Đánh giá hoạt động phối hợp của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa Thành phố Hồ Chí Minh
Hoạt động phối hợp của Quỹ bảo lãnh tín dụng (Quỹ BLTD) với các tổ chức tín dụng (TCTD) để cấp,
bảo lãnh tín dụng và trợ giúp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) thể hiện qua các hoạt động
như thu thập và cung cấp thông tin, thẩm định và phê duyệt tín dụng, quyết định cấp tín dụng và bảo lãnh
tín dụng (BLTD), kiểm tra sử dụng vốn vay và hoạt động kinh doanh của DNNVV. Đây là hoạt động
thuộc chức năng của Quỹ BLTD, mang tính thường xuyên, liên tục và có tác động hỗ trợ nhau, tạo thuận
lợi cho Quỹ BLTD thực hiện tốt hoạt động trong BLTD và góp phần trợ giúp phát triển DNNVV. Trên
cơ sở những hạn chế trong hoạt động phối hợp giữa Quỹ BLTD, các TCTD, DNNVV và các tổ chức
khác, bài viết đã đưa ra những giải pháp trong hoạt động phối hợp đối với Quỹ BLTD, TCTD, DNNVV
và các cơ quan quản lý nhà nước nhằm tăng tính hiệu quả trong hoạt động phối hợp góp phần phát triển
DNNVV - một lực lượng có vai trò rất quan trong đối với nền kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hoạt động phối hợp của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa Thành phố Hồ Chí Minh
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 10 (35) - Thaùng 12/2015 31 Đánh giá hoạt động phối hợp của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa Thành phố Hồ Chí Minh Review of operations coordination for credit guarantee fund small and medium- sized enterprises TS. Võ Đức Toàn Trường Đại học Sài Gòn Ph.D. Vo Duc Toan Sai Gon University Tóm tắt Hoạt động phối hợp của Quỹ bảo lãnh tín dụng (Quỹ BLTD) với các tổ chức tín dụng (TCTD) để cấp, bảo lãnh tín dụng và trợ giúp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) thể hiện qua các hoạt động như thu thập và cung cấp thông tin, thẩm định và phê duyệt tín dụng, quyết định cấp tín dụng và bảo lãnh tín dụng (BLTD), kiểm tra sử dụng vốn vay và hoạt động kinh doanh của DNNVV. Đây là hoạt động thuộc chức năng của Quỹ BLTD, mang tính thường xuyên, liên tục và có tác động hỗ trợ nhau, tạo thuận lợi cho Quỹ BLTD thực hiện tốt hoạt động trong BLTD và góp phần trợ giúp phát triển DNNVV. Trên cơ sở những hạn chế trong hoạt động phối hợp giữa Quỹ BLTD, các TCTD, DNNVV và các tổ chức khác, bài viết đã đưa ra những giải pháp trong hoạt động phối hợp đối với Quỹ BLTD, TCTD, DNNVV và các cơ quan quản lý nhà nước nhằm tăng tính hiệu quả trong hoạt động phối hợp góp phần phát triển DNNVV - một lực lượng có vai trò rất quan trong đối với nền kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay. Từ khóa: hoạt động phối hợp, quỹ bão lãnh tín dụng Abstract Coordinating activities of a credit guarantee fund for credit institutions to grant, credit guarantees and help small and medium-sized enterprises are represented by activities such as collecting and providing information, evaluation and credit approval, deciding to grant credit and credit guarantees, testing the use of loans and business operations of small and medium-sized enterprises. This activity is within the functions of a credit guarantee fund, with a frequency, continuity and mutual support, to facilitate the credit guarantee fund operations to be performed well in credit guarantees and help section develop small and medium-sized enterprises. On the basis of the limitations in coordinating activities between credit guarantee fund, the credit institution, the small and medium-sized enterprises and other organizations, the article gave the solution to collaborative activities credit guarantee funds, credit institutions, and small and medium-sized enterprises and