Diễn trình tiếp biến văn hóa trên nghệ thuật tranh kính ở Việt Nam

Bài viết thông qua việc tìm hiểu, phân tích các thông tin, một số cơ sở lý luận

đã có, từ đó đưa ra một số nhận định nhằm mục đích nêu rõ quá trình tiếp biến văn hóa thể

hiện trên nghệ thuật tranh kính từ khi du nhập đến giai đoạn phát triển như ngày nay ở xã

hội Việt Nam. Lý thuyết về tiếp biến văn hóa là lý thuyết mang tính khoa học được hình thành

ở phương Tây, nhưng nó đã gắn với các lĩnh vực khác nhau trong xã hội cả phương Tây và

phương Đông, và ở lĩnh vực nào cũng có những vấn đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp,

trong lĩnh vực nghệ thuật cũng không nằm ngoài phạm vi đó. Lý thuyết tiếp biến văn hóa khi

soi chiếu trên nghệ thuật tranh kính ở Việt Nam để thấy bối cảnh lịch sử văn hóa là cơ sở cho

việc tìm hiểu sâu hơn các loại hình, chủ đề thể hiện trên tranh kính, nội dung, phương pháp

thể hiện tranh kính qua chiều dài thay đổi của văn hóa, của lịch sử.

pdf 10 trang kimcuc 9260
Bạn đang xem tài liệu "Diễn trình tiếp biến văn hóa trên nghệ thuật tranh kính ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Diễn trình tiếp biến văn hóa trên nghệ thuật tranh kính ở Việt Nam

Diễn trình tiếp biến văn hóa trên nghệ thuật tranh kính ở Việt Nam
34 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
DIỄN TRÌNH TIẾP BIẾN VĂN HÓA TRÊN NGHỆ THUẬT 
TRANH KÍNH Ở VIỆT NAM
CULTURE PROCESS ON THE ART OF GLASS PAINTING IN VIETNAM
Nguyễn Thị Bích Liễu, Đỗ Thị Thanh Huyền*
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 2/10/2019
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 3/04/2020
Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/04/2020
Tóm tắt: Bài viết thông qua việc tìm hiểu, phân tích các thông tin, một số cơ sở lý luận 
đã có, từ đó đưa ra một số nhận định nhằm mục đích nêu rõ quá trình tiếp biến văn hóa thể 
hiện trên nghệ thuật tranh kính từ khi du nhập đến giai đoạn phát triển như ngày nay ở xã 
hội Việt Nam. Lý thuyết về tiếp biến văn hóa là lý thuyết mang tính khoa học được hình thành 
ở phương Tây, nhưng nó đã gắn với các lĩnh vực khác nhau trong xã hội cả phương Tây và 
phương Đông, và ở lĩnh vực nào cũng có những vấn đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp, 
trong lĩnh vực nghệ thuật cũng không nằm ngoài phạm vi đó. Lý thuyết tiếp biến văn hóa khi 
soi chiếu trên nghệ thuật tranh kính ở Việt Nam để thấy bối cảnh lịch sử văn hóa là cơ sở cho 
việc tìm hiểu sâu hơn các loại hình, chủ đề thể hiện trên tranh kính, nội dung, phương pháp 
thể hiện tranh kính qua chiều dài thay đổi của văn hóa, của lịch sử. 
Từ khóa: Tiếp biến văn hóa, nghệ thuật tranh kính, Việt Nam
Abstract: The essay through the study and analysis of the information, some theoretical 
bases already exist, from which to make some comments aimed at stating the cultural 
acculturation process refl ected in the art of glass paintings. when being introduced to the 
current stage of development in Vietnamese society. The theory of cultural acculturation is a 
scientifi c theory formed in the West, but it has been associated with diff erent fi elds in society 
both in the West and the East, and in every area there are problems. Topics that are directly 
or indirectly involved in the arts are not out of scope. The theory of cultural continuity when 
refl ecting on the art of glass painting in Vietnam to see the context of cultural history is the 
basis for further understanding the types and topics presented on glass paintings, content and 
methods. France shows glass paintings through the changing length of culture and history.
Keywords: Cultural acculturation, art of glass painting, Vietnam
* Trường Đại học Mở Hà Nội
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 66 (4/2020) 34-43
35Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
1. Đặt vấn đề
Tiếp biến văn hóa không còn là vấn 
đề mới, nó đã được các nhà khoa học trên 
thế giới nghiên cứu một cách khoa học từ 
đầu thế kỷ XX, những năm 1918. Thực tế, 
thuật ngữ Tiếp biến văn hóa này được các 
nhà dân tộc học phương Tây sử dụng đầu 
tiên vào khoảng năm 1880. Tiếp biến văn 
hóa là từ dùng để giải thích quá trình thay 
đổi văn hóa và thay đổi tâm lý từ kết quả 
của các cuộc gặp gỡ giữa các nền văn hóa. 
Quá trình gặp gỡ giữa các nền văn hóa đó 
sẽ xuất hiện những ảnh hưởng của giao 
lưu văn hóa, việc ảnh hưởng của giao lưu 
văn hóa này diễn ra ở nhiều cấp độ bên 
trong sự tương tác của cả hai nền văn hóa 
giao lưu đó. 
“Tiếp biến văn hóa là một quá trình 
biến đổi kép về văn hóa và tâm lý xảy ra 
do kết quả của sự tiếp xúc giữa hai hoặc 
nhiều nhóm văn hóa và những cá nhân 
thành viên của những nhóm văn hóa đó”.† 
2. Nội dung
2.1. Thuật ngữ tiếp biến văn hóa
Tiếp biến văn hóa có nhiều khái 
niệm khác nhau, ở mỗi một lĩnh vực sẽ có 
một cách hiểu, một khái niệm. 
