Đánh giá thực trạng đào tạo theo tín chỉ ở nước ta nói chung và ở trường Đại học Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng

Bài viết phân tích những lợi thế của thực trạng đào tạo theo tín chỉ ở nước ta

và ở Trường Đại học Bà Rịa – Vũng Tàu như thời lượng đào tạo, tính chủ động của sinh

viên trong quá trình học tập,. Ngoài ra, những bất cập của hình thức đào tạo này cũng

được đề cập đến, như trình độ chuyên môn của giảng viên, cơ sở vật chất của nhà trường,

thái độ học tập của sinh viên, Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất một số giải pháp góp

phần nâng cao chất lượng đào tạo theo tín chỉ ở nước ta nói chung, ở Trường Đại học Bà

Rịa – Vũng Tàu nói riêng.

pdf 6 trang kimcuc 5980
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá thực trạng đào tạo theo tín chỉ ở nước ta nói chung và ở trường Đại học Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá thực trạng đào tạo theo tín chỉ ở nước ta nói chung và ở trường Đại học Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng

Đánh giá thực trạng đào tạo theo tín chỉ ở nước ta nói chung và ở trường Đại học Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Lê Văn Quốc 
141 
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ 
Ở NƯỚC TA NÓI CHUNG VÀ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC 
BÀ RỊA – VŨNG TÀU NÓI RIÊNG 
EVALUATE CREDIT SYSTEM EDUCATION GENERALLY IN OUR COUNTRY AND 
PARTICULARLY IN BA RIA – VUNG TAU UNIVERSITY 
LÊ VĂN QUỐC 
 ThS. Đại học Bà Rịa Vũng Tàu, Email:levanquoc3979@icloud.com 
TÓM TẮT: Bài viết phân tích những lợi thế của thực trạng đào tạo theo tín chỉ ở nước ta 
và ở Trường Đại học Bà Rịa – Vũng Tàu như thời lượng đào tạo, tính chủ động của sinh 
viên trong quá trình học tập,... Ngoài ra, những bất cập của hình thức đào tạo này cũng 
được đề cập đến, như trình độ chuyên môn của giảng viên, cơ sở vật chất của nhà trường, 
thái độ học tập của sinh viên, Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất một số giải pháp góp 
phần nâng cao chất lượng đào tạo theo tín chỉ ở nước ta nói chung, ở Trường Đại học Bà 
Rịa – Vũng Tàu nói riêng. 
Từ khóa: tín chỉ, đào tạo tín chỉ, Trường Đại học Bà Rịa – Vũng Tàu. 
ABSTRACT: The paper analyses advantages of credit system education in our country 
and in Ba Ria – Vung Tau University, such as time, proactivity of student in study 
Besides, the inadequacies of such type of education are mentioned, like professional 
capacity of lecturers, infrastructure of schools, learning attitude of students From that, 
we suggest some solutions contributing to enhance educational quality in credit system 
generally in our country and particularly in Ba Ria – Vung Tau University. 
Key words: credit, credit system education, Ba Ria – Vung Tau University. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ 
là một trong những yêu cầu của đổi mới 
giáo dục theo hướng hiện đại hóa nhằm 
nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu 
cầu nguồn nhân lực của đất nước và đuổi 
kịp trình độ tiên tiến của thế giới. Chất 
lượng và tiện ích của đào tạo theo tín chỉ so 
với đào tạo theo niên chế là điều đã được 
khẳng định qua quá trình đào tạo nhiều 
năm ở các trường đại học uy tín trên thế 
giới. Cùng với các trường đại học trong cả 
nước, Trường Đại học Bà Rịa – Vũng Tàu 
đã tổ chức thực hiện đào tạo theo học chế 
tín chỉ được bốn năm. Nhìn lại quá trình 
thực hiện, chúng ta có thể khẳng định ưu 
điểm của loại hình đào tạo này so với đào 
tạo theo niên chế trước đây. Tuy nhiên, 
những bất cập vẫn còn tồn tại và cần có 
biện pháp khắc phục. 
2. NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA VIỆC ĐÀO 
TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ Ở 
NƯỚC TA NÓI CHUNG VÀ Ở 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 03 / 2017 
142 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÀ RỊA – VŨNG 
TÀU NÓI RIÊNG 
Trong đào tạo theo tín chỉ, tùy theo khả 
năng học tập của mình, sinh viên có thể 
quyết định số tín chỉ sẽ hoàn thành trong 
một học kỳ. Như vậy, những sinh viên giỏi, 
có năng lực có thể rút ngắn thời gian học 
tập, không nhất thiết phải trải qua 4 hoặc 5 
năm học như đào tạo theo niên chế trước 
đây. Điều này giúp cho sinh viên hoàn toàn 
chủ động trong việc học của mình, phần 
nào rèn luyện tính độc lập trong suy nghĩ, 
trong hành động để chuẩn bị một cách tốt 
nhất cho công việc và cuộc sống của các 
em sau này. Trường Đại học Bà Rịa – 
Vũng Tàu, rất ít sinh viên có điều kiện thực 
hiện hình thức này. Điều này có thể giải 
thích bởi nhiều nguyên nhân, nhưng yếu tố 
quyết định vẫn là vai trò của chính bản thân 
sinh viên. 
 Khi thực hiện đào tạo theo tín chỉ, thời 
lượng sinh viên lên lớp sẽ giảm mạnh. 
Thay vào đó, thời lượng tự học, tự nghiên 
cứu của sinh viên sẽ tăng lên. Hầu hết các 
môn học đều giảm khoảng trên dưới 50%, 
thậm chí có môn giảm trên 70% thời lượng. 
Phần lớn kiến thức sinh viên phải tự nghiên 
cứu để nắm vững mà không cần phải lên 
lớp. Điều này có tính hợp lý, vì không nhất 
thiết bất cứ kiến thức nào trong giáo trình 
cũng phải do giảng viên cung cấp cho sinh 
viên. Nhiều vấn đề sinh viên có thể tự đọc 
và hiểu được. Tự học sẽ tiết kiệm được thời 
gian, giúp sinh viên có thể học được nhiều 
kiến thức hơn. Điều này vô cùng cần thiết 
trong việc phát huy tính chủ động, sáng tạo 
của người học. Việc giảm thời lượng lên 
lớp của sinh viên cũng góp phần khắc phục 
tình trạng làm việc quá tải của giảng viên. 
Việc tổ chức thực hiện đào tạo theo 
học chế tín chỉ ở Trường Đại học Bà Rịa – 
Vũng Tàu trong vài năm đầu vẫn có những 
hạn chế, nhưng đến nay đã đi vào nề nếp. 
Kết quả đào tạo của Trường cho thấy, số 
lượng sinh viên khá giỏi ngày càng nhiều, 
nhất là số lượng sinh viên đạt tốt nghiệp 
loại giỏi và xuất sắc tăng lên một cách đáng 
kể so với những năm đào tạo theo niên chế. 
Việc tổ chức thực hiện đào tạo theo 
học chế tín chỉ ở nước ta nói chung và ở 
Trường Đại học Bà Rịa – Vũng Tàu nói 
riêng vẫn còn nhiều bất cập cần được khắc 
phục. 
3. MỘT SỐ BẤT CẬP CỦA VIỆC ĐÀO 
TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ Ở 
NƯỚC TA NÓI CHUNG VÀ Ở 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÀ RỊA – VŨNG 
TÀU NÓI RIÊNG 
Đổi mới và nâng cao chất lượng đào 
tạo là một trong những yêu cầu cấp bách 
của tất cả các cơ sở giáo dục và đào tạo. 
Đổi mới cũng phải tuân thủ theo những 
điều kiện nhất định. Theo quy luật, muốn 
đạt một “chất lượng” mới (tức bước nhảy) 
trong quá trình phát triển trong bất cứ lĩnh 
vực nào của xã hội đều cần phải có những 
điều kiện nhất định về “số lượng” cũng như 
về tổ chức quản lý. Không có những điều 
kiện đảm bảo thì cái mới được tạo ra sẽ 
không phải là những “chất mới”, mà chỉ là 
những “biến dạng” theo hướng tồi tệ hơn. 
