người Pháp xây dựng. Thế kỷ thứ XIX, người Pháp cho xây dựng nhiều nhà thờ nằm rải rác đất nước và với mục đích hành lễ, truyền đạo của người Pháp và những người theo Pháp. Trong những công trình kiến trúc nhà thờ đó, bắt đầu có sự xuất hiện của các bức tranh cửa sổ kính màu. Nội dung của các bức tranh đó vẫn được giữ nguyên về các chủ đề liên quan đến Kinh thánh, đến Đức Mẹ...Do được người Pháp xây dựng tại Việt Nam, cho nên các bức tranh cửa sổ kính màu ngoài các chủ đề về Chúa, về Đức Mẹ, về thế giới rộng lớn cao cả của Chúa, về các Thánh, còn có các bức tranh về chủ đề những người có công với nước Pháp, và về các Thánh tử vì đạo là người Pháp hoặc người Việt Nam. Tranh kính trong nhà thờ thế kỷ thứ XIX ở Việt Nam thường có các đề tài như: Đề tài về Đức Mẹ Đồng Trinh: Ở phương Tây, tranh kính về Đức Mẹ thường có các nội dung như: Chân dung Đức Mẹ, Tranh toàn thân Đức Mẹ, Đức Mẹ đang bế chúa Hài đồng...Với phương Tây, có lẽ biểu tượng Đức Mẹ Đồng Trinh là biểu tượng được tôn sùng nhất trong chính thống giáo. Sự tôn sùng Đức Mẹ của người phương Tây có lẽ cũng giống như sự tôn sùng của người phương Đông với biểu tượng Quan Thế Âm bồ tát. Các vị đều là người biểu tượng được người đời tôn sùng, kính bái. Khi các họa sĩ thể hiện hình tượng hai biểu tượng này, họ đều cố gắng thể hiện một sự hoàn mỹ nhất từ vóc dáng, trang phục tới dung mạo, thần thái để toát lên vẻ nhân từ, hiền hậu và tình yêu bao la với giáo dân với dân chúng. Đề tài về Chúa: Các bức tranh về Chúa đều rất đẹp, được các nghệ nhân dùng các thủ pháp về đường nét, màu sắc để phản ánh rõ đặc điểm, tính cách của Chúa. Tranh kính màu về Chúa được đánh giá là loại tranh rất khó thực hiện. Bởi ngoài sự đặc tả về mặt hình thức, ngoài hình, vẻ đẹp bên ngoài, các nghệ nhân còn phải bộc lộ được tâm thái sâu xa của Chúa, bộc lộ được thần thái của Chúa, và điểm nhấn chính là đôi mắt. Một đặc điểm rất nổi bật, là trong tất cả các bức tranh, Chúa luôn xuất hiện với vẻ ngoài gầy gò, râu tóc dài. Hình tượng về Chúa với tín ngưỡng Kito giáo là hình tượng của Đấng tối cao, xuất hiện để cứu rỗi các linh hồn, cứu rỗi nhân loại. Sự tôn sùng hình tượng Chúa của người phương Tây có lẽ cũng giống như sự tôn sùng của người Á Đông với Đức Phật. Họ đều là những Đấng tối cao, là người cứu nhân độ thế, cứu rỗi nhân loại khỏi áp bức, lầm than, để đưa con người đến sự thánh thiện. Đề tài về chân dung các Thánh: Đề tài về chân dung các Thánh này gồm có các vị Thánh môn đệ của Chúa, Thánh truyền tin, các Thánh tử vì đạo. Đề tài về 37Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion chân dung các vị Thánh này cũng có sự tương tự như chân dung về Chúa, là một đề tài cũng khá phức tạp bởi ngoài việc diễn tả về hính thức các vị Thánh, các nghệ nhân còn phải miêu tả nội tâm của nhân vật. Các vị Thánh có trong tranh kính nhà thờ đều là những người phương Tây có công hoặc tử vì đạo. Nhưng cũng có một số nhà thờ có bức tranh về Thánh được thể hiện theo tuýp người Á Đông, và mang