the state authorities to increase the effectiveness of coordinated activities that contribute to the development of small and medium-sized enterprises - a force plays a very important role in the socio - economic Viet Nam today. Keywords: activities in collaboration, credit guarantee fund 32 1. Đặt vấn đề Việt Nam đã và đang trên đà phát triển mạnh và ngày càng hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới theo chiều rộng lẫn chiều sâu. Tuy nhiên, nếu so với nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam vẫn là một quốc gia đang phát triển, trong đó thành phần kinh tế tư nhân có vai trò hết sức quan trọng đối với kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay, trong đó các DNNVV được xem là thành phần quan trọng trong việc cung cấp đa dạng hàng hóa, dịch vụ cho thị trường; góp phần tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động; thu hút vốn đầu tư trong nền kinh tế; góp phần phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng; tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước DNNVV là đối tượng đang được quan tâm của các tổ chức xã hội và các cấp quản lý Nhà nước. Vai trò của các Quỹ BLTD đã góp phần giúp các DNNVV phát triển thông qua hoạt động cấp BLTD cho DNNVV có dự án kinh doanh tốt nhưng không có tài sản hoặc tài sản không đủ điều kiện để thế chấp vay vốn tại các TCTD và trợ giúp các DNNVV năng cao năng lực cạnh tranh, tăng năng lực quản lý và điều hành, Để phát huy tốt vai trò của Quỹ BLTD trong việc cấp BLTD và trợ giúp các DNNVV cần có sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa Quỹ BLTD, các TCTD và bản thân các DNNVV. Tuy nhiên, hiện nay sự phối hợp trong hoạt động của Quỹ BLTD vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hết vai trò của mình. 2. Hoạt động phối hợp của quỹ BLTD 2.1. Giới thiệu Quỹ BLTD cho các DNNVV TP.Hồ Chí Minh Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa Tp. Hồ Chí Minh là một tổ chức tài chính, trực thuộc Ủy ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh, được thành lập theo Quyết định số 36/2006/QĐ-UBND ngày 8 tháng 3 năm 2006 về việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa Tp. Hồ Chí Minh. Hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, theo Điều lệ Quỹ bảo lãnh tín dụng được ban hành kèm theo quyết định số 53/2007/QĐ-UBND ngày 30-3-2007 của Ủy ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh và các quy định pháp luật. - Quỹ bảo lãnh tín dụng Thành Phố Hồ Chí Minh là cầu nối giữa Doanh nghiệp và các Tổ chức tín dụng, hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn của các ngân hàng, Tổ chức tín dụng phi ngân hàng, Tổ chức tài chính vi mô và Quỹ tín dụng nhân dân, phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịnh vụ và không ngừng nâng cao năng lực hoạt động quản lý doanh nghiệp. - Vốn điều lệ của Quỹ bảo lãnh tín dụng TP.HCM là: 232,35 tỷ đồng - Lĩnh vực hoạt động: + Bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Tp. Hồ Chí Minh; + Thu hút vốn góp của các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề, các tổ chức đại diện và hỗ trợ cho các DNNVV; cũng như thu hút vốn tài trợ hợp pháp của các tổ chức, cá nhân (kể cả vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA) trong và ngoài nước cho mục tiêu phát triển các DNNVV; + Tổ chức, cung cấp các dịch vụ thông tin, định giá trị tài sản và giá trị doanh nghiệp, xây dựng định mức tín nhiệm doanh nghiệp; + Tư vấn về đầu tư - tài chính và đào tạo nguồn nhân lực; + Thực hiện các chức năng hoạt động khác khi được Ủy ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh giao. [7] 33 2.2. Hoạt động phối hợp để cấp và bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV Hoạt động phối hợp để cấp và bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau: Thứ nhất, thu thập và cung cấp thông tin: Thông qua hoạt động phối hợp, Quỹ BLTD và các TCTD sẽ có thông tin cụ thể về DNNVV đang có nhu cầu vốn, cần sự trợ giúp của Quỹ BLTD để được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng, qua đây Quỹ BLTD sẽ nắm được thông tin là DNNVV có phương án sản xuất kinh doanh khả thi hay không cũng như khả năng hoàn trả vốn gốc và lãi nếu được bảo lãnh tín dụng (BLTD). Việc phối hợp tốt giữa Quỹ BLTD và các TCTD để nắm bắt thông tin sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí, thay vì từng đơn vị thu nhập thông tin riêng lẻ. Thứ hai, đồng thẩm định: Là sự phối hợp giữa Quỹ BLTD và các TCTD nhằm thẩm định và phê duyệt tín dụng cho các DNNVV có nhu cầu BLTD. Dựa trên những tiêu thức do hai bên thống nhất xây dựng để kiểm tra năng lực tài chính, hồ sơ tín dụng, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả hay không đồng thời kiểm tra năng lực hoàn trả vốn gốc và lãi vay nếu được cấp BLTD cho các DNNVV này. Việc hai bên phối hợp với nhau để cùng xem xét hồ sơ tín dụng sẽ giúp cho công tác thẩm định chặt chẽ hơn và có độ tin cậy cao. Thứ ba, quyết định cấp tín dụng và BLTD: Sau khi hai bên (Quỹ BLTD và TCTD) đã thống nhất cấp BLTD và cấp tín dụng cho DNNVV thông qua việc đồng thẩm định hồ sơ tín dụng, thì Quỹ BLTD, TCTD và DNNVV sẽ thực hiện ký hợp đồng BLTD và hợp đồng tín dụng. Thứ tư, kiểm tra sử dụng vốn vay và hoạt động kinh doanh của DNNVV: Việc Quỹ BLTD và TCTD cùng phối hợp để kiểm tra tình hình sử dụng vốn và hoạt động kinh doanh của DNNVV đã được cấp BLTD và cấp tín dụng sẽ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động, tiết kiệm chi phí và đảm bảo an toàn trong việc thu hồi vốn gốc và lãi. 2.3. Về hoạt động phối hợp để trợ giúp cho các DNNVV Hỗ trợ các DNNVV nâng cao năng lực lập dự án, phương án kinh doanh nhằm đáp ứng yêu cầu của các TCTD khi thẩm định hồ sơ vay vốn. Hỗ trợ các DNNVV hoàn thiện công tác quản lý tài chính, kế toán theo qui định nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và giảm rủi ro cho DNNVV. Thông báo và hướng dẫn các chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển của Nhà nước đối với các DNNVV. 2.4. Vai tro hoạt động phối hợp của Quỹ BLTD cho DNNVV Vai trò hoạt động phối hợp để cấp tín dụng, BLTD và trợ giúp của Quỹ BLTD và các TCTD đối với DNNVV thể hiện trên các mặt chủ yếu sau: Đối với DNNVV: - Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV tiếp cận và sử dụng vốn vay đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển của DNNVV. - Khắc phục được tình trạng thiếu tài sản đảm bảo khi các DNNVV vay vốn. - Tạo điều kiện để DNNVV huy động vốn kịp thời cho các cơ hội kinh doanh và cơ hội đầu tư. DNNVV có điều kiện đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, đầu tư dây chuyền công nghệ và trang thiết bị hiện đại. - Tác động tích cực cho hoạt động phối hợp trợ giúp khác nhằm phát triển các DNNVV. - DNNVV được truyền tải thông tin 34 pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước, thông qua giải thích chính sách, pháp luật; cung cấp văn bản pháp luật về thuế, đất đai, tín dụng, thi hành luật doanh nghiệp... có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. - Nâng cao kỹ năng lập phương án sản xuất kinh doanh, lập dự án đầu tư và hồ sơ vay vốn đối với các DNNVV. - DNNVV sẽ dần hoàn thiện công tác kế toán, lập báo cáo tài chính và kê khai thuế. Tạo điều kiện cho các DNNVV nâng cao kiến thức quản lý doanh nghiệp, quản lý dự án đầu tư, thực hiện các dự án đầu tư theo đúng quy định của pháp