Theo chúng tôi, việc thực hiện đào tạo theo 
học chế tín chỉ để nâng cao chất lượng hiện 
nay ở nước ta đang tồn tại một số bất cập 
như sau: 
3.1. Về chất lượng đầu vào của sinh viên 
Muốn đào tạo có chất lượng, trước hết 
trình độ đầu vào của sinh viên phải đảm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Lê Văn Quốc 
143 
bảo. Một sinh viên đại học nhưng khả năng 
tư duy trừu tượng kém, không có thói quen 
tự học, tự tìm tòi, tự nghiên cứu, sẽ dẫn 
đến hiệu quả đào tạo không cao, việc giảng 
dạy của giảng viên rất khó khăn. Hiện nay, 
khả năng tự học của sinh viên ở các trường 
đại học của nước ta khá yếu. Những phẩm 
chất của sinh viên có liên quan mật thiết 
đến quá trình giáo dục, đào tạo ở bậc phổ 
thông. Khâu tuyển sinh là yếu tố quyết định 
đầu tiên đối với chất lượng sinh viên. Chế 
độ tuyển sinh của chúng ta hiện nay chưa 
tính đến hai điểm quan trọng. Một là, khả 
năng tự học, tự nghiên cứu, vì khả năng này 
rất cần thiết trong đào tạo tín chỉ. Hai là, 
khả năng ngoại ngữ, vì đây là yếu tố không 
thể thiếu được của sinh viên đại học trong 
thời kỳ hội nhập quốc tế. Một số trường đại 
học của nước ta hiện nay, khi tuyển sinh 
các ngành kinh tế chỉ tuyển học sinh khối A 
(Toán, Lý, Hóa) mà không tuyển khối D 
(Toán, Văn, Ngoại ngữ) là một thiếu sót. 
Một học sinh khá, giỏi khối D ở phổ thông 
cũng có khả năng học tốt nhiều chuyên 
ngành kinh tế, như Kinh tế phát triển, Quản 
trị kinh doanh, Thương mại, Du lịch,... 
Thậm chí trong một số trường hợp, những 
kiến thức về văn học, ngoại ngữ có thể phát 
huy tác dụng nhiều hơn kiến thức về lý, 
hóa. 
Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, ngoại 
ngữ là một trong những “chìa khóa” quan 
trọng hàng đầu. Vì vậy, tuyển sinh bất cứ 
khối, ngành nào cũng phải ưu tiên những 
học sinh có kiến thức và khả năng ngoại 
ngữ nhất định. Trình độ ngoại ngữ yếu sẽ 
làm cho các em gặp nhiều khó khăn trong 
nghiên cứu, sáng tạo khoa học. Kho tàng 
kiến thức đồ sộ của nhân loại được phổ 
biến trên internet chủ yếu thể hiện qua Anh 
ngữ, nếu không có trình độ ngoại ngữ nhất 
định, sinh viên khó tiếp cận được nguồn 
thông tin này. Một trong những điểm yếu 
của các trường đại học ở nước ta so với các 
trường đại học ở Singapore là trình độ tiếng 
Anh của sinh viên. Nếu không có biện pháp 
khắc phục tình trạng này, các trường đại 
học Việt Nam khó có thể đạt đến đẳng cấp 
quốc tế. 
3.2. Vấn đề đội ngũ giảng viên và chính 
sách đối với giảng viên 
Đội ngũ giảng viên là một trong những 
yếu tố giữ vai trò quyết định chất lượng đào 
tạo. Đội ngũ giảng viên các trường đại học 
nước ta hiện nay so với thế giới còn yếu về 
khả năng nghiên cứu và trình độ ngoại ngữ. 
Người được tuyển làm giảng viên trước hết 
phải nắm vững kiến thức chuyên môn. 