Theo tác giả Radugin trong cuốn Từ 
điển Bách Khoa văn học đã nhận định rằng: 
Tiếp nhận văn hóa là quá trình một 
nhóm sắc tộc này tiếp nhận văn hóa một 
nhóm sắc tộc khác tiến bộ hơn trong quá 
trình giao lưu văn hóa giữa hai bên. Trong 
Nhân loại học, ‘tiếp nhận văn hóa’ có nghĩa 
một nhóm sắc tộc này có ảnh hưởng đến 
một sắc tộc khác về mặt văn hóa trong khi 
† International Journal of intercultural relation, No 29 (2005)
hai bên có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tiếp 
nhận văn hóa là hình thái của truyền bá văn 
hóa, và để chỉ quá trình tiếp xúc này. Nói 
cách chặt chẽ, tiếp nhận văn hóa bao gồm 
việc biến đối về văn hóa giữa cả hai bên 
trong khi tiếp xúc một thời gian dài. Tuy 
nhiên, nghĩa thông thường của tiếp nhận 
văn hóa chủ yếu dùng để chỉ những thay 
đổi về văn hóa của những xã hội phương 
Tây đã công nghiệp hóa. [10, tr.448]
2.2. Tiếp biến văn hóa trên nghệ 
thuật tranh kính ở Việt Nam
Việc nhận định tiếp biến văn hóa 
trong nghiên cứu cụ thể của nghệ thuật 
tranh kính ở Việt Nam với các nội dung 
chi tiết sau: 
Sự tiếp nhận, tiếp biến văn hóa ở 
loại hình tranh kính nhà thờ 
Trên thế giới, tranh kính được hình 
thành từ kính ghép màu, đây là loại hình 
có từ rất sớm và là loại hình nghệ thuật 
phổ biến ở các nước phương Tây. Hình 
thức ban đầu của cửa sổ kính màu là 
những tấm thủy tinh phẳng. Về sau, bằng 
sự sáng tạo của những họa sĩ, nghệ sĩ, kính 
ghép màu đã được sử dụng để tạo nên rất 
nhiều sản phẩm nghệ thuật độc đáo, lạ mắt 
và ấn tượng phục vụ cho con người. Kính 
ghép màu đã tạo nên các tác phẩm trang 
trí trên cửa sổ được xem là một loại hình 
nghệ thuật, những cửa sổ kính màu trong 
các công trình nhà thờ, công trình tôn giáo 
vẫn tồn tại nguyên vẹn và uy nghi đến nay. 
Nội dung mô tả trên các cửa sổ kính màu 
có thể được kết hợp từ những câu chuyện 
trong Kinh thánh, lịch sử hoặc văn học, 
miêu tả các thiên thần, thần thánh. Tranh 
36 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
kính màu là yếu tố không thể thiếu trong 
kiến trúc của các nhà thờ Công giáo ở 
phương Tây. Và tranh kính nhà thờ Công 
giáo phương Tây này đã theo chân những 
người truyền giáo để du nhập vào Việt 
Nam và góp mặt trong các công trình kiến 
trúc nhà thờ Công giáo ở Việt Nam.
Việc truyền đạo vào Việt Nam có từ 
sớm, nhưng việc truyền đạo này cũng trải 
qua nhiều giai đoạn, nhiều khó khăn khác 
nhau, và không phải lúc nào cũng thuận 
lợi. Chính vì vậy, giai đoạn đầu các linh 
mục người phương Tây chưa có đủ điều 
kiện về mọi mặt để xây dựng công trình 
nhà thờ có quy mô như ở các nước phương 
Tây. Mãi đến thế kỷ thứ XIX, một số nhà 
thờ có quy mô mới được xây dựng ở Việt 
Nam, và đa phần đều do người Pháp xây 
dựng. Thế kỷ thứ XIX, người Pháp cho 
xây dựng nhiều nhà thờ nằm rải rác đất 
nước và với mục đích hành lễ, truyền 
đạo của người Pháp và những người theo 
Pháp. Trong những công trình kiến trúc 
nhà thờ đó, bắt đầu có sự xuất hiện của các 
bức tranh cửa sổ kính màu. Nội dung của 
các bức tranh đó vẫn được giữ nguyên về 
các chủ đề liên quan đến Kinh thánh, đến 
Đức Mẹ...Do được người Pháp xây dựng 
tại Việt Nam, cho nên các bức tranh cửa 
sổ kính màu ngoài các chủ đề về Chúa, về 
Đức Mẹ, về thế giới rộng lớn cao cả của 
Chúa, về các Thánh, còn có các bức tranh 
về chủ đề những người có công với nước 
Pháp, và về các Thánh tử vì đạo là người 
Pháp hoặc người Việt Nam. Tranh kính 
trong nhà thờ thế kỷ thứ XIX ở Việt Nam 
thường có các đề tài như: 
 Đề tài về Đức Mẹ Đồng Trinh: 
Ở phương Tây, tranh kính về Đức Mẹ 
thường có các nội dung như: Chân dung 
Đức Mẹ, Tranh toàn thân Đức Mẹ, Đức 
Mẹ đang bế chúa Hài đồng...Với phương 
Tây, có lẽ biểu tượng Đức Mẹ Đồng Trinh 
là biểu tượng được tôn sùng nhất trong 
chính thống giáo. Sự tôn sùng Đức Mẹ 
của người phương Tây có lẽ cũng giống 
như sự tôn sùng của người phương Đông 
với biểu tượng Quan Thế Âm bồ tát. Các 
vị đều là người biểu tượng được người đời 
tôn sùng, kính bái. Khi các họa sĩ thể hiện 
hình tượng hai biểu tượng này, họ đều cố 
gắng thể hiện một sự hoàn mỹ nhất từ vóc 
dáng, trang phục tới dung mạo, thần thái 
để toát lên vẻ nhân từ, hiền hậu và tình yêu 
bao la với giáo dân với dân chúng.