trang phục thuần dân bản địa như: hai bức tranh thánh ở nhà thờ Cửa Bắc, Hà Nội (xây dựng năm 1925). Đề tài về kể lại các điển tích có trong Kinh thánh: Các bức tranh kính về đề tài này phản ánh về những sự kiện trọng đại có liên quan đến Chúa, và được xây dựng dưới dạng tranh sinh hoạt, nhưng là sinh hoạt đời thường của các vị Thánh, Chúa trong Kinh thánh. Như câu chuyện từ khi Chúa bị bắt đến khi Chúa bị đóng đinh câu rút và hạ thánh thể xuống, hay những hoạt cảnh Đức Mẹ và Chúa Hài đồng, Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Joocdan...ở mỗi hoạt cảnh lại có bối cảnh khác nhau về các mô típ trang trí, về cỏ cây hoa lá... Thời gian về sau, Công giáo ngày càng phát triển, các công trình nhà thờ được xây dựng nhiều hơn, rải rác khắp đất nước Việt Nam, tranh kính màu trong các nhà thờ dần dần có sự Việt hóa hơn. Lúc này, tranh kính đã do các họa sĩ, nghệ nhân người Việt sáng tác. Phong cách tạo hình trên tranh kính màu nhà thờ của các họa sĩ Việt Nam ngày càng được thể hiện rõ nét hơn. Chủ đề, nội dung vẫn về Chúa, Đức Mẹ, về các vị Thánh, nhưng trong các bức tranh kính bối cảnh đã có sự Việt hóa. Như tranh kính ở nhà thờ Đa Minh, Huyện Sĩ, hình tượng Đức Mẹ, hình tượng Chúa Hài đồng, Thánh Giêsu được miêu tả đã có sự gần gũi với người Việt hơn. Ta sẽ bắt gặp bầu trời đêm qua rặng tre, mái chòi tranh. Bên dưới bức tranh là hình ảnh con gà, ao sen nở, gợi nhớ về hình ảnh nông thôn Việt Nam. Hoa văn phía sau bức tranh họa sĩ không sử dụng hoa văn của phương Tây mà là hoa văn của người Việt. Giai đoạn về sau, bối cảnh và con người trong tranh kính nhà thờ đã một phần được Việt hóa. [3, tr 256, 257]. Có thể nói, dù tranh kính dùng trong nhà thờ tại Việt Nam, nhưng nội dung, đề tài, chủ đề của các bức tranh kính nhà thờ vẫn mang đúng theo nội dung, chủ đề của tranh kính nhà thờ phương Tây. Đây là một trong những yếu tố khẳng định về sự tiếp nhận văn hóa phương Tây vào Việt Nam. Sự tiếp nhận này trải qua nhiều quá trình khác nhau, trong góc độ nào đó, một thời điểm, sự tiếp nhận là sự tiếp biến văn hóa khi du nhập vào Việt Nam. Qua sự tiếp nhận văn hóa Công giáo của phương Tây, ngoài việc gìn giữ những giá trị vốn có, tranh kính nhà thờ đã có sự tiếp biến văn hóa trong việc thể hiện trong bức tranh kính Thánh Ane Lê Thị Thành này. Sự tiếp biến văn hóa trong tranh kính nhà thờ thời gian về sau còn được thể hiện rõ nét hơn. Hình tượng nhân vật, bối cảnh trong tranh đã gắn với người Việt, mang bối cảnh của đất nước Việt Nam. Sự tiếp nhận, tiếp biến văn hóa ở loại hình tranh gương cung đình Huế Tranh gương là loại tranh được các nghệ nhân, các họa sĩ dùng chất liệu vẽ là từ bột màu pha với keo, hoặc với sơn, hoặc xà cừ vẽ hay khảm vào mặt sau của gương, sau đó lật lại để nhìn mặt trước trở thành tranh gương. Đây là cách vẽ âm bản để nhìn mặt trước của tranh thành dương 38 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion bản. Lối vẽ tranh này khá giống với một số loại tranh đã có của Việt Nam. Theo nhà