Đánh giá chuỗi biến đổi Khí hậu - Nước - Năng lượng - Lương thực - Công bằng xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long

Các nghiên cứu chỉ ra rằng, biến đổi khí hậu (BĐKH) và các hoạt động kinh tế xã

hội của con người được thể hiện rõ nét qua chuỗi các mối quan hệ bao gồm biến đổi khí hậu -

nước - năng lượng - lương thực - công bằng xã hội (gọi tắt là chuỗi “biến đổi khí hậu - nước -

năng lượng - lương thực - công bằng xã hội”). Tại các vùng lãnh thổ khác nhau, mức độ quan

trọng và mối quan tâm của xã hội với từng thành phần trong chuỗi không như nhau.

Nghiên cứu được thực hiện với cách tiếp cận theo chuỗi và sử dụng các phương pháp thu thập

sử lí số liệu, phương pháp đánh giá tương quan và xây dựng phương trình hồi quy, xây dựng

biểu đồ SAM. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng: xét về mức độ tác động thì chuỗi quan hệ ở

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được biểu thị là BĐKH - nước - lương thực - năng

lượng - công bằng xã hội; nhưng xét theo mức độ quan tâm của xã hội thì chuỗi quan hệ ở

ĐBSCL được biểu thị là BĐKH - lương thực - nước, công bằng xã hội - năng lượng.

Việc nghiên cứu chuỗi các mối quan hệ nói trên ở ĐBSCL có ý nghĩa bởi vì kết quả thu được

là tiền đề quan trọng cho nghiên cứu về quá trình học tập chuyển đổi nhằm phát triển bền

vững ở ĐBSCL.

pdf 11 trang thom 08/01/2024 3720
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá chuỗi biến đổi Khí hậu - Nước - Năng lượng - Lương thực - Công bằng xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá chuỗi biến đổi Khí hậu - Nước - Năng lượng - Lương thực - Công bằng xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long