Đề tài về Chúa: Các bức tranh về 
Chúa đều rất đẹp, được các nghệ nhân 
dùng các thủ pháp về đường nét, màu sắc 
để phản ánh rõ đặc điểm, tính cách của 
Chúa. Tranh kính màu về Chúa được đánh 
giá là loại tranh rất khó thực hiện. Bởi 
ngoài sự đặc tả về mặt hình thức, ngoài 
hình, vẻ đẹp bên ngoài, các nghệ nhân 
còn phải bộc lộ được tâm thái sâu xa của 
Chúa, bộc lộ được thần thái của Chúa, và 
điểm nhấn chính là đôi mắt. Một đặc điểm 
rất nổi bật, là trong tất cả các bức tranh, 
Chúa luôn xuất hiện với vẻ ngoài gầy gò, 
râu tóc dài. Hình tượng về Chúa với tín 
ngưỡng Kito giáo là hình tượng của Đấng 
tối cao, xuất hiện để cứu rỗi các linh hồn, 
cứu rỗi nhân loại. Sự tôn sùng hình tượng 
Chúa của người phương Tây có lẽ cũng 
giống như sự tôn sùng của người Á Đông 
với Đức Phật. Họ đều là những Đấng tối 
cao, là người cứu nhân độ thế, cứu rỗi 
nhân loại khỏi áp bức, lầm than, để đưa 
con người đến sự thánh thiện. 
 Đề tài về chân dung các Thánh: 
Đề tài về chân dung các Thánh này gồm 
có các vị Thánh môn đệ của Chúa, Thánh 
truyền tin, các Thánh tử vì đạo. Đề tài về 
37Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
chân dung các vị Thánh này cũng có sự 
tương tự như chân dung về Chúa, là một 
đề tài cũng khá phức tạp bởi ngoài việc 
diễn tả về hính thức các vị Thánh, các 
nghệ nhân còn phải miêu tả nội tâm của 
nhân vật. Các vị Thánh có trong tranh 
kính nhà thờ đều là những người phương 
Tây có công hoặc tử vì đạo. Nhưng cũng 
có một số nhà thờ có bức tranh về Thánh 
được thể hiện theo tuýp người Á Đông, và 
mang trang phục thuần dân bản địa như: 
hai bức tranh thánh ở nhà thờ Cửa Bắc, Hà 
Nội (xây dựng năm 1925). 
Đề tài về kể lại các điển tích có trong 
Kinh thánh: Các bức tranh kính về đề tài 
này phản ánh về những sự kiện trọng đại 
có liên quan đến Chúa, và được xây dựng 
dưới dạng tranh sinh hoạt, nhưng là sinh 
hoạt đời thường của các vị Thánh, Chúa 
trong Kinh thánh. Như câu chuyện từ khi 
Chúa bị bắt đến khi Chúa bị đóng đinh câu 
rút và hạ thánh thể xuống, hay những hoạt 
cảnh Đức Mẹ và Chúa Hài đồng, Chúa 
Giêsu chịu phép rửa ở sông Joocdan...ở 
mỗi hoạt cảnh lại có bối cảnh khác nhau 
về các mô típ trang trí, về cỏ cây hoa lá...
Thời gian về sau, Công giáo ngày 
càng phát triển, các công trình nhà thờ 
được xây dựng nhiều hơn, rải rác khắp đất 
nước Việt Nam, tranh kính màu trong các 
nhà thờ dần dần có sự Việt hóa hơn. Lúc 
này, tranh kính đã do các họa sĩ, nghệ nhân 
người Việt sáng tác. Phong cách tạo hình 
trên tranh kính màu nhà thờ của các họa sĩ 
Việt Nam ngày càng được thể hiện rõ nét 
hơn. Chủ đề, nội dung vẫn về Chúa, Đức 
Mẹ, về các vị Thánh, nhưng trong các bức 
tranh kính bối cảnh đã có sự Việt hóa. Như 
tranh kính ở nhà thờ Đa Minh, Huyện Sĩ, 
hình tượng Đức Mẹ, hình tượng Chúa Hài 
đồng, Thánh Giêsu được miêu tả đã có sự 
gần gũi với người Việt hơn. Ta sẽ bắt gặp 
bầu trời đêm qua rặng tre, mái chòi tranh. 
Bên dưới bức tranh là hình ảnh con gà, 
ao sen nở, gợi nhớ về hình ảnh nông thôn 
Việt Nam. Hoa văn phía sau bức tranh họa 
sĩ không sử dụng hoa văn của phương Tây 
mà là hoa văn của người Việt. Giai đoạn 
về sau, bối cảnh và con người trong tranh 
kính nhà thờ đã một phần được Việt hóa. 
[3, tr 256, 257].
Có thể nói, dù tranh kính dùng trong 
nhà thờ tại Việt Nam, nhưng nội dung, đề 
tài, chủ đề của các bức tranh kính nhà thờ 
vẫn mang đúng theo nội dung, chủ đề của 
tranh kính nhà thờ phương Tây. Đây là một 
trong những yếu tố khẳng định về sự tiếp 
nhận văn hóa phương Tây vào Việt Nam. 