nghiên cứu Thái Văn Kiểm, tác giả cuốn Cố đô Huế (cùng lời truyền của một số người cao tuổi ở Huế) đã nhận định rằng: Tranh gương cung đình Nguyễn đa phần được các Vua triều Nguyễn đặt hàng vẽ từ Trung Quốc, và vị vua được cho rằng đã du nhập loại hình tranh này nguyên là vua Thiệu Trị (1841 - 1847) - đời vua thứ 3 của triều đình nhà Nguyễn nước Đại Nam. Cũng theo các nhà nghiên cứu, tranh gương xứ Huế có 3 nguồn xuất xứ ứng với ba dòng tranh gương, đó là: Dòng tranh gương minh họa 20 bài thơ ngự chế của vua Thiệu Trị; Dòng tranh gương có chủ đề, thể hiện các điển tích lịch sử; Và dòng tranh gương tĩnh vật. Tuy ba dòng tranh với ba chủ đề khác nhau, nhưng cách phối màu trong tranh gương, kỹ thuật thể hiện tranh về cơ bản đều mang nét giống nhau. Dòng tranh gương với các bài thơ ngự chế - tranh thi họa: Loại tranh gương này được vua Thiệu Trị đặt hàng từ Trung Quốc, để miêu tả lại các danh lam thắng cảnh trong 20 bài thơ vịnh cảnh của nhà vua. Từ năm 1844 đến năm 1845, vua Thiệu trị đã ra lệnh cho Nội Các phải cố định hóa chùm thơ của ông bằng nhiều hình thức: In ấn thành sách có minh họa (bộ Ngự đề Đồ Hội Thi tập), hoặc vẽ tranh treo tại các cung điện. Đây cũng là dòng tranh gương cao cấp nhất, chỉ được sử dụng trong chốn cung đình triều Nhà Nguyễn. Về giá trị lịch sử, trên phương diện thưởng ngoạn, những bức bích họa trên gương có thể đơn thuần nói lên cảnh đẹp của thiên nhiên, phong cảnh non nước hữu tình của xứ Huế, tài hoa của người nghệ nhân vẽ hoặc khảm tranh, sự chi li tỷ mỷ của người làm khung, và sự xuất chúng của người ngự chế. Nhưng với người nhà nghiên cứu, bên cạnh giá trị thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật, ở mỗi tác phẩm tranh gương lại mang trong mình những cứ liệu lịch sử quan trọng. Ở các tác phẩm bích họa đề vịnh 20 cảnh đẹp của xứ Huế, đó là những nguồn tư liệu căn cứ quý giá trong việc trùng tu phục dựng các di tích có trong thơ. Dù tác phẩm bích họa ngự chế hay vịnh cảnh, vịnh màu đều mang phong cách vẽ, cách sử dụng màu tương đối giống nhau: “Hầu hết những tranh này thiên về bảng màu lạnh, cảnh sắc và cả mái nhà đều là màu xanh, mây trời cũng trắng xanh, chỉ có cột nhà đỏ và viền nét vàng. Tất cả được vẽ rất chi tiết, mảng màu vờn chuyển sắc độ tinh tế, các nhân vật được tỉa tót tỉ mỉ, bố cục dựa trên viễn cận xã hội theo tâm lý ngược với chiều nhìn tự nhiên. Họa gia tưởng tượng những cảnh trong thơ của vua Thiệu Trị theo thiên nhiên xứ lạnh mà họ đang sống và thể hiện theo lối “công bút” rất cẩn thận. Những tranh này vẽ trực tiếp lên mặt sau của kính, vẽ và viết theo lối “bản âm” để khi nhìn mặt trước trở thành bản dương, màu ngoài vẽ trước, màu trong vẽ sau và cuối cùng mới vẽ màu nền. Màu tốt bền, ngày nay vẫn giữ nguyên” [7, tr 107 - 109]. Bố cục các tác phẩm dựa trên cái nhìn xa ... ẽ các lễ vật đặt trên “tam sơn” như một bàn thờ (kiểu tranh Chủ dân gian Đông Hồ)” [2, tr 124, 125]. Dòng tranh gương tĩnh vật mang hai luồng ý kiến trái chiều nhau. Nếu ông Chu Quang