Đánh giá chuỗi biến đổi Khí hậu - Nước - Năng lượng - Lương thực - Công bằng xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long
142 
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1059.2017-0018 
Natural Sci. 2017, Vol. 62, No. 3, pp. 142-152 
This paper is available online at  
ĐÁNH GIÁ CHUỖI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU - NƯỚC - NĂNG LƯỢNG - LƯƠNG THỰC 
- CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 
Đào Ngọc Hùng¹, Trần Đức Tuấn² và Cù Thị Phương³ 
¹Khoa Địa lí, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 
²Viện Nghiên cứu Sách và Học liệu Giáo dục, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam 
³Khoa Thủy văn và Tài nguyên nước, Trường Đại học Thủy Lợi 
Tóm tắt. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, biến đổi khí hậu (BĐKH) và các hoạt động kinh tế xã 
hội của con người được thể hiện rõ nét qua chuỗi các mối quan hệ bao gồm biến đổi khí hậu - 
nước - năng lượng - lương thực - công bằng xã hội (gọi tắt là chuỗi “biến đổi khí hậu - nước - 
năng lượng - lương thực - công bằng xã hội”). Tại các vùng lãnh thổ khác nhau, mức độ quan 
trọng và mối quan tâm của xã hội với từng thành phần trong chuỗi không như nhau. 
Nghiên cứu được thực hiện với cách tiếp cận theo chuỗi và sử dụng các phương pháp thu thập 
sử lí số liệu, phương pháp đánh giá tương quan và xây dựng phương trình hồi quy, xây dựng 
biểu đồ SAM. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng: xét về mức độ tác động thì chuỗi quan hệ ở 
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được biểu thị là BĐKH - nước - lương thực - năng 
lượng - công bằng xã hội; nhưng xét theo mức độ quan tâm của xã hội thì chuỗi quan hệ ở 
ĐBSCL được biểu thị là BĐKH - lương thực - nước, công bằng xã hội - năng lượng. 
Việc nghiên cứu chuỗi các mối quan hệ nói trên ở ĐBSCL có ý nghĩa bởi vì kết quả thu được 
là tiền đề quan trọng cho nghiên cứu về quá trình học tập chuyển đổi nhằm phát triển bền 
vững ở ĐBSCL. 
Từ khóa. Biến đổi khí hậu, chuỗi biến đổi khí hậu - nước - năng lượng - lương thực - công 
bằng xã hội, đồng bằng sông Cửu Long, học tập chuyển đổi, phát triển bền vững. 
1. Mở đầu 
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nằm ở rìa phía Nam của Việt Nam, có tổng diển tích tự 
nhiên khoảng hơn 40 nghìn km², chiếm hơn 12 % diện tích của Việt Nam [1] và 5% diện tích lưu 
vực sông Mê Công. Phía Tây của Đồng bằng tiếp giáp với Campuchia, phía Nam là vịnh Thái Lan, 
phía Đông là Biển Đông và phía Bắc tiếp giáp với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Tây Ninh. 
22% dân số Việt Nam sống ở ĐBSCL. Đất nông nghiệp chiếm 75% diện tích ĐBSCL, phần lớn là 
ruộng lúa. ĐBSCL có tài nguyên nước dồi dào, khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, hệ thống giao thông 
đường bộ và đường thủy thuận tiện, người dân cần cù chịu khó và có kinh nghiệm sản xuất nông 
nghiệp, nông nghiệp là sinh kế chính cho 60% dân cư ở ĐBSCL [2]. ĐBSCL cung cấp 46% tổng 
lượng lương thực sản xuất tại Việt Nam và đóng góp 27% GDP của Việt Nam [3]. 
Ngày nhận bài: 19/2/2017. Ngày nhận đăng: 20/3/2017. 
Tác giả liên hệ: Đào Ngọc Hùng, e-mail: daongochung69@gmail.com 
Đánh giá chuỗi biến đổi khí hậu - nước - năng lượng - lương thực - công bằng xã hội ở đồng bằng 