Sự tiếp nhận này trải qua nhiều quá trình 
khác nhau, trong góc độ nào đó, một thời 
điểm, sự tiếp nhận là sự tiếp biến văn hóa 
khi du nhập vào Việt Nam. Qua sự tiếp 
nhận văn hóa Công giáo của phương Tây, 
ngoài việc gìn giữ những giá trị vốn có, 
tranh kính nhà thờ đã có sự tiếp biến văn 
hóa trong việc thể hiện trong bức tranh 
kính Thánh Ane Lê Thị Thành này. Sự tiếp 
biến văn hóa trong tranh kính nhà thờ thời 
gian về sau còn được thể hiện rõ nét hơn. 
Hình tượng nhân vật, bối cảnh trong tranh 
đã gắn với người Việt, mang bối cảnh của 
đất nước Việt Nam.
Sự tiếp nhận, tiếp biến văn hóa ở 
loại hình tranh gương cung đình Huế
Tranh gương là loại tranh được các 
nghệ nhân, các họa sĩ dùng chất liệu vẽ 
là từ bột màu pha với keo, hoặc với sơn, 
hoặc xà cừ vẽ hay khảm vào mặt sau của 
gương, sau đó lật lại để nhìn mặt trước trở 
thành tranh gương. Đây là cách vẽ âm bản 
để nhìn mặt trước của tranh thành dương 
38 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
bản. Lối vẽ tranh này khá giống với một 
số loại tranh đã có của Việt Nam. 
Theo nhà nghiên cứu Thái Văn 
Kiểm, tác giả cuốn Cố đô Huế (cùng lời 
truyền của một số người cao tuổi ở Huế) 
đã nhận định rằng: Tranh gương cung 
đình Nguyễn đa phần được các Vua triều 
Nguyễn đặt hàng vẽ từ Trung Quốc, và vị 
vua được cho rằng đã du nhập loại hình 
tranh này nguyên là vua Thiệu Trị (1841 
- 1847) - đời vua thứ 3 của triều đình nhà 
Nguyễn nước Đại Nam. 
Cũng theo các nhà nghiên cứu, tranh 
gương xứ Huế có 3 nguồn xuất xứ ứng với 
ba dòng tranh gương, đó là: Dòng tranh 
gương minh họa 20 bài thơ ngự chế của 
vua Thiệu Trị; Dòng tranh gương có chủ 
đề, thể hiện các điển tích lịch sử; Và dòng 
tranh gương tĩnh vật. Tuy ba dòng tranh 
với ba chủ đề khác nhau, nhưng cách phối 
màu trong tranh gương, kỹ thuật thể hiện 
tranh về cơ bản đều mang nét giống nhau. 
Dòng tranh gương với các bài thơ 
ngự chế - tranh thi họa: Loại tranh gương 
này được vua Thiệu Trị đặt hàng từ Trung 
Quốc, để miêu tả lại các danh lam thắng 
cảnh trong 20 bài thơ vịnh cảnh của nhà 
vua. Từ năm 1844 đến năm 1845, vua Thiệu 
trị đã ra lệnh cho Nội Các phải cố định hóa 
chùm thơ của ông bằng nhiều hình thức: 
In ấn thành sách có minh họa (bộ Ngự đề 
Đồ Hội Thi tập), hoặc vẽ tranh treo tại các 
cung điện. Đây cũng là dòng tranh gương 
cao cấp nhất, chỉ được sử dụng trong chốn 
cung đình triều Nhà Nguyễn. 
Về giá trị lịch sử, trên phương diện 
thưởng ngoạn, những bức bích họa trên 
gương có thể đơn thuần nói lên cảnh đẹp 
của thiên nhiên, phong cảnh non nước hữu 
tình của xứ Huế, tài hoa của người nghệ 
nhân vẽ hoặc khảm tranh, sự chi li tỷ mỷ 
của người làm khung, và sự xuất chúng 
của người ngự chế. Nhưng với người nhà 
nghiên cứu, bên cạnh giá trị thẩm mỹ, giá 
trị nghệ thuật, ở mỗi tác phẩm tranh gương 
lại mang trong mình những cứ liệu lịch sử 
quan trọng. Ở các tác phẩm bích họa đề 
vịnh 20 cảnh đẹp của xứ Huế, đó là những 
nguồn tư liệu căn cứ quý giá trong việc 
trùng tu phục dựng các di tích có trong thơ. 
Dù tác phẩm bích họa ngự chế hay 
vịnh cảnh, vịnh màu đều mang phong cách 
vẽ, cách sử dụng màu tương đối giống 
nhau: “Hầu hết những tranh này thiên về 
bảng màu lạnh, cảnh sắc và cả mái nhà 
đều là màu xanh, mây trời cũng trắng 
xanh, chỉ có cột nhà đỏ và viền nét vàng. 
Tất cả được vẽ rất chi tiết, mảng màu vờn 
chuyển sắc độ tinh tế, các nhân vật được 
tỉa tót tỉ mỉ, bố cục dựa trên viễn cận xã hội 
theo tâm lý ngược với chiều nhìn tự nhiên. 