luật, phù hợp với quy hoạch phát triển công nghiệp theo vùng, lãnh thổ và địa phương. - DNNVV thực hiện đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, quản lý chất lượng sản xuất và bảo vệ môi trường thông qua hoạt động phối hợp của Quỹ BLTD với các tổ chức, hiệp hội khác. Đối với Quỹ BLTD: Mở rộng hoạt động BLTD, tăng doanh số BLTD, thực hiện tốt chức năng BLTD. Tạo tiền đề, nền tảng tăng cường phối hợp, mở rộng thêm các mối quan hệ mới với các TCTD mới. Đối với các TCTD: Tín dụng sẽ tăng trưởng, tăng thêm thu nhập và hiệu quả kinh doanh của các TCTD. Đối với nền kinh tế xã hội: Góp phần thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình kinh tế trên địa bàn của mỗi địa phương. 3. Thực trạng phối hợp của quỹ BLTD cho DNNVV TP.HCM Quỹ bảo lãnh tín dụng Tp. Hồ Chí Minh (Quỹ) đã được thành lập Quyết định số 36/2006/QĐ-UBND ngày 8 tháng 3 năm 2006 và điều lệ hoạt động theo quyết định số 53/2007/QĐ-UBND ngày 30-3-2007 của Ủy ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh và các quy định pháp luật. Đến nay, Quỹ đã hoạt động được gần 9 năm, nhưng hiệu quả hoạt động vẫn còn thấp, chưa thật sự là chỗ dựa cho các DNNVV khi thiếu vốn kinh doanh. Những số liệu phân tích sau sẽ cho thấy rõ về tính hiệu quả hoạt động của Quỹ: Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng số DNNVV được BLTD, lũy kế doanh số và số lượng chi nhánh TCTD phối hợp với Quỹ từ năm 2008 đến 2014 Đơn vị tính: % Chỉ tiêu 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Số DNNVV được BLTD 200.00 1066.67 40.00 4.08 7.84 7.27 0.00 Lũy kế doanh số 152.00 1996.92 118.30 45.64 13.78 12.86 0.97 Số chi nhánh TCTD phối hợp 100.00 450.00 9.09 -16.67 0.00 10.00 -9.09 Nguồn: Ký yếu hội thảo khoa học [9, tr131 và 135] 35 Biểu đồ 1: Số lượng DNNVV được Quỹ BLTD Tp.Hồ Chí Minh phối hợp với các tổ chức tín dụng trên địa bàn để thực hiện bảo lãnh tín dụng từ năm 2007 - 2014 Đơn vị tính: Doanh nghiệp nhỏ và vừa 1 3 35 49 51 55 59 59 0 10 20 30 40 50 60 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Nguồn: Ký yếu hội thảo khoa học [9, tr131] Biểu đồ 2: Lũy kế doanh số BLTD của Quỹ BLTD Tp.HCM phối hợp với các TCTD trên địa bàn để thực hiện BLTD đối với DNNVV từ năm 2007 - 2014 Đơn vị tính: Tỷ đồng 4 10.08 211.37 461.43 672.01 764.64 862.94 871.27 0 100 200 300 400 500 600 700 800 900 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Nguồn: Ký yếu hội thảo khoa học [9, tr131] 36 Biểu đồ 3: Số lượng chi nhánh TCTD phối hợp với Quỹ BLTD Tp.Hồ Chí Minh để thực hiện bảo lãnh tín dụng cho DNNVV từ năm 2007 - 2014 Đơn vị tính: Chi nhánh tổ chức tín dụng 1 2 11 12 10 10 11 10 0 2 4 6 8 10 12 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Nguồn: Ký yếu hội thảo khoa học [9, tr135] Qua các bảng, biểu trên ta thấy kết quả hoạt động phối giữa Quỹ BLTD với các TCTD trong việc BLTD đối với DNNVV còn rất hạn chế, thậm chí có thể xem như thất bại của một chính sách. Với qui mô số lượng doanh nghiệp trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh vào khoảng 200.000 doanh nghiệp, trong đó hơn 95% là DNNVV trong khi đó tính đến hết năm 2014 Quỹ BLTD chỉ phối hợp bảo lãnh được 59 doanh nghiệp và đến nay cọn số này không thay đổi. Vế lũy kế doanh số bảo lãnh mặc dù có tăng từ năm 2007 đến năm 2014 nhưng giá trị không đáng kế, chỉ đạt 871,27 tỷ đồng năm 2014 và đến nay con số này không thể tăng được. Về số lượng chi nhánh TCTD phối hợp để BLTD thì dừng lại ở con số 10 chi nhánh cho đến nay, một số TCTD vẫn thờ ơ, thậm chí không quan tâm, không biết. Bảng 01 cho thấy rõ tình hình hoạt động của Quỹ BLTD đang đi xuống nghiêm trọng và hiện nay là dừng chân tại chỗ, không thể phát triển được. 