143 
ĐBSCL là một trong ba đồng bằng dễ bị tổn thương nhất trên thế giới do BĐKH (cùng với 
đồng bằng sông Nile ở Ai Cập và đồng bằng Ganges ở Bangladesh). Với biểu hiện nước biển 
dâng cao, các hiện tượng thời tiết cực đoan gia tăng, BĐKH đã tác động tiêu cực và đáng kể đến 
ĐBSCL. Theo dự báo, tác động của BĐKH sẽ làm 90% đất nông nghiệp ở ĐBSCL bị ảnh hưởng 
bởi lũ lụt, 70% diện tích ĐBSCL sẽ bị xâm nhập mặn, năng suất nông nghiệp bị suy giảm và sinh 
kế của nhiều người dân, đặc biệt là người nghèo bị ảnh hưởng tiêu cực [3]. 
Trong bối cảnh trên, chính quyền và người dân địa phương đã thể hiện mối quan tâm ngày 
càng nhiều và sâu sắc đến chuỗi mối quan hệ BĐKH - nước - lương thực - năng lượng - công 
bằng xã hội. Thay cho cách tiếp cận theo ngành, cách tiếp cận chuỗi là cách tiếp cận hữu hiệu để 
nhận diện và tìm ra các giải pháp bền vững giải quyết các vấn đề nảy sinh từ chuỗi. Golam Rasul 
& Bikash Sharma cho rằng tiếp cận chuỗi là cách tiếp cận mới, đặc biệt phù hợp tại các nước phát 
triển để xem xét và giải quyết tổ hợp các vấn đề an ninh nước - năng lượng - lương thực trong bối 
cảnh biến đổi khí hậu” [4]. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc khuyến nghị sử 
dụng tiếp cận chuỗi để phân tích tình hình và tìm ra các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề an ninh 
lương thực và nông nghiệp bền vững trong điều kiện BĐKH [5]. Unescap cũng đã chỉ ra các lợi 
ích của sử dụng cách tiếp cận chuỗi nước - lương thực - năng lượng ở châu Á và vùng Thái Bình 
Dương [6]. Tuyet L. Cosslett, Patrick D. Cosslett cũng đã nhấn mạnh rằng rất cần thiết phải áp 
dụng tiếp cận chuỗi và phương pháp điều tra qua internet khi nghiên cứu về tài nguyên nước và an 
ninh lương thực ở ĐBSCL [7]. 
Tiếp cận chuỗi đã được các tác giả của bài báo áp dụng trong quá trình phân tích bối cảnh 
của các quá trình chuyển hóa tiến tới sự phát triển bền vững và các quá trình học tập chuyển đổi 
nhằm mục tiêu sự phát triển bền vững ở ĐBSCL. Điểm mới trong nghiên cứu là đã bổ sung thêm 
2 thành phần: BĐHK và Công bằng xã hội để xem xét và phân tích chuỗi các mối quan hệ. Nội 
dung của nghiên cứu là làm sáng tỏ vai trò của các thành phần trong chuỗi “BĐKH - nước - lương 
thực - năng lượng - công bằng xã hội” và mối quan tâm của người dân đối với các vấn đề của chuỗi. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Phương pháp nghiên cứu 
* Tiếp cận theo chuỗi 
Một trong những thách thức lớn nhất mà nhiều vùng châu thổ trên thế giới, cũng như Đồng 
bằng sông Cửu Long của Việt Nam hiện đang phải đối mặt là làm thế nào để thích ứng và giảm 
thiểu các tác động bất lợi của BĐKH đối với hệ thống tự nhiên và kinh tế- xã hội. Vì vậy, cộng 
đồng các vùng châu thổ trong đó có ĐBSCL đang tìm kiếm những cách tiếp cận và giải pháp mới 
để vượt qua và thích ứng với những thách thức của BĐKH và các thách thức về phát triển như an 
ninh nguồn nước, năng lượng và lương thực cũng như công bằng xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, 
cách tiếp cận và giải pháp theo ngành [8, 9] có thể làm tăng tính dễ bị tổn thương hoặc làm giảm 
khả năng phục hồi ở những ngành khác. Vì vậy, thay vì áp dụng cách tiếp cận ngành, ĐBSCL có 