Họa gia tưởng tượng những cảnh trong 
thơ của vua Thiệu Trị theo thiên nhiên xứ 
lạnh mà họ đang sống và thể hiện theo 
lối “công bút” rất cẩn thận. Những tranh 
này vẽ trực tiếp lên mặt sau của kính, vẽ 
và viết theo lối “bản âm” để khi nhìn mặt 
trước trở thành bản dương, màu ngoài vẽ 
trước, màu trong vẽ sau và cuối cùng mới 
vẽ màu nền. Màu tốt bền, ngày nay vẫn giữ 
nguyên” [7, tr 107 - 109]. Bố cục các tác 
phẩm dựa trên cái nhìn xa ... ẽ các lễ vật đặt trên “tam sơn” như một 
bàn thờ (kiểu tranh Chủ dân gian Đông 
Hồ)” [2, tr 124, 125]. 
Dòng tranh gương tĩnh vật mang hai 
luồng ý kiến trái chiều nhau. Nếu ông Chu 
Quang Trứ cho rằng “Tranh kính loại 3 
này có đề tài đơn giản, kỹ thuật vẽ còn 
thô vụng, nghệ thuật hòa sắc còn tùy tiện, 
mới chỉ ở bước thể nghiệm cho một loại 
tranh bắt chước tự phát hàng nhập của 
Trung Quốc. Có thể tin chắc những tranh 
kính này do người Việt chưa được trang 
bị đầy đủ kiến thức nghề nghiệp, vẽ ra ở 
cuối thế kỷ trước sang đầu thế kỷ này” [2, 
tr 124, 125]. Bên cạnh đó là dòng ý kiến 
trái chiều với Chu Quang Trứ. Có một 
số nhà nghiên cứu ở Huế lại đưa ra nhận 
định rằng chất lượng nghệ thuật của dòng 
tranh này khá cao “Sự hiện diện của tranh 
gương tĩnh vật thời Nguyễn được chứng tỏ 
qua 10 bức tranh gương cỡ 50x60cm, treo 
trên tường các cột ngoài của chính điện 
lăng Đồng Khánh. Họa tiết gồm bình hoa 
quả phẩm, lư trầm hay nghiên bút... đặt 
trên những chiếc kỷ biến đổi nhiều dáng, 
được viền bằng những đường hồi văn; 
màu sắc phong phú, thường là màu nền 
khói hương, hoặc xanh da trời, hoặc đen 
huyền, trên đó nổi bật màu đỏ chu của lỷ, 
màu xanh ngọc của bình hoa... làm cho 
bức tranh tĩnh vật nào cũng lộng lẫy mà 
có duyên thầm”[6, tr 167]. 
Có thể nói, dù dòng tranh ngự chế 
cao cấp hay dòng tranh tĩnh vật giản đơn, 
thì các tác phẩm tranh gương xứ Huế vẫn 
là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, có 
giá trị cao về mặt thẩm mỹ. Ở loại hình 
tranh gương này, màu sắc trong tranh trở 
thành ngôn ngữ độc quyền của mảng nghệ 
thuật riêng biệt. Ngoài ra, các tác phẩm 
tranh gương được lồng trong khung sơn 
son thếp vàng chạm nổi những chi tiết hoa 
trái trời mây. Có tác phẩm khi được thếp 
vàng dùng vàng thật với một chất kết dính 
đặc biệt, màu vàng của khung không bao 
giờ phai màu, luôn giữ được sự óng ánh 
lung linh quyền quý của chất liệu này. Mặc 
dù trải qua đủ thăng trầm trong dòng chảy 
lịch sử văn hóa, nhưng sự óng ánh tươi tắn 
và rực rỡ của các tác phẩm tranh gương 
sơn son thếp vàng vẫn luôn như mới, có 
40 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
độ phát quang lan tỏa giữa các màu trong 
tranh. Đồng thời qua các tác phẩm tranh 
gương còn phản ánh được tình hình, diện 
mạo của nền mỹ thuật triều Nguyễn và nói 
nên nhận thức của một thời đại đã qua, là 
lăng kính để thế hệ sau có thể nhìn lại và 
học tập. 
Sự tiếp nhận, tiếp biến văn hóa ở 
loại hình tranh kính (người Nam Bộ còn 
gọi là tranh kiếng) thủ công ở Nam Bộ
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, 
một bộ phận người Quảng Đông (Trung 
Quốc) di dân đến mảnh đất Nam Bộ, Việt 
Nam để sinh sống và lập nghiệp. Khi di 
dân sang Nam Bộ, họ đã mang theo nghề 
làm kính. Ban đầu họ đã mở các cửa tiệm 
buôn bán kiếng, với các loại kiếng tráng 
thủy tinh làm gương soi, kiếng khuôn cửa 
tủ, khung cửa chớp, ô cửa thoáng, và vẽ 
tranh đơn gian trên kiếng. Theo thời gian, 
cùng với sự phát triển của đời sống xã 
hội, việc làm kiếng và vẽ tranh trên kiếng 
ngày càng phát triển, sau đã ra đời dòng 
tranh kiếng Nam Bộ. Tranh kiếng Nam Bộ 
mang trong mình những nét đặc sắc riêng 
với bốn dòng nổi tiếng, đó là: tranh kiếng 
Chợ Lớn (Sài Gòn); tranh kiếng Lái Thêu 
(huyện Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương), 
dòng tranh kiếng Chợ Mới (An Giang), và 
dòng tranh kiếng Khmer, Nam Bộ. Qua 
quá trình phát triển, nghề tranh kiếng thủ 
công đã nuôi sống người dân trong vùng 
và đem lại cho họ cuộc sống ấm no và có 
phần sung túc.