Trứ cho rằng “Tranh kính loại 3 này có đề tài đơn giản, kỹ thuật vẽ còn thô vụng, nghệ thuật hòa sắc còn tùy tiện, mới chỉ ở bước thể nghiệm cho một loại tranh bắt chước tự phát hàng nhập của Trung Quốc. Có thể tin chắc những tranh kính này do người Việt chưa được trang bị đầy đủ kiến thức nghề nghiệp, vẽ ra ở cuối thế kỷ trước sang đầu thế kỷ này” [2, tr 124, 125]. Bên cạnh đó là dòng ý kiến trái chiều với Chu Quang Trứ. Có một số nhà nghiên cứu ở Huế lại đưa ra nhận định rằng chất lượng nghệ thuật của dòng tranh này khá cao “Sự hiện diện của tranh gương tĩnh vật thời Nguyễn được chứng tỏ qua 10 bức tranh gương cỡ 50x60cm, treo trên tường các cột ngoài của chính điện lăng Đồng Khánh. Họa tiết gồm bình hoa quả phẩm, lư trầm hay nghiên bút... đặt trên những chiếc kỷ biến đổi nhiều dáng, được viền bằng những đường hồi văn; màu sắc phong phú, thường là màu nền khói hương, hoặc xanh da trời, hoặc đen huyền, trên đó nổi bật màu đỏ chu của lỷ, màu xanh ngọc của bình hoa... làm cho bức tranh tĩnh vật nào cũng lộng lẫy mà có duyên thầm”[6, tr 167]. Có thể nói, dù dòng tranh ngự chế cao cấp hay dòng tranh tĩnh vật giản đơn, thì các tác phẩm tranh gương xứ Huế vẫn là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, có giá trị cao về mặt thẩm mỹ. Ở loại hình tranh gương này, màu sắc trong tranh trở thành ngôn ngữ độc quyền của mảng nghệ thuật riêng biệt. Ngoài ra, các tác phẩm tranh gương được lồng trong khung sơn son thếp vàng chạm nổi những chi tiết hoa trái trời mây. Có tác phẩm khi được thếp vàng dùng vàng thật với một chất kết dính đặc biệt, màu vàng của khung không bao giờ phai màu, luôn giữ được sự óng ánh lung linh quyền quý của chất liệu này. Mặc dù trải qua đủ thăng trầm trong dòng chảy lịch sử văn hóa, nhưng sự óng ánh tươi tắn và rực rỡ của các tác phẩm tranh gương sơn son thếp vàng vẫn luôn như mới, có 40 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion độ phát quang lan tỏa giữa các màu trong tranh. Đồng thời qua các tác phẩm tranh gương còn phản ánh được tình hình, diện mạo của nền mỹ thuật triều Nguyễn và nói nên nhận thức của một thời đại đã qua, là lăng kính để thế hệ sau có thể nhìn lại và học tập. Sự tiếp nhận, tiếp biến văn hóa ở loại hình tranh kính (người Nam Bộ còn gọi là tranh kiếng) thủ công ở Nam Bộ Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một bộ phận người Quảng Đông (Trung Quốc) di dân đến mảnh đất Nam Bộ, Việt Nam để sinh sống và lập nghiệp. Khi di dân sang Nam Bộ, họ đã mang theo nghề làm kính. Ban đầu họ đã mở các cửa tiệm buôn bán kiếng, với các loại kiếng tráng thủy tinh làm gương soi, kiếng khuôn cửa tủ, khung cửa chớp, ô cửa thoáng, và vẽ tranh đơn gian trên kiếng. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, việc làm kiếng và vẽ tranh trên kiếng ngày càng phát triển, sau đã ra đời dòng tranh kiếng Nam Bộ. Tranh kiếng Nam Bộ mang trong mình những nét đặc sắc riêng với bốn dòng nổi tiếng, đó là: tranh kiếng Chợ Lớn (Sài Gòn); tranh kiếng Lái Thêu (huyện Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương), dòng tranh kiếng Chợ Mới (An Giang), và dòng tranh kiếng Khmer, Nam Bộ. Qua quá trình phát triển, nghề tranh kiếng thủ công đã nuôi sống người dân trong vùng và đem lại cho họ cuộc sống ấm no và có phần sung túc. Nghề vẽ thủ công trên tranh kiếng của Nam Bộ là nghề thủ công độc đáo, đặc sắc, đặc sắc bởi cách vẽ, bởi chất liệu của tranh. Tranh kiếng Nam Bộ là loại hình tranh được vẽ thủ công từ phía sau mặt kiếng, với đặc điểm khác biệt về kỹ thuật, chúng được vẽ bởi kỹ thuật vẽ ngược, hình ảnh phía trước phải vẽ trước, hình ảnh phía sau thì vẽ sau (từng lớp từng lớp một), chính kỹ thuật này đòi hỏi những người nghệ nhân, người thợ vẽ tranh kiếng phải vô cùng khéo léo và tỉ mỉ mới có thể tạo nên được những bức tranh kiếng sinh động, nét vẽ dứt khoát, sắc sảo, màu sắc phong phú và bắt mắt. Tranh kiếng Nam Bộ thời bấy giờ vẽ về các chủ đề như: Tranh thờ; Tranh trang trí nhà cửa; Tranh chúc thọ; Tranh mừng tân gia, khai trương...Đặc điểm nổi bật trong quá trình phát triển của tranh kiếng là ở mỗi giai đoạn phát triển, nó luôn tích hợp những nội dung mới để phù hợp với tập tục, văn hóa và lối sống của cộng đồng dân cư, dân tộc và từ đó, mỗi dòng tranh kiếng hình thành những sắc thái riêng biệt, độc đáo. Dòng tranh kiếng Chợ Lớn, Sài Gòn là dòng tranh kiếng thủ công ra đời sớm nhất trong các dòng tranh kiếng thủ công ở Nam Bộ. Tranh Chợ Lớn thường dùng màu đỏ, dán giấy quỳ màu vàng, hoặc giấy quỳ màu bạc, sau đó áp dụng kỹ thuật tráng thủy tạo nên những đường nét hoặc nền tranh ánh nên sắc sáng bạc, thêm phần lung linh cho tranh. Dòng tranh Chợ Lớn rất phong phú, đề tài đa dạng, kỹ thuật thể hiện có sự cải tiến theo thời gian và thị hiếu của người dân Nam Bộ. Dòng tranh Lái Thiêu: có loại vẽ nhiều màu, tiêu biểu như màu hồng vàng nhẹ, màu xanh lông két, màu trắng, màu vàng, xanh dương...nhưng cũng có loại màu nền đen hoặc đỏ, đặc biệt các hoa văn, hình họa đều dán ốc xà cừ để tạo nên sắc trắng bạc phản quang. Sắc màu phản quang truyền thống là lớp màu điệp trong tranh mộc bản, kế đó là sản phẩm cẩn ốc 41Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion xà cừ và hiện đại là tráng thủy và dán giấy trang kim đa sắc, chủ yếu là vàng kim và bạc. Tranh kiếng Lái Thiêu thường có hai loại và tranh thờ tổ tiên và thanh thờ thần phật. Có thể nói tranh kiếng thờ tổ tiên của Lái Thiêu được cho là dòng tranh mở đầu cho loại hình tranh thờ tổ tiên lừng danh của vùng đất Nam Bộ, Việt Nam. Dòng tranh Bà Vệ, thuộc xã Long Điền B, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, dòng tranh này ra đời muộn hơn so với những dòng tranh trước. Tranh kiếng Bà Vệ phát triển mạnh từ những năm 1950, người đầu tiên mang dòng tranh kiếng về xứ này là ông Trần Vắn Tú. Ông học nghề vẽ tranh kiếng theo phường tranh Lái Thiêu, sau đó ông về xứ Bà Vệ để hành và phát triển nghề tại đây. Tranh kiếng Bà Vệ dù ra đời muộn hơn các dòng tranh kiếng thủ công khác ở Nam Bộ, nhưng loại