thể và cần phải áp dụng càng sớm càng tốt cách tiếp cận chuỗi (tiếp cận đa ngành và đa phương 
diện theo định hướng phát triển bền vững) để tìm ra các giải pháp bền vững cho các vấn đề “gay 
cấn” về tự nhiên - kinh tế - xã hội nảy sinh dưới tác đông tiêu cực của biến đổi khí hậu. Chuỗi ở đây 
được hiểu là tập hợp các mối quan hệ tương hỗ lãnh nhau của các thành phần nổi trội thuộc các 
lĩnh vực tự nhiên - kinh tế - xã hội trong một không gian lãnh thổ nhất định trong một khoảng thời 
gian nhất định mà ở đó khi một thành thành phần chủ chốt của chuỗi biến đổi thì nó sẽ tác động và 
gây ra những biến đổi day chuền ở các thành phần khác trong chuỗi. Tiếp cận theo chuỗi là cách 
tiếp cận cận bền vững, coi trọng và đi sâu tìm hiểu xem xét một cách tổng thể và đa phương diện 
vai trò của các mối liên kết và tác động tương hỗ giữa BĐKH - nước - năng lượng - lương thực và 
công bằng xã hội trong một không gian lãnh thổ đang chịu tác động mãnh mẽ của BĐKH để tìm 
Đào Ngọc Hùng, Trần Đức Tuấn và Cù Thị Phương 
144 
ra các giải pháp giải quyết một cách bền vững các vấn đề gây cấn nảy sinh trong không gian lãnh 
thổ này. 
* Đánh giá tương quan và xây dựng phương trình hồi 
Phương pháp phân tích hồi quy và tương quan là một trong những phương pháp thường được 
sử dụng trong thống kê để tìm mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. Với trị số quan sát ix của X và 
iy của Y ta cần xác định hệ số tương quan xyr : 
 2222 . YYXX
YXXYrxy
 , 
trong đó: 
n
YX
XY
n
Y
Y
n
Y
Y
n
X
X
n
X
X i
ii
i
i
i
i
i
i
i
i 
.
;;;;
2
2
2
2
xyr luôn ≤1; và xyr càng lớn thì tương quan càng chặt. 
Sau đó ta xây dựng phương trình hồi quy: y = ax + b, trong đó: 
 22
.
XX
YXXYa
 ; XaYb 
* Phương pháp thu thập sử lí số liệu 
Tác giả tiến hành thu thập các tài liệu khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của lãnh 
thổ nghiên cứu để có cái nhìn khái quát nhất về lãnh thổ. Các dữ liệu sau khi được thu thập được 
tiến hành phân tích, phân loại; sau đó kiểm tra tính đầy đủ và cập nhật của các nguồn tài liệu sao 
cho phù hợp với yêu cầu đặt ra. Các tài liệu thu thập được từ 2 nguồn chính: Niên giám Thống kê 
Việt Nam và Niêm giám Thống kê của các địa phương; phân tích tần số lặp lại một thông tin nào 
đó bằng việc sử dụng các từ khóa trên công cụ tìm kiếm thông tin Google. Do được thu thập từ 
nhiều nguồn khác nhau nên các cần được chọn lọc và chuẩn hóa các tài liệu cho đồng bộ. 
* Biểu đồ SAM 
Biểu đồ SAM (Sustainability Assessment Mapping) do Clayton đề xuất năm 1997 [10]. Các 
kết quả của phân tích vị thế có thể được biểu diễn ở dạng biểu đồ, khiến cho các thông tin trở nên 
dễ tiếp cận. SAM là công cụ biểu đồ dùng để trình diễn các thông tin vị thế và hỗ trợ việc lập 
quyết định. Có thể nói SAM là công cụ giáo dục và trực quan. 
2.2. Bối cảnh nghiên cứu 
Vùng đất đồng bằng châu thổ sông Cửu Long được hình thành khoảng 2.000 - 2.500 năm 
trước đây. Từ cuối thế kỉ XVIII, khu vực ngã ba sông Hậu – sông Cần Thơ và phụ cận là điểm 
quần cư đông đúc, liên tục được lựa chọn làm trung tâm của vùng ĐBSCL [11]. 
2.2.1. Đặc điểm địa lí tự nhiên 
ĐBSCL có địa hình thấp, có độ cao từ 1 - 4 m so với mực nước biển, có nhiều vùng trũng mùa 
mưa nhiều vùng ngập trong nước, thường xuyên chịu tác động của nước biển dâng, thủy triều, 