4. Những hạn chế Thứ nhất, Quỹ BLTD vẫn còn thụ động, chưa tích cực tìm đến doanh nghiệp: Mặc dù Quỹ BLTD trong thời gian vừa qua đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để thông tin đến DNNVV. Tuy nhiên, công tác này vẫn chưa mang lại hiệu quả, nhiều DNNVV chưa biết về Quỹ BLTD. Thứ hai, hoạt động phối hợp chưa đồng bộ và đa dạng: Hoạt động phối hợp giữa Quỹ BLTD với các TCTD vẫn chưa đồng bộ, nhiều TCTD còn nghi ngờ về sự tồn tại của Quỹ BLTD nên chưa mạnh dạn tham gia. Một số trường hợp Quỹ BLTD đã thẩm định hồ sơ tín dụng của DNNVV nhưng khi đến TCTD, DNNVV vẫn phải mất thời gian để TCTD thẩm định lại hồ sơ, từ đó làm cho DNNVV cảm thấy thủ tục hành chính rườm rà, khó tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng. Ngoài nhiệm vụ cấp BLTD, Quỹ BLTD còn có vai trò trợ giúp tài chính thông qua BLTD, đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ phù hợp với DNNVV, 37 cung cấp các dịch vụ hỗ trợ về tư vấn tài chính, đào tạo, quản lý đầu tư và các dịch vụ hỗ trợ khác. Thứ ba, chưa có chiến lược hoạt động dài hạn: Quỹ BLTD hiện nay chỉ tập trung vào kế hoạch ngắn hạn, chưa xây dựng được chiến lược phát triển hoạt động dài hạn để tạo nền tảng phát triển trong hoạt động phối hợp với các TCTD một cách căn cơ và lâu dài. Thứ tư, khó khăn về tài chính: Vốn hoạt động của Quỹ BLTD chủ yếu là từ ngân sách Nhà nước, số còn lại là của các TCTD. Mặc khác việc huy động từ các tổ chức khác rất khó khăn do không vì mục tiêu lợi nhuận nên các tổ chức khác không muồn tham gia hoặc tham gia quá ít. Vốn ít, nên việc BLTD còn bị hạn chế do quy định BLTD cho một DNNVV không vượt quá 15% vốn điều lệ của Quỹ BLTD, nên khó đáp ứng tốt nhu cầu BLTD. Thứ năm, cán bộ Quỹ BLTD kiêm nhiệm nhiều việc, chính sách tiền lương, chế độ đào tạo chưa phù hợp: Do kiêm nhiệm nên cán bộ công tác tại Quỹ BLTD chưa có kiến thức chuyên mô sâu, chưa được đào tạo bài bản về các nhiệm vụ, chương trình và những hoạt động của Quỹ BLTD nên cũng ảnh hưởng đến hoạt động phối hợp của Quỹ BLTD với các TCTD và DNNVV. Chưa có hệ thống chính sách thu hút nhân lực có chất lượng cao để phục vụ cho yêu cầu phát triển của các Quỹ BLTD. Thứ sáu, một số TCTD chưa nắm rõ hoạt động của Quỹ BLTD: Mặc dù các Quỹ BLTD đã được thành lập và hoạt động nhiều năm, nhưng hiện nay nhiều TCTD thuộc sở hữu tư nhân vẫn chưa nắm rõ hoạt động và mục đích của Quỹ nên chưa tham gia phối hợp, thậm chí nghi ngờ tính hiệu quả của Quỹ BLTD. Thứ bảy, DNNVV vẫn còn e ngại sự rờm rà thủ tục khi vừa tiếp xúc với ngân hàng vừa tiếp xúc với Quỹ BLTD, ngoài ra DNNVV còn lo lắng về việc chịu sự kiểm tra, báo cáo với cả Quỹ BLTD và ngân hàng. Tuy nhiên, về phía DNNVV thì hệ thống sổ sách kế toán còn thiếu tính rõ ràng, minh bạch gây khó khăn cho công tác thẩm định của Quỹ BLTD và TCTD. Thứ tám, chưa có cơ chế và qui trình phối hợp thống nhất: Sự phối hợp trong hoạt động cấp BLTD và trợ giúp các DNNVV hiện nay vẫn chưa có quy định chi tiết để phối hợp cấp tín dụng và BLTD, cũng như quan hệ giữa Quỹ BLTD và các TCTD trong hoạt động phối hợp, từ đó dẫn đến sự phối hợp chưa đồng bộ, chưa thống nhất trong nội dung thẩm định hồ sơ tín dụng cũng như phối hợp kiểm tra sử dụng vốn của DNNVV. Thứ chín, chưa có sự chỉ đạo quyết liệt, thống nhất từ Trung ương: Do đó các tổ chức, các hiệp hội, TCTD chưa thật sự quan tâm đến công tác phối hợp để cùng nhau trợ giúp các DNNVV. Thứ mười, Điều 23 Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định “Bên được bảo lãnh phải sử dụng tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai thuộc quyền sở hữu của mình mà pháp luật không cấm giao dịch để thực hiện các biện pháp bảo đảm cho bảo lãnh vay vốn tại bên bảo lãnh theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm”. Quy định này không rõ ràng, đã làm khó cho cả Quỹ BLTD, DNNVV và các TCTD khi thực hiện phối hợp. 5. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phối hợp của quỹ bảo lãnh tín dụng 5.1. Đối với Quỹ bảo lãnh tín dụng - Tăng cường hợp tác giữa Quỹ BLTD với các TCTD để cấp, BLTD và trợ giúp phát triển DNNVV. Để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động phối hợp, Quỹ BLTD cần duy trì mối quan hệ hợp tác với 38 các TCTD đã có mối quan hệ trong hoạt động phối hợp cấp tín dụng và BLTD cho các DNNVV qua nhiều năm, đồng thời mở rộng và phát triển thêm các quan hệ hợp tác với các TCTD mới để tăng thêm quy mô hoạt động phối hợp, trên cơ sở đó hoạt động phối hợp ngày càng gia tăng và hiệu quả. - Xây dựng chiến lược phát triển lâu dài hoạt động phối hợp với các TCTD để cấp tín dụng và BLTD cho các DNNVV. Hiện nay, hầu hết các Quỹ BLTD đều chưa xây dựng chiến lược phát triển hoạt động lâu dài để tạo nền tảng phát triển hoạt động phối hợp với các TCTD một cách căn cơ và lâu dài. Do vậy, việc chưa xây dựng chiến lược phát triển hoạt động lâu dài là một trong những giải pháp cần quan tâm để tạo điều kiện cho hoạt động phối hợp trong quá trình cấp tín dụng và BLTD cho các DNNVV. - Đa dạng hoá hoạt động phối hợp để trợ giúp cho các DNNVV. Tạo điều kiện nâng cao năng lực quản lý cho các DNNVV thông qua thực hiện các chương trình huấn luyện kỹ năng quản lý, các hội thảo, diễn đàn,... Hỗ trợ phát triển thị trường và tăng cường khả năng cạnh tranh, tạo điều kiện để DNNVV tiếp cận các thông tin về thị trường, giá cả hàng hóa, trợ giúp mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm. Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV liên kết hợp tác với nước ngoài, mở rộng thì trường xuất khẩu hàng hóa dịch vụ. - Tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn cho cán bộ nhân viên, đặc biệt là trong công tác thẩm định hồ sơ doanh nghiệp vay vốn. Có thể chủ động liên kết với các trường đại học có uy tín trong lĩnh vực tài chính ngân hàng để tổ chức đào tạo. 5.2. Đối với các Tổ chức tín dụng Hỗ trợ thông tin về Quỹ BLTD đến các DNNVV xin vay vốn, đông thời đăng thông tin liên kết với Quỹ BLTD để DNNVV tham khảo, chuẩn bị những hồ sơ cần thiết trước khi tiếp xúc với TCTD. Chủ động phối hợp với Quỹ BLTD trong hoạt động tín dụng đối với DNNVV, chủ động góp vốn để nâng cao năng lực bảo lãnh của Quỹ BLTD theo qui định của pháp luật. 5.3. Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính của các DNNVV, việc xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu quả, tổ chức hệ thống thông tin tài chính trung thực, khách quan và minh bạch là điều kiện tốt để tạo điều kiện cho các hoạt động phối hợp cấp tín dụng, BLTD, cũng như hoạt động phối hợp để trợ giúp phát triển DNNVV. Ngoài báo cáo tài chính, còn xây dựng hệ thống báo cáo kế toán quản trị. Những báo cáo này có thể làm cơ cơ sở đánh giá khả năng sinh lời và hiệu quả kinh doanh, hiệu quả đầu tư, tạo cho công tác phối hợp được triển khai thực hiện nhanh chóng. Chủ động tìm kiếm thông tin hỗ trợ từ các TCTD, tìm hiểu kỹ qui trình bảo lãnh của Quỹ BLTD để tránh thời gian thực hiện bảo lãnh vay vốn kéo dài. 5.4.