hình tranh kiếng Bà Vệ rất phong phú và đặc biệt, gồm: tranh kiếng thờ thần phật, tranh kiếng tuồng tích, tranh kiếng trang trí. Tranh kiếng Bà Vệ có chủ đề rất phong phú, đa dạng, về nhiều loại hình khác nhau để phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân Nam Bộ. Nhưng tất cả các chủ đề trong tranh đều ẩn chứa ngụ ý cầu mong mọi sự bình an, cuộc sống yên bình, mọi việc các tường như ý. Dòng tranh kiếng Khmer: dòng tranh này chủ yếu ở vùng sinh sống của người dân Khmer là Trà Vinh và Sóc Trăng, trong đó tranh kiếng Khmer, Trà Vinh ra đời vào khoảng những năm 1935, 1936, còn làng tranh kiếng Phú Tân (Sóc Trăng) ra đời muộn hơn một chút và còn tồn tại đến nay. Loại hình chính ở tranh kiếng Khmer là tranh thờ ông bà, tổ tiên, thần phật. Các nhân vật trong tranh được mặc các tranh phục truyền thống của người Khmer. Đây là điểm khác biệt của dòng tranh kiếng Khmer với các dòng tranh kiếng Nam Bộ khác. Các nghệ nhân người Khmer với kỹ pháp điêu luyện đã tạo nên những tác phẩm tranh kiếng đa dạng và đặc sắc, không lẫn với bất kỳ dòng tranh nào khác ở Nam Bộ, Việt Nam. Mỗi dòng tranh kiếng thủ công ở Nam Bộ với những đặc trưng riêng đã hình thành nên một nền mỹ thuật mang sắc thái riêng của mỗi cộng đồng dân cư, dân tộc, góp phần làm phong phú cho bảng màu đa dạng của văn hóa Nam Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung. Dù loại hình tranh kính thủ công ở Nam Bộ có xuất phát điểm từ những người di dân Trung Hoa, nhưng quá trình tiếp nhận, tiếp biến văn hóa trải dài theo sự phát triển của xã hội, chiều dài của lịch sử, khi du nhập vào Việt Nam, tranh kính thủ công đã có sự thay đổi để phù hợp với văn hóa, phong tục, tập quán của nước Việt, người Việt. Sau quãng thời gian dài phát triển, nghề thủ công độc đáo này đã thay đổi và trở thành yếu tố nghệ thuật của dân tộc. Trải qua bao đời, cùng với nền văn hóa ở Việt Nam, loại hình tranh kính thủ công này đã trở thành loại hình nghệ thuật của người Việt, phục vụ nhu cầu của người Việt. Và có thời gian nó còn là một nghề mang lại cuộc sống ấm, lo đủ đầy cho người dân Nam Bộ, Việt Nam. Sự tiếp biến văn hóa trên nghệ thuật tranh kính ở Việt Nam từ sau năm 1975. Sau năm 1975, đất nước thống nhất, nền kinh tế bắt đầu có sự phục hồi, phát triển, kéo theo sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác trong xã hội. Tranh kính ở Việt Nam từ giai đoạn này đã có dấu hiệu phát triển trở lại. Thời gian đầu, nhiều cơ sở, 42 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion “họa sĩ thể hiện các tác phẩm tranh kính của các họa sĩ Châu Âu, nhưng theo thời gian, phong cách tạo hình của các họa sĩ càng thể hiện rõ nét hơn” [3, tr 356], nội dung, chủ đề thể hiện trên các tác phẩm tranh kính gắn với văn hóa, nhu cầu thẩm mỹ của người Việt, dần dần hình thành bản sắc riêng của các họa sĩ, của nghệ thuật tranh kính ở Việt Nam. Các dòng tranh kính ở Việt Nam đã mang đậm dấu ấn văn hóa Việt, có độ tinh tế, tính nghệ thuật cao, thể hiện các đề tài gần