xâm nhập mặn. Các nhóm đất chính ở ĐBSCL bao gồm: Nhóm đất phù sa ngọt; nhóm đất phèn; 
nhóm đất mặn. 
Theo Copen, ĐBSCL có khí hậu nhiệt đới ẩm và khô (Aw) [12]. Nhiệt độ quanh năm cao 
trung bình năm khoảng 27 ºC. Do BĐKH, nhiệt độ ĐBSCL có xu thế tăng. Lượng mưa trung bình 
Đánh giá chuỗi biến đổi khí hậu - nước - năng lượng - lương thực - công bằng xã hội ở đồng bằng 
145 
năm trong đất liền 1600 - 2400 mm. Mưa ở ĐBSCL phân hóa lớn theo mùa. Mùa mưa kéo dài từ 
tháng 5 đến tháng 11, tập trung từ 92 - 97% lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4. 
ĐBSCL có mạng lưới sông, kêch rạch dày đặc gồm sông Tiền, sông Hậu và các sông nhỏ 
khác nối với nhau thành một hệ thống. Chế độ thủy văn ĐBSCL điển hình với hai mùa lũ và mùa 
cạn. Mùa lũ thường bắt đầu vào tháng 7 kéo dài tới tháng 12 hàng năm, gây ngập úng và hình 
thành một mùa nước nổi rất đặc trưng. Theo Kịch bản Biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho 
Việt Nam (2016) của Bộ Tài nguyên và Môi trường, theo kịch bản phát thải trung bình, nhiệt độ ở 
ĐBSCL có xu thế tăng, trung bình 0.02 ºC/năm (Hình 1), vào năm 2050, mực nước biển dâng 30 
cm, diện tích ngập là 17,6% [13]. 
Hình 1. Biến trình nhiều năm và xu thế nhiệt độ không khí trung bình năm trạm Cần Thơ 
Sinh vật là nguồn tài nguyên giá trị ở ĐBSCL. Thảm thực vật nơi đây chủ yếu là rừng ngập 
mặn như ở Cà Mau, Bạc Liêu hay rừng tràm như ở Kiên Giang, Đồng Tháp... Với đặc điểm là 
miền sông nước, hệ động vật nơi đây rất đa dạng và phong phú với các loài cá và chim. Vùng 
ĐBSCL có một bộ phận Biển Đông và vịnh Thái Lan với rất nhiều bãi tôm, bãi cá và hơn nửa 
triệu ha mặt nước nuôi trồng thủy sản. Các loại khoáng sản chủ yếu của ĐBSCL là đá vôi, than 
bùn. ĐBSCL có triển vọng dầu khí trong vùng thềm lục địa tiếp giáp thuộc biển Đông và Vịnh 
Thái Lan. 
2.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 
Tính đến năm 2015, dân số ĐBSCL đạt gần 17.590.400 người, mật độ dân số đạt 434 
người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 4.405.200 người, dân số sống tại nông thôn 
đạt 13.185.200 người.Tỉ lệ tăng dân số là 0,42 % [1] 
Về giáo dục - đào tạo: trong năm học 2014 - 2015, tỉ lệ huy động học sinh trong độ tuổi là 
94%; Về y tế năm 2015: tình hình chăm sóc sức khỏe và nguồn nhân lực y tế của vùng còn rất 
thấp so với cả nước; Hiện nay ĐBSCL có khoảng 115 nhà máy nước với công suất 14.300 m³/ 
ngày cung cấp cho các đô thị, 2.379 công trình với công suất 323.885 m³/ngày cung cấp cho nông 
thôn [14]; Tỉ lệ hộ dùng điện sinh hoạt toàn vùng đạt 99,1%. Diện tích nhà ở trung bình tại vùng 
là 21,4 m²/người, thu nhập bình quân đầu người khoảng 105,7 USA/ tháng, Hệ số bất bình đẳng 
trong phân phối thu nhập (hệ số GINI) là 0,395, tỉ lệ hộ nghèo là 6,5%. 
ĐBSCL đóng góp hơn 50% diện tích lúa, 71% diện tích nuôi trồng thủy sản, 30% giá trị sản 
xuất nông nghiệp và 54% sản lượng thủy sản của cả nước. Ngoài ra cây ăn quả còn đặc sản nổi 
tiếng của vùng, với sự đa dạng về số lượng, cũng như chất lượng ngày càng được nâng cao. 
Nghề nuôi vịt đàn phát triển mạnh. Du lịch sinh thái bắt đầu khởi sắc như du lịch trên sông nước, 
vườn, khám phá các cù lao [15]. Ngoài ra ở ĐBSCL có tài nguyên về dầu khí trong thềm lục địa 