Đối với cơ quan quản lý Nhà nước - Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cần tạo môi trường về pháp luật và các cơ chế, chính sách thuận lợi cho hoạt động của Quỹ BLTD. Hoàn thiện quy định về thành lập và tổ chức hoạt động của Quỹ BLTD, tạo thuận lợi cho Quỹ BLTD đủ năng lực tài chính, có nguồn tài chính phù hợp với từng nhu cầu phát triển của DNNVV tại địa phương, cũng như tương xứng với mức cấp tín dụng, bảo lãnh tín dụng được phối hợp giữa Quỹ BLTD với các tổ chức tín dụng, đặc biệt là phối hợp giữa Quỹ BLTD với các ngân hàng thương mại cổ phần. Quy định chi tiết về cơ chế phối hợp cấp tín dụng và BLTD, cũng như quan hệ giữa Quỹ BLTD và các TCTD trong hoạt động phối hợp. - Ngân hàng Nhà nước cần tạo cơ chế chung cho hoạt động phối hợp, cũng như xác định tỷ lệ dự phòng rủi ro của TCTD là 39 0% đối với các khoản cấp tín dụng có BLTD của Quỹ BLTD, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho việc phát huy hiệu quả hoạt động phối hợp cấp tín dụng và BLTD. Tại địa phương, Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện thúc đẩy để cơ chế phối hợp giữa Quỹ BLTD và các TCTD để cấp tín dụng và BLTD cho các DNNVV đi vào thực tế và phát huy hiệu quả thực sự của hoạt động phối hợp. - Chính phủ tiếp tục hoạch định chiến lược phát triển DNNVV hiệu quả hơn, tạo môi trường về pháp luật và các cơ chế, chính sách thuận lợi cho DNNVV thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh nhằm huy động mọi nguồn lực trong nước kết hợp với nguồn lực từ bên ngoài cho đầu tư phát triển. Phát triển DNNVV theo phương châm tích cực, vững chắc, nâng cao chất lượng, phát triển về số lượng, đạt hiệu quả kinh tế, góp phần tạo nhiều việc làm, xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Hoạt động trợ giúp của Nhà nước chuyển dần từ hỗ trợ trực tiếp sang hỗ trợ gián tiếp để nâng cao năng lực cho các DNNVV. Tăng cường nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền về vị trí, vai trò của DNNVV trong phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biết chú trọng hỗ trợ DNNVV phối hợp với Quỹ BLTV và TCTD để thực hiện vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh. - Chính phủ cần xây dựng và phát triển hệ thống thông tin của DNNVV. Có một hệ thống thông tin tài chính trung thực, minh bạch và hệ thống kiểm soát hiệu quả, đồng bộ trong các DNNVV, sẽ tạo điều kiện để các TCTD cho vay, Quỹ BLTD bảo lãnh tín dụng đánh giá được thực trạng, tình hình tài chính, khả năng sinh lời và thanh toán các khoản nợ vay của DNNVV, giúp cho việc cùng hoạt động phối hợp thuận lợi, thống nhất ra các quyết định cho vay và BLTD. - Ngoài quỹ BLTD thuộc sở hữu nhà nước, Chính Phủ nên có cơ chế ưu đãi và khuyến khích thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng thuộc sở hữu tư nhân. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DNNVV khi có nhu cầu vay vốn ngân hàng. Các tổ chức bảo lãnh tín dụng này sẽ hỗ trợ cho DNNVV có được những điều kiện cần thiết để ngân hàng thương mại có thể chấp nhận cấp tín dụng cho DNNVV. Ngoài ra sự cạnh tranh giữa Quỹ BLTD thuộc sở hữu nhà nước và Quỹ BLTD thuộc sở hữu tư nhân cũng sẽ làm cho hoạt động BLTD ngày càng phát triển và hiệu quả hơn. - Chính quyền địa phương cần chỉ đạo, kêu gọi và thúc đẩy hoạt động phối hợp của Quỹ BLTD. Theo dõi hoạt động phối hợp của Quỹ BLTD, kịp thời điều chỉnh các hoạt động phối hợp đáp ứng yêu cầu phát triển các DNNVV tại các địa phương. Thúc đẩy phát triển quan hệ phối hợp của Quỹ BLTD với các sở ngành, các cấp chính quyền địa phương, nhằm tháo gỡ kịp thời những khó khăn vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các DNNVV và thực hiện các chương trinh phát triển kinh tế tại các địa phương. - Cần nghiên cứu sửa đổi Điều 23 Quyết định số 58/2013/QĐ-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ cho phù hợp với thực tế, vì nếu DNNVV đã có tài sản đảm bảo thì không cần đến Quỹ BLTD. 6. Kết luận Hoạt động phối hợp của Quỹ BLTD để BLTD và trợ giúp các DNNVV là hoạt động cùng tham gia với các TCTD trong quá trình đồng thẩm định hồ sơ của DNNVV và thống nhất nội