gũi với đời sống người Việt Nam. Các họa sĩ, nghệ nhân đã kế thừa tinh hoa của nghệ thuật tranh kính trên thế giới, kết hợp với văn hóa, thẩm mỹ của dân tộc để từ đó tạo nên các sản phẩm tranh kính mang trong mình âm hưởng của dân tộc trong các tác phẩm tranh kính cho người Việt. Từ sau những năm 90, của thế kỷ XX, loại hình tranh kính có sự phát triển mạnh, có nhiều doanh nghiệp, họa sĩ đã tham gia sản xuất và sáng tác tranh kính ở các hình thức, chủ đề, kỹ thuật thể hiện, ứng dụng cho nhiều công trình kiến trúc, nội thất lớn nhỏ khác nhau. Hình thức và phương pháp thực hiện tranh kính cũng đã có nhiều bước cải tiến, đổi mới được áp dụng trên cơ sở khoa học kỹ thuật mới, mang đến nhiều loại hình tranh kính khác như hơn. Nếu trước năm 1975, ở Việt Nam chỉ có tranh kính ghéo màu trong nhà thờ, tranh gương Huế, tranh kính thủ công ở Nam Bộ, thì sau năm 1975, kinh tế có sự phục hồi và bắt đầu những bước phát triển, đặc biệt là từ những năm 1990, đã có nhiều loại hình của tranh kính được người những họa sĩ, nghệ nhân khám phá, áp dụng, như: Tranh kính điêu khắc, tranh kính phun cát, tranh kính in... Bên cạnh đó, các họa sĩ, nghệ nhân đã cải tiến nhiều hình thức khác nhau của tranh kính, như: Vách kính trang trí, tranh kính nghệ thuật, sàn kính... Chủ đề và nội dung thể hiện trên tranh cũng có sự sáng tạo hơn. Rất nhiều chủ đề mới đã được các họa sĩ, nghệ nhân đưa vào tranh kính để phục vụ cho nhu cầu của người Việt. Tranh kính Việt Nam từ đó không chỉ là những nét chấm phá tạo điểm nhấn cho những không gian của những công trình kiến trúc, nội thất, mà nó còn đại diện cho sự sáng tạo, sự tài hoa của những người họa sĩ, nghệ nhân Việt. Các tác phẩm tranh kính hiện nay đều được sáng tác, thể hiện gắn liền với văn hóa, mỹ thuật của người Việt, phục vụ cho nhu cầu thẩm mỹ của người Việt hiện nay. Hình ảnh trong tranh đều là những hình ảnh có gắn bó mật thiết trong đời sống của người dân Việt Nam. Những hình ảnh này đã được nghệ nhân khéo léo biến nó trở thành yếu tố chính trong tranh kính. Kết hợp với những đường nét tạo hình, màu sắc phong phú, nghệ nhân đã rất thành công trong việc kết hợp yếu tố dân tộc với một loại chất liệu tranh mới để tạo thành các tác phẩm nghệ thuật phục vụ cho thị hiếu của người Việt. Trước sự phát triển của loại hình nghệ thuật tranh kính này, hiện nay một số cơ sở đào tạo ở Việt Nam cũng đã đưa tranh kính vào chương trình giảng dạy cho sinh viên thuộc ngành mỹ thuật, như Trường Đại học Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học quốc tế Hồng Bàng; Trường Đại học Văn Lang... Có nhiều tác phẩm tranh kính đã được sinh viên thể hiện thành công từ tâm tư, tình cảm, thẩm mỹ của mình, đã ngày càng mang đến bản sắc riêng của nghệ thuật tranh kính ở Việt Nam. 43Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 3. Kết luận Dù tranh kính không nằm trong hệ thống mỹ thuật cổ của người Việt, loại hình tranh này du nhập vào Việt Nam thông qua sự giao thương, sự kết nối giữa người dân Việt