đã được khai thác, có các khoáng sản vật liệu xây dựng như sét gạch ngói, cát sỏi..... 
Đào Ngọc Hùng, Trần Đức Tuấn và Cù Thị Phương 
146 
2.3. Chuỗi biến đổi khí hậu - nước - năng lượng - lương thực - công bằng xã hội 
2.3.1. Vai trò của các thành phần trong chuỗi 
- Tác động của biến đổi khí hậu 
BĐKH mang tính toàn cầu, tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới, tuy nhiên ĐBSCL 
là một trong những lãnh thổ chịu tác động mạnh mẽ nhất. BĐKH tác động đến tài nguyên nước, 
đặc biệt làm suy giảm lượng nước trong mùa cạn ở ĐBSCL (Bảng 1). 
Bảng 1. Kịch bản biến động tài nguyên nước dựa trên kịch bản phát thải B2 
Sông Trạm Đặc trưng 
Mức biến đổi so với thời kỳ nền (%) 
Phương án B2 
2020 2030 2040 2050 
Tiền Mỹ Thuận Mùa lũ 2,2 -9,4 0,4 -1,4 Mùa cạn -18,9 -25,4 -11,1 -4,8 
Hậu Cần Thơ Mùa lũ 1,1 -9,0 -1,5 -1,3 Mùa cạn -21,1 -27,4 -12,1 -2,5 
Nguồn: [14] 
Theo như dự báo của viện năng lượng, với tính toán tác động của BĐKH và sự tăng trưởng 
trong phát triển kinh tế xã hội, tổng nhu cầu điện thương phẩm của cả vùng ĐBSCL được dự báo 
sẽ tăng trưởng liên tục (Bảng 2). 
Bảng 2. Sự gia tăng nhu cầu điện thương phẩm của vùng ĐBSCL 
Năm 2010 2015 2020 2025 
% 0 13,9 13,8 9,2 
Nguồn: [16] 
BĐKH làm thay đổi môi trường sống của các loài động vật và thực vật, ảnh hưởng đến khả 
năng chống chịu của cây trồng vật nuôi đối với môi trường sống. Do nhiệt độ gia tăng làm cho 
chu kỳ sinh trưởng của sinh vật gây bệnh giảm, tăng số sinh vật sâu bệnh làm cho các dịch bệnh 
phát triển mạnh hơn. Nước biển dâng sẽ thu hẹp đáng kể diện tích nông nghiệp ở ĐBSCL. 
Với đặc thù nền kinh tế nông nghiệp, đối tượng bị tổn thương lớn nhất do BĐKH ở ĐBSCL 
là nông dân. Đối với độ tuổi và giới tính, đối tượng bị tổn thương lớn nhất do BĐKH là người già, 
phụ nữ và trẻ em. 
- Tác động của nước đến các thành phần trong chuỗi 
Bảng 3. Tổng lượng nước cần dùng ở ĐBSCL qua các năm 
Ngành sử dụng nước Tổng lượng nước cần dùng vào năm (km³) 
2000 2010 2020 
Nông nghiệp 29 32.23 34.16 
Thủy sản 6 9 12.16 
Sinh hoạt 0.413 0.646 0.808 
Công nghiệp 0.008 0.016 0.02 
Môi trường 11 13 14 
Toàn bộ 46 55 61 
Nguồn:[17] 
Nước điều hòa khí hậu, có vai trò lớn làm giảm thiểu BĐKH. Tại ĐBSCL, nước được sử 
dụng như một mạng lưới giao thông quan trọng của người dân góp phần tiết kiệm đáng kể nguồn 
năng lượng. Với đặc điểm nền kinh tế dựa vào tài nguyên nước, nhu sử dụng nước Tại ĐBSCL 
đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội ngày càng gia tăng (Bảng 3). Trong bối cảnh BĐKH, hạn hán, 
Đánh giá chuỗi biến đổi khí hậu - nước - năng lượng - lương thực - công bằng xã hội ở đồng bằng 
147 
xâm nhập mặn đã ảnh hưởng lớn đến năng lượng, lương thực và công bằng xã hội trong việc chia 
sẻ tài nguyên nước. 
- Tác động của năng lượng đến các thành phần trong chuỗi 
Nguồn năng lượng chính phục vụ các hoạt động kinh tế và sinh hoạt ở ĐBSCL từ hệ thống 
điện lưới quốc gia và xăng dầu. Chính vì vậy riêng tại khu vực ĐBSCL đến năm 2030 sẽ có 14 
nhà máy điện than phục vụ như cầu điện địa phương. Do BĐKH, nhu cầu sử dụng nguồn năng 
lượng tăng (Bảng 2). Ngoài ra các hoạt động nông nghiệp như chăn nuôi đã thải ra môi trường 