Nghề vẽ thủ công trên tranh kiếng 
của Nam Bộ là nghề thủ công độc đáo, 
đặc sắc, đặc sắc bởi cách vẽ, bởi chất 
liệu của tranh. Tranh kiếng Nam Bộ là 
loại hình tranh được vẽ thủ công từ phía 
sau mặt kiếng, với đặc điểm khác biệt 
về kỹ thuật, chúng được vẽ bởi kỹ thuật 
vẽ ngược, hình ảnh phía trước phải vẽ 
trước, hình ảnh phía sau thì vẽ sau (từng 
lớp từng lớp một), chính kỹ thuật này đòi 
hỏi những người nghệ nhân, người thợ vẽ 
tranh kiếng phải vô cùng khéo léo và tỉ 
mỉ mới có thể tạo nên được những bức 
tranh kiếng sinh động, nét vẽ dứt khoát, 
sắc sảo, màu sắc phong phú và bắt mắt. 
Tranh kiếng Nam Bộ thời bấy giờ vẽ về 
các chủ đề như: Tranh thờ; Tranh trang trí 
nhà cửa; Tranh chúc thọ; Tranh mừng tân 
gia, khai trương...Đặc điểm nổi bật trong 
quá trình phát triển của tranh kiếng là ở 
mỗi giai đoạn phát triển, nó luôn tích hợp 
những nội dung mới để phù hợp với tập 
tục, văn hóa và lối sống của cộng đồng 
dân cư, dân tộc và từ đó, mỗi dòng tranh 
kiếng hình thành những sắc thái riêng biệt, 
độc đáo. 
Dòng tranh kiếng Chợ Lớn, Sài Gòn 
là dòng tranh kiếng thủ công ra đời sớm 
nhất trong các dòng tranh kiếng thủ công 
ở Nam Bộ. Tranh Chợ Lớn thường dùng 
màu đỏ, dán giấy quỳ màu vàng, hoặc 
giấy quỳ màu bạc, sau đó áp dụng kỹ thuật 
tráng thủy tạo nên những đường nét hoặc 
nền tranh ánh nên sắc sáng bạc, thêm phần 
lung linh cho tranh. Dòng tranh Chợ Lớn 
rất phong phú, đề tài đa dạng, kỹ thuật thể 
hiện có sự cải tiến theo thời gian và thị 
hiếu của người dân Nam Bộ.
Dòng tranh Lái Thiêu: có loại vẽ 
nhiều màu, tiêu biểu như màu hồng vàng 
nhẹ, màu xanh lông két, màu trắng, màu 
vàng, xanh dương...nhưng cũng có loại 
màu nền đen hoặc đỏ, đặc biệt các hoa 
văn, hình họa đều dán ốc xà cừ để tạo nên 
sắc trắng bạc phản quang. Sắc màu phản 
quang truyền thống là lớp màu điệp trong 
tranh mộc bản, kế đó là sản phẩm cẩn ốc 
41Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
xà cừ và hiện đại là tráng thủy và dán giấy 
trang kim đa sắc, chủ yếu là vàng kim và 
bạc. Tranh kiếng Lái Thiêu thường có hai 
loại và tranh thờ tổ tiên và thanh thờ thần 
phật. Có thể nói tranh kiếng thờ tổ tiên của 
Lái Thiêu được cho là dòng tranh mở đầu 
cho loại hình tranh thờ tổ tiên lừng danh 
của vùng đất Nam Bộ, Việt Nam.
Dòng tranh Bà Vệ, thuộc xã Long 
Điền B, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, 
dòng tranh này ra đời muộn hơn so với 
những dòng tranh trước. Tranh kiếng Bà 
Vệ phát triển mạnh từ những năm 1950, 
người đầu tiên mang dòng tranh kiếng 
về xứ này là ông Trần Vắn Tú. Ông học 
nghề vẽ tranh kiếng theo phường tranh Lái 
Thiêu, sau đó ông về xứ Bà Vệ để hành và 
phát triển nghề tại đây. Tranh kiếng Bà Vệ 
dù ra đời muộn hơn các dòng tranh kiếng 
thủ công khác ở Nam Bộ, nhưng loại hình 
tranh kiếng Bà Vệ rất phong phú và đặc 
biệt, gồm: tranh kiếng thờ thần phật, tranh 
kiếng tuồng tích, tranh kiếng trang trí. 
Tranh kiếng Bà Vệ có chủ đề rất phong 
phú, đa dạng, về nhiều loại hình khác nhau 
để phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người 
dân Nam Bộ. Nhưng tất cả các chủ đề 
trong tranh đều ẩn chứa ngụ ý cầu mong 
mọi sự bình an, cuộc sống yên bình, mọi 
việc các tường như ý. 
Dòng tranh kiếng Khmer: dòng 
tranh này chủ yếu ở vùng sinh sống của 
người dân Khmer là Trà Vinh và Sóc 
Trăng, trong đó tranh kiếng Khmer, Trà 
Vinh ra đời vào khoảng những năm 1935, 
1936, còn làng tranh kiếng Phú Tân (Sóc 
Trăng) ra đời muộn hơn một chút và còn 
tồn tại đến nay. Loại hình chính ở tranh 
kiếng Khmer là tranh thờ ông bà, tổ tiên, 
thần phật. Các nhân vật trong tranh được 
mặc các tranh phục truyền thống của người 
Khmer. Đây là điểm khác biệt của dòng 
tranh kiếng Khmer với các dòng tranh 
kiếng Nam Bộ khác. Các nghệ nhân người 
Khmer với kỹ pháp điêu luyện đã tạo nên 
những tác phẩm tranh kiếng đa dạng và 
đặc sắc, không lẫn với bất kỳ dòng tranh 
nào khác ở Nam Bộ, Việt Nam.