Nam và người dân các nước khác, sự di dân của người nước khác, và được tiếp thu, phát triển bởi sự tiếp biến văn hóa trong thời gian dài của lịch sử. Trải qua sự phát triển của xã hội, loại hình tranh kính được đánh giá là loại hình nghệ thuật độc đáo, có đóng góp cho nền mỹ thuật Việt trong dòng chảy văn hóa của Việt Nam. Mỗi một thời kỳ, mỗi một giai đoạn, tranh kính ở Việt Nam cùng với nền văn hóa của người Việt, đã có sự tiếp nhận, sự cộng sinh, sau là sự Việt hóa, cuối cùng là sự thuần Việt ở trong nghệ thuật tranh kính, đáp ứng thị hiếu thẩm mỹ của người Việt. Ngày nay, nghệ thuật tranh kính đã và đang hiện hữu rất mạnh mẽ trong rất nhiều các công trình kiến trúc, nội thất về các loại công trình khác nhau như nhà ở, nhà hàng, bảo tàng, khách sạn, công trình công cộng...mang trong mình các sắc màu văn hóa dân tộc, để phục vụ cho mọi nhu cầu, đáp ứng thị hiếu thẩm mỹ ngày càng cao của xã hội Việt Nam./. Tài liệu tham khảo: [1]. Chu Mạnh Cường (2017), “Đặc sắc tranh kính”, Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh, số 3 (57), năm 2017. [2]. Chu Quang Trứ (1995), Văn hóa, Mỹ thuật Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế. [3]. Huỳnh Quang Cường (2015), “Mỹ thuật ứng dụng trên con đường tìm về bản sắc Việt”, Nxb Văn hóa văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh. [4]. Lê Thanh Bình (2012) (chủ biên), Giao thao văn hóa và chính sách ngoại giao văn hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [5]. Nguyễn Hồng (1959), Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, Quyển I, (Các thừa sai dòng tên 1615 - 1665), Nxb Hiện tại, Tp Hồ Chí Minh. [6]. Nguyễn Hữu Thông (chủ biên) (1992), Mỹ thuật thời Nguyễn trên đất Huế, Nxb Hội nhà văn, Huế. [7]. Nguyễn Tiến Cảnh (1992), “Mỹ thuật Huế”, Viện Mỹ Thuật - Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản, tr 107-109. [8]. Nguyễn Thừa Hỷ (2014), “Tiếp biến văn hóa Việt Nam dưới góc nhìn lý thuyết hệ thống”, Tạp chí Khoa học và xã hội, Hà Nội, số 9. [9]. Nguyễn Thùy Dương (2018), Nghệ thuật tranh kính trong nhà thờ Cửa Bắc, nhà thờ Hàm Long, nhà thờ Lớn Hà Nội, Luận văn thạc sĩ mỹ thuật, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam. [10]. Radugin, A.A, (Vũ Đình Phòng, dịch) (2002), Từ điển bách khoa Văn hóa học, Viện nghiên cứu Văn hóa - Nghệ thuật Hà Nội. [11]. Thuận Hóa (2017), “Gian nan bảo tồn tranh gương cung đình Huế”, Báo Phụ nữ - Cơ quan ngôn luận của Hội Liên hiệp phụ nữ Tp Hồ Chí Minh. [12]. Tịnh Tâm (2017), “Tinh hoa nguồn cội: Khám phá nghệ thuật tranh gương xứ Huế, di sản quý giá thời Nguyễn”, Tạp chí DKN.TV. [13]. Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế (2001), Tổng quan về tranh gương cung đình Huế. [14]. Viện sử học Việt Nam (1998), Khâm định Việt sử Thông giám cương mục. Địa chỉ tác giả: Khoa Tạo dáng công nghiệp, Trường Đại học Mở Hà Nội Email: nguyenbichlieu@hou.edu.vn; dothanhhuyen@hou.edu.vn
File đính kèm:
- dien_trinh_tiep_bien_van_hoa_tren_nghe_thuat_tranh_kinh_o_vi.pdf