một lượng lớn chất thải nông nghiệp. Trong bối cảnh đó, người dân ĐBSCL đã bổ xung nguồn 
năng lượng bằng các nguồn năng lượng sạch “hầm biogas”. Đây là giải pháp sử dụng tài nguyên 
thông minh ứng phó với BĐKH. Năng lượng cần thiết thể bơm nước tưới tiêu và phục vụ sinh 
hoạt. Nhu cầu về năng lượng được đáp ứng đầy đủ cho người dân ở ĐBSCL. 
- Tác động của lương thực đến các thành phần trong chuỗi 
Sản lượng lúa nước gia tăng liên tục qua các năm, gần 1000.000 tấn trong năm 2000 đến hơn 
1408000 tấn trong năm 2015 kéo theo lượng khí nhà kính mêtan hình thành trong môi trường yếm 
khí tăng 1,4 lần, tác động đến BĐKH. Việc gia tăng sản lượng lúa, phát triển nuôi trồng thủy sản 
tại ĐBSCL gây khan hiếm và ô nhiễm nguồn nước. Tại ĐBSCL có rất nhiều dự án biogas vừa xử 
lí được các chất thải trong chăn nuôi, bảo vệ môi trường, vừa tạo ra khí đốt phục vụ sinh hoạt. 
Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu nhiều gạo nhất trên thế giới (Bảng 4). Thu nhập 
từ xuất khẩu giúp tăng thu nhập cho người nông dân, tăng công bằng xã hội hơn. Tuy nhiên do 
chất lượng gạo chưa cao nên giá thành thấp, cần có áp dụng công nghệ mới, tạo sản phẩm có sức 
cạnh tranh cao. 
Bảng 4. Số liệu 3 nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới (triệu tấn) 
Stt Quốc gia (2011/12) (2010/11) 
1 India 10,2 4,6 
2 Vietnam 7,7 7,0 
3 Thailand 6,9 10,6 
Nguồn USDA, 2015 
- Vai trò của công bằng xã hội với các thành phần trong chuỗi 
Trong nghiên cứu, công bằng xã hội được giới hạn về mức sống và khả năng tiếp cận các 
nguồn tài nguyên. Theo số liệu niên giám thống kê (Bảng 5), về công bằng xã hội giữa các người 
dân ở ĐBSCL có thể nhận thấy tuy số hộ nghèo giảm theo thời gian nhưng mức sống trung bình 
của người dân vẫn thấp và có sự phân hóa cao giàu nghèo, bất bình đẳng giới, bất bình đẳng trong 
tiếp cận các nguồn tài nguyên và an toàn vệ sinh thực phẩm chưa tốt. Sự bất bình đẳng này ảnh 
hưởng tới ý thức bảo vệ môi trường trong đó có môi trường nước, ứng phó với BĐKH chưa tốt. 
Bảng 5. Chênh lệch thu nhập bình quân đầu người một tháng giữa nhóm thu nhập 
 cao nhất so với nhóm thu nhập thấp nhất theo giá hiện hành tại ĐBSCL 
Năm 
Nhóm thu nhập cao nhất so với 
nhóm thu nhập thấp nhất (lần) 
2010 2012 2014 
Đồng bằng sông Cửu Long 7 7 7 
Nguồn [1] 
2.3.2. Đánh giá tổng hợp tác động qua lại các thành phần trong chuỗi 
Qua phân tích vai trò của các thành phần trong chuỗi và dựa vào các số liệu thống kê [1], có 
thể sử lí, tổng hợp số liệu thông qua phương pháp xây dựng ma trận mối tương tác giữa các thành 
phần trong chuỗi (Bảng 6). 
Đào Ngọc Hùng, Trần Đức Tuấn và Cù Thị Phương 
148 
Bảng 6. Tác động qua lại các thành phần trong chuỗi tại Đồng bằng sông Cửu Long 
Biến đổi 
khí hậu Nước Năng lượng Lương thực 
Công bằng xã 
hội 
Biến 
đổi khí 
hậu 
 - Biến động 
mưa 
- BĐ chế độ 
thủy văn 
- Hạn hán, xâm 
nhập mặn. 
Tiêu hao nhiều 
năng lượng 
hơn. 
- Giảm ngưỡng 
chống chịu của 
cây nông 
nghiệp 
- Gia tăng dịch 
bệnh 
-Mất đất nông 
nghiệp 
Đối tượng bị 
tổn thương 
nhiều nhất: 
- Nông dân 
- Người già 
- Phụ nữ 
- Trẻ em 
Nước - Điều hòa khí 
hậu 
 - 8% nước tạo 
energy 
- Điều hòa khí 
hậu, giảm nhu 
cầu sử dụng 
năng lượng 
- Giao thông 
đường thủy tiết 
kiệm năng 
lượng. 
- 66 % nước 
dùng cho nông 
nghiệp 