dung BLTD. Đây là hoạt động thuộc chức năng của Quỹ BLTD, mang tính thường xuyên, liên tục và có tác động bổ trợ nhau, tạo thuận lợi cho Quỹ BLTD thực hiện tốt hoạt động trong BLTD và góp phần trợ giúp phát 40 triển DNNVV. Hoạt động phối hợp đã tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV tiếp cận và sử dụng vốn vay đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu vốn vay phục vụ cho các dự án đầu tư phát triển của DNNVV thông qua BLTD, khắc phục tình trạng thiếu hụt tài sản đảm bảo nợ vay trong khi các DNNVV có nhu cầu vốn vay phục vụ cho san xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng vốn kịp thời cho các cơ hội kinh doanh và cơ hội đầu tư, tạo điều kiện đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, đầu tư dây chuyền công nghệ và trang thiết bị hiện đại, cùng các DNNVV góp phần thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình kinh tế trên địa bàn của mỗi địa phương, nâng cao kỹ năng lập phương án sản xuất kinh doanh, lập dự án đầu tư và hồ sơ vay vốn các TCTD của DNNVV, hoàn thiện dần công tác kế toán, lập báo cáo tài chính và kê khai thuế, tạo điều kiện cho các DNNVV nâng cao kiến thức quản lý doanh nghiệp, quản lý dự án đầu tư, thực hiện các dự án đầu tư theo đúng quy định của pháp luật, phù hợp với quy hoạch phát triển công nghiệp theo vùng, lãnh thổ và địa phương. Để phát huy hiệu quả hoạt động phối hợp cần có những giải pháp đồng bộ trong từng hoạt động phối hợp, cũng như giải pháp kết hợp các hoạt động phối hợp. Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước có cơ chế phù hợp nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động phối hợp giữa các TCTD với Quỹ BLTD, có chiến lược phát triển tín dụng trợ giúp DNNVV và định hướng hoạt động phối hợp giữa các TCTD với Quỹ BLTD. Chính quyền địa phương cần chỉ đạo phối hợp đồng bộ trong trợ giúp phát triển DNNVV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trương Văn Khánh, Võ Đức Toàn (2011), “Hoạt động phối hợp giữa quỹ bảo lãnh tín dụng với các ngân hàng thương mại và tổ chức hiệp hội trong việc bảo lãnh tín dụng và trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam”, Tạp chí Đại học Sài Gòn (ISSN 1859-3208), Số 07 tháng 09/2011. 2. Trương Văn Khánh, Võ Đức Toàn (2012), Hoạt động phối hợp giữa quỹ BLTD với các NHTM và tổ chức hiệp hội trong việc BLTD, trợ giúp DNNVV ở Việt Nam, Tạp chí khoa học Thương mại Đại học Thương Mại (ISSN 1859-3666), Số 49 tháng 8/2012. 3. Nghị quyết số 22/NQ-CP của Chính phủ ngày 05 tháng 5 năm 2010, về việc triển khai thực hiện Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. 4. Quyết định Số 193/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. 5. Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ ngày 23 tháng 10 năm 2006 Phê duyệt Kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 5 năm (2006 - 2010). 6. Quyết định số 53/2007/QĐ-UBND ngày 30/3/2007 của Ủy ban nhân dân TP.Hồ Chí Minh ban hành Điều lệ Tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng. 7. Quyết định số 36/2006/QĐ-UBND ngày 8 tháng 3 năm 2006 về việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Hồ Chí Minh. 8. Quỹ bão lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Hồ Chí Minh, Website: 9. Quyết định 58/2013/Q Đ-TTg ngày 15/10/2013 về việc ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ BLTD cho DNNVV. 10. Kỷ yếu hội thảo khoa học (14/08/2015), “Hoạt động BLTD cho DNNVV trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh”, Đại học Ngân Hàng TP.HCM. Ngày nhận bài: 21/9/2015 Biên tập xong: 15/12/2015 Duyệt đăng: 20/12/2015
File đính kèm:
- danh_gia_hoat_dong_phoi_hop_cua_quy_bao_lanh_tin_dung_cho_do.pdf