Mỗi dòng tranh kiếng thủ công ở 
Nam Bộ với những đặc trưng riêng đã hình 
thành nên một nền mỹ thuật mang sắc thái 
riêng của mỗi cộng đồng dân cư, dân tộc, 
góp phần làm phong phú cho bảng màu 
đa dạng của văn hóa Nam Bộ nói riêng và 
Việt Nam nói chung. 
Dù loại hình tranh kính thủ công 
ở Nam Bộ có xuất phát điểm từ những 
người di dân Trung Hoa, nhưng quá trình 
tiếp nhận, tiếp biến văn hóa trải dài theo 
sự phát triển của xã hội, chiều dài của lịch 
sử, khi du nhập vào Việt Nam, tranh kính 
thủ công đã có sự thay đổi để phù hợp với 
văn hóa, phong tục, tập quán của nước 
Việt, người Việt. Sau quãng thời gian dài 
phát triển, nghề thủ công độc đáo này đã 
thay đổi và trở thành yếu tố nghệ thuật của 
dân tộc. Trải qua bao đời, cùng với nền 
văn hóa ở Việt Nam, loại hình tranh kính 
thủ công này đã trở thành loại hình nghệ 
thuật của người Việt, phục vụ nhu cầu của 
người Việt. Và có thời gian nó còn là một 
nghề mang lại cuộc sống ấm, lo đủ đầy 
cho người dân Nam Bộ, Việt Nam. 
Sự tiếp biến văn hóa trên nghệ thuật 
tranh kính ở Việt Nam từ sau năm 1975.
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, 
nền kinh tế bắt đầu có sự phục hồi, phát 
triển, kéo theo sự phát triển của nhiều lĩnh 
vực khác trong xã hội. Tranh kính ở Việt 
Nam từ giai đoạn này đã có dấu hiệu phát 
triển trở lại. Thời gian đầu, nhiều cơ sở, 
42 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
“họa sĩ thể hiện các tác phẩm tranh kính 
của các họa sĩ Châu Âu, nhưng theo thời 
gian, phong cách tạo hình của các họa sĩ 
càng thể hiện rõ nét hơn” [3, tr 356], nội 
dung, chủ đề thể hiện trên các tác phẩm 
tranh kính gắn với văn hóa, nhu cầu thẩm 
mỹ của người Việt, dần dần hình thành 
bản sắc riêng của các họa sĩ, của nghệ 
thuật tranh kính ở Việt Nam. Các dòng 
tranh kính ở Việt Nam đã mang đậm dấu 
ấn văn hóa Việt, có độ tinh tế, tính nghệ 
thuật cao, thể hiện các đề tài gần gũi với 
đời sống người Việt Nam. Các họa sĩ, 
nghệ nhân đã kế thừa tinh hoa của nghệ 
thuật tranh kính trên thế giới, kết hợp với 
văn hóa, thẩm mỹ của dân tộc để từ đó tạo 
nên các sản phẩm tranh kính mang trong 
mình âm hưởng của dân tộc trong các tác 
phẩm tranh kính cho người Việt. 
Từ sau những năm 90, của thế kỷ 
XX, loại hình tranh kính có sự phát triển 
mạnh, có nhiều doanh nghiệp, họa sĩ đã 
tham gia sản xuất và sáng tác tranh kính 
ở các hình thức, chủ đề, kỹ thuật thể hiện, 
ứng dụng cho nhiều công trình kiến trúc, 
nội thất lớn nhỏ khác nhau. Hình thức và 
phương pháp thực hiện tranh kính cũng 
đã có nhiều bước cải tiến, đổi mới được 
áp dụng trên cơ sở khoa học kỹ thuật mới, 
mang đến nhiều loại hình tranh kính khác 
như hơn. Nếu trước năm 1975, ở Việt 
Nam chỉ có tranh kính ghéo màu trong 
nhà thờ, tranh gương Huế, tranh kính thủ 
công ở Nam Bộ, thì sau năm 1975, kinh 
tế có sự phục hồi và bắt đầu những bước 
phát triển, đặc biệt là từ những năm 1990, 
đã có nhiều loại hình của tranh kính được 
người những họa sĩ, nghệ nhân khám 
phá, áp dụng, như: Tranh kính điêu khắc, 
tranh kính phun cát, tranh kính in... Bên 
cạnh đó, các họa sĩ, nghệ nhân đã cải tiến 
nhiều hình thức khác nhau của tranh kính, 
như: Vách kính trang trí, tranh kính nghệ 
thuật, sàn kính... Chủ đề và nội dung thể 
hiện trên tranh cũng có sự sáng tạo hơn. 
Rất nhiều chủ đề mới đã được các họa 
sĩ, nghệ nhân đưa vào tranh kính để phục 
vụ cho nhu cầu của người Việt. Tranh 
kính Việt Nam từ đó không chỉ là những 
nét chấm phá tạo điểm nhấn cho những 
không gian của những công trình kiến 
trúc, nội thất, mà nó còn đại diện cho sự 
sáng tạo, sự tài hoa của những người họa 
sĩ, nghệ nhân Việt. Các tác phẩm tranh 
kính hiện nay đều được sáng tác, thể 
hiện gắn liền với văn hóa, mỹ thuật của 
người Việt, phục vụ cho nhu cầu thẩm mỹ 
của người Việt hiện nay. Hình ảnh trong 
tranh đều là những hình ảnh có gắn bó 
mật thiết trong đời sống của người dân 
Việt Nam. Những hình ảnh này đã được 
nghệ nhân khéo léo biến nó trở thành 
yếu tố chính trong tranh kính. Kết hợp 
với những đường nét tạo hình, màu sắc 
phong phú, nghệ nhân đã rất thành công 
trong việc kết hợp yếu tố dân tộc với một 
loại chất liệu tranh mới để tạo thành các 
tác phẩm nghệ thuật phục vụ cho thị hiếu 
của người Việt.