Thực trạng cho thấy, một số ngành, nghề 
khó thu hút người học hoặc khi học xong, 
sinh viên không muốn ở lại trường làm 
giảng viên. Việc tuyển chọn giảng viên ở 
các ngành có đặc thù như vậy còn gặp 
nhiều khó khăn. 
Muốn nâng cao chất lượng giáo dục - 
đào tạo, lợi ích của người lao động, tức đội 
ngũ giảng viên là một trong những vấn đề 
cần được quan tâm. Nhà nước có chính 
sách cho sinh viên vay tiền để học đại học, 
cao đẳng, nhưng lại chưa có sự quan tâm 
thỏa đáng đến những khó khăn và nhu cầu 
của một số giảng viên trẻ. Từ khi các 
trường thực hiện đào tạo theo tín chỉ đến 
nay, nước ta chưa có cải cách đáng kể về 
lương và phụ cấp cho giảng viên. Chính vì 
thế, hiện nay nhiều ngành khó tuyển được 
sinh viên học giỏi, có năng lực ở lại trường 
làm giảng viên. Trong các trường đại học, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 03 / 2017 
144 
do kinh phí hạn hẹp nên các trường chưa 
nghĩ đến việc thực hiện chính sách khuyến 
khích đối với giảng viên tích cực áp dụng 
khoa học và công nghệ, áp dụng ngoại ngữ 
trong giảng dạy chuyên môn. 
Các ngành Triết học, khoa học kinh tế 
và khoa học kỹ thuật không phải là những 
ngành có truyền thống ở nước ta. Tất cả các 
khái niệm khoa học đều có nguồn gốc từ 
tiếng nước ngoài, kể cả hầu hết các thuật 
ngữ triết học, chính trị - xã hội. Tuy nhiên, 
nhiều giảng viên đơn giản nghĩ rằng, chỉ 
cần tiếng Việt là có thể nghiên cứu, giảng 
dạy, không quan tâm đầu tư nâng cao trình 
độ ngoại ngữ. Hiện nay ở nước ta, nhiều 
tiến sĩ Triết học không đủ trình độ ngoại 
ngữ để có thể đọc một tác phẩm triết học 
hay một công trình nghiên cứu nước ngoài. 
Từ khi Liên bang Xô-viết tan rã, nguồn tài 
liệu từ nước Nga và số người có khả năng 
đọc tiếng Nga cũng không còn nhiều. Như 
vậy, kiến thức của giảng viên giảng dạy các 
môn Triết học và Chính trị hiện nay chủ 
yếu chỉ căn cứ trên những tài liệu tiếng 
Việt hoặc được dịch ra tiếng Việt có ít 
nhiều sai sót và lỗi thời. Nhiều giảng viên 
thậm chí chưa đọc hết các tác phẩm của 
Mác, Ăngghen, Lênin hay các nhà triết học 
trong lịch sử. Trình độ lý luận của nhiều 
giảng viên đã lạc hậu so với thực tiễn của 
đất nước và các nước trên thế giới. 
3.3. Về thái độ và thói quen học tập của 
sinh viên 
Sinh viên ở nước ta hiện nay có suy 
nghĩ và thói quen học tập chưa phù hợp với 
việc đào tạo theo học chế tín chỉ. Đào tạo 
theo tín chỉ với việc giảm thời lượng lên 
lớp nhưng không giảm yêu cầu học tập. 
Một số sinh viên chưa hiểu được điều này, 
nên không phải sinh viên nào cũng dùng 
thời gian dôi ra để tự nghiên cứu. Việc 
giảm thời gian lên lớp về lý thuyết là có lợi, 
nhưng trên thực tế đối với đa số sinh viên 
lại không tốt. Thực tế, nếu thực hiện đúng 
yêu cầu về chất lượng thì hàng nghìn sinh 
viên sau năm thứ nhất đã phải rời trường. 
Do sức ép từ nhà trường giảng viên phải 
giảm yêu cầu về chất lượng, chẳng hạn cho 
phép sinh viên sử dụng tài liệu khi làm bài 
thi. Nếu kiến thức một môn học mà chỉ cần 
hiểu và không cần phải ghi nhớ, sau khi thi 
xong, kiến thức môn học đó sẽ không đọng 
lại trong đầu người học. Cách đào tạo như 
vậy có tốt không? Chúng ta cần phân biệt 
đào tạo đại học với đào tạo cao học. Ở trình 
độ cao học, yêu cầu người học phải có trình 
độ nghiên cứu, mở rộng kiến thức là chính. 
Ở trình độ đại học, sinh viên phải nắm 
vững một hệ thống những kiến thức cơ bản, 
không chỉ hiểu mà còn phải nhớ. Nếu học 
đại học mà không cần phải nhớ thì chất 
lượng rõ ràng không cao. 
3.4. Về cơ sở vật chất đảm bảo cho đào 
tạo 
Chúng ta hiện nay đang mắc một sai 
lầm duy ý chí là mở rộng số lượng và nâng 
cao chất lượng đào tạo nhưng không tăng 
kinh phí cho đào tạo. 
Cơ sở phòng học hiện nay không đảm 
bảo, lớp tín chỉ quá đông (trên 100 sinh 
viên), sinh viên phải ngồi chen chúc, giảng 
viên chỉ có thể thuyết trình, không có điều 
kiện tổ chức trao đổi, thảo luận. 
Chẳng hạn, có những trường thuộc 
khối ngành sư phạm, cơ sở vật chất phục vụ 
đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu, phòng 
học là dãy nhà cấp bốn lợp tôn cũ kỹ,... 
nhưng trường chưa có kế hoạch tu sửa. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Lê Văn Quốc 
145 
Nguyên nhân cơ bản là các trường sư phạm 
không thu học phí, nên với kinh phí ít ỏi do 
Nhà nước cấp, một số trường chưa thể tính 
đến những dự án lớn, như tu sửa phòng 
học, mua sắm phương tiện kỹ thuật phục vụ 
giảng dạy, thực hiện chế độ khuyến khích 
giảng viên tích cực, tăng phụ cấp giờ giảng. 
4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO 
CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO THEO HỌC 
CHẾ TÍN CHỈ Ở NƯỚC TA NÓI 
CHUNG VÀ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÀ 
RỊA – VŨNG TÀU NÓI RIÊNG 
4.1. Xây dựng trường đại học nghiên cứu 
Để tạo sự biến đổi căn bản về chất 
trong các trường đại học ở nước ta hiện nay 
không thể sử dụng những giải pháp mang 
tính chắp vá, đối phó. Chúng tôi hoàn toàn 
tán thành Đề án xây dựng Trường Đại học 
Bà Rịa – Vũng Tàu thành trường đại học 
nghiên cứu. Nếu không làm như vậy thì 
không thể thắng được lực cản của sự trì trệ 
do những suy nghĩ và thói quen cũ. Tuy 
nhiên, để Đề án này thực hiện được cần 
phải có lộ trình và chế độ, chính sách phù 
hợp. Nhà trường cần thực hiện thí điểm ở 
một số khoa, ngành, lựa chọn một số giảng 
viên và sinh viên có trình độ và khả năng 
nghiên cứu để xây dựng điển hình, rút kinh 
nghiệm, rồi từng bước nhân rộng ở quy mô 
toàn trường. 
4.2. Vấn đề tuyển chọn giảng viên 
Vấn đề xây dựng đội ngũ, tuyển chọn 
giảng viên mới cần phải căn cứ trên những 
tiêu chuẩn của giảng viên đại học, trước hết 
là những người có tâm huyết với khoa học, 
có trình độ và khả năng nghiên cứu, thể 
hiện qua kết quả thực hiện các đề tài nghiên 
cứu khoa học của sinh viên. Trong những 
năm qua, việc tuyển chọn giảng viên của 
chúng ta hầu như không dựa trên tiêu chuẩn 
này. Việc tuyển chọn giảng viên tuy dựa 
vào kết quả học tập toàn khóa, nhưng cũng 
cần phải căn cứ chủ yếu trên kết quả học 
tập các môn chuyên ngành. Theo chúng tôi, 
nhà trường có thể tuyển dụng các thạc sĩ, 
tiến sĩ đã qua công tác, có thành tích nghiên 
cứu khoa học và trình độ ngoại ngữ để làm 
giảng viên của trường. 
Nhiều giảng viên quan niệm việc giảng 
dạy như là một nghề “đi cày để kiếm sống”, 
ít quan tâm đến việc mở rộng và nâng cao 
trình độ chuyên môn, có những giảng viên 
giảng dạy nhiều năm nhưng vẫn chưa nắm 
vững kiến thức môn học dẫn đến tình trạng 
“đọc chép” hoặc “chiếu chép”. Theo chúng 
tôi, các tiêu chí để tuyển chọn giảng viên là 
khả năng chuyên môn, ngoại ngữ và cả thái 
độ nghiên cứu khoa học. 
4.3. Cải cách chế độ tuyển sinh 
Để có thể tuyển chọn được sinh viên 
có khả năng học tập và nghiên cứu khoa 
học cần phải cải cách chế độ tuyển sinh 
hiện nay. Chúng tôi mạnh dạn đề xuất giải 
pháp trong công tác tuyển sinh: thực hiện 
chính sách ưu tiên đối với những học sinh 
có trình độ ngoại ngữ tốt, thêm khối D vào 
danh sách tuyển sinh các chuyên ngành 
kinh tế, thay thế khối C (Văn, Lịch sử, Địa 
lý) bằng khối D để tuyển sinh vào chuyên 
ngành Triết học, Khoa Giáo dục chính trị. 
4.4. Đảm bảo cơ sở vật chất cho đào tạo 
Kinh nghiệm ở Đại học Quốc gia 
Singapore (NUS) cho thấy, phòng học, thư 
viện của trường không cần khang trang 
lộng lẫy, nhưng phải chú trọng đến sự tiện 
lợi cho người dạy và người học. Mỗi phòng 
học đều được trang bị đầy đủ các thiết bị hỗ 
trợ giảng dạy. Số lượng sinh viên mỗi lớp 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 03 / 2017 
146 
khoảng 50 em. Thư viện được tổ chức khoa 
học, thuận lợi cho việc đọc và mượn sách. 
5. KẾT LUẬN 
Việc đào tạo theo học chế tín chỉ với 
chất lượng giáo dục và đào tạo ngày càng 
nâng cao, chúng ta cần phải thẳng thắn nhìn 
nhận những yếu kém, bất cập hiện nay và 
có chiến lược phát triển đúng đắn để tạo ra 
một bước chuyển biến căn bản. Theo đó, 
các trường đại học phải tuyển chọn được 
đội ngũ giảng viên có tâm huyết với khoa 
học, có trình độ chuyên môn cao và ngoại 
ngữ tốt. Các trường đại học cũng cần cải 
cách chế độ tuyển sinh để chọn lọc sinh 
viên, cải cách chế độ tiền lương và phụ cấp 
cho giảng viên, trang bị cơ sở vật chất đảm 
bảo tối thiểu cho những yêu cầu của việc tổ 
chức một lớp học có chất lượng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Tấn Hùng (2007), Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học đáp ứng 
yêu cầu đào tạo tín chỉ, Tạp chí Giáo dục, Số168, Kỳ 2. 
2. Lâm Quang Thiệp (2005), Áp dụng hệ thống tín chỉ trong hệ thống giáo dục đại học ở 
nước ta - hiện trạng và phương hướng phát triển, Tập chuyên đề của tác giả - Hà Nội. 
3. Nguyễn Đình Hảo, Đào tạo theo học chế tín chỉ tại Trường Đại học Đà Lạt - Nhận thức 
và kinh nghiệm triển khai,  
Ngày nhận bài: 10/05/2017. Ngày biên tập xong: 21/5/2017. Duyệt đăng: 02/6/2017: 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_thuc_trang_dao_tao_theo_tin_chi_o_nuoc_ta_noi_chung.pdf