Trước sự phát triển của loại hình 
nghệ thuật tranh kính này, hiện nay một 
số cơ sở đào tạo ở Việt Nam cũng đã đưa 
tranh kính vào chương trình giảng dạy 
cho sinh viên thuộc ngành mỹ thuật, như 
Trường Đại học Mỹ thuật thành phố Hồ 
Chí Minh, Trường Đại học quốc tế Hồng 
Bàng; Trường Đại học Văn Lang... Có 
nhiều tác phẩm tranh kính đã được sinh 
viên thể hiện thành công từ tâm tư, tình 
cảm, thẩm mỹ của mình, đã ngày càng 
mang đến bản sắc riêng của nghệ thuật 
tranh kính ở Việt Nam.
43Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
3. Kết luận
Dù tranh kính không nằm trong hệ 
thống mỹ thuật cổ của người Việt, loại hình 
tranh này du nhập vào Việt Nam thông qua 
sự giao thương, sự kết nối giữa người dân 
Việt Nam và người dân các nước khác, sự 
di dân của người nước khác, và được tiếp 
thu, phát triển bởi sự tiếp biến văn hóa 
trong thời gian dài của lịch sử. Trải qua sự 
phát triển của xã hội, loại hình tranh kính 
được đánh giá là loại hình nghệ thuật độc 
đáo, có đóng góp cho nền mỹ thuật Việt 
trong dòng chảy văn hóa của Việt Nam. 
Mỗi một thời kỳ, mỗi một giai đoạn, tranh 
kính ở Việt Nam cùng với nền văn hóa của 
người Việt, đã có sự tiếp nhận, sự cộng 
sinh, sau là sự Việt hóa, cuối cùng là sự 
thuần Việt ở trong nghệ thuật tranh kính, 
đáp ứng thị hiếu thẩm mỹ của người Việt.
Ngày nay, nghệ thuật tranh kính đã 
và đang hiện hữu rất mạnh mẽ trong rất 
nhiều các công trình kiến trúc, nội thất về 
các loại công trình khác nhau như nhà ở, 
nhà hàng, bảo tàng, khách sạn, công trình 
công cộng...mang trong mình các sắc màu 
văn hóa dân tộc, để phục vụ cho mọi nhu 
cầu, đáp ứng thị hiếu thẩm mỹ ngày càng 
cao của xã hội Việt Nam./.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Chu Mạnh Cường (2017), “Đặc sắc tranh 
kính”, Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh, số 3 (57), 
năm 2017.
[2]. Chu Quang Trứ (1995), Văn hóa, Mỹ 
thuật Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế.
[3]. Huỳnh Quang Cường (2015), “Mỹ thuật 
ứng dụng trên con đường tìm về bản sắc Việt”, 
Nxb Văn hóa văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.
[4]. Lê Thanh Bình (2012) (chủ biên), Giao 
thao văn hóa và chính sách ngoại giao văn 
hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[5]. Nguyễn Hồng (1959), Lịch sử truyền giáo 
ở Việt Nam, Quyển I, (Các thừa sai dòng tên 
1615 - 1665), Nxb Hiện tại, Tp Hồ Chí Minh.
[6]. Nguyễn Hữu Thông (chủ biên) (1992), 
Mỹ thuật thời Nguyễn trên đất Huế, Nxb Hội 
nhà văn, Huế.
[7]. Nguyễn Tiến Cảnh (1992), “Mỹ thuật 
Huế”, Viện Mỹ Thuật - Trung tâm Bảo tồn Di 
tích Cố đô Huế xuất bản, tr 107-109.
[8]. Nguyễn Thừa Hỷ (2014), “Tiếp biến 
văn hóa Việt Nam dưới góc nhìn lý thuyết hệ 
thống”, Tạp chí Khoa học và xã hội, Hà Nội, 
số 9.
[9]. Nguyễn Thùy Dương (2018), Nghệ thuật 
tranh kính trong nhà thờ Cửa Bắc, nhà thờ 
Hàm Long, nhà thờ Lớn Hà Nội, Luận văn 
thạc sĩ mỹ thuật, Trường đại học Mỹ thuật 
Việt Nam.
[10]. Radugin, A.A, (Vũ Đình Phòng, dịch) 
(2002), Từ điển bách khoa Văn hóa học, Viện 
nghiên cứu Văn hóa - Nghệ thuật Hà Nội. 
[11]. Thuận Hóa (2017), “Gian nan bảo tồn 
tranh gương cung đình Huế”, Báo Phụ nữ - 
Cơ quan ngôn luận của Hội Liên hiệp phụ nữ 
Tp Hồ Chí Minh.
[12]. Tịnh Tâm (2017), “Tinh hoa nguồn cội: 
Khám phá nghệ thuật tranh gương xứ Huế, di 
sản quý giá thời Nguyễn”, Tạp chí DKN.TV.
[13]. Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế 
(2001), Tổng quan về tranh gương cung đình 
Huế.
[14]. Viện sử học Việt Nam (1998), Khâm 
định Việt sử Thông giám cương mục.
Địa chỉ tác giả: Khoa Tạo dáng công nghiệp, 
Trường Đại học Mở Hà Nội
Email: nguyenbichlieu@hou.edu.vn; 
dothanhhuyen@hou.edu.vn

File đính kèm:

  • pdfdien_trinh_tiep_bien_van_hoa_tren_nghe_thuat_tranh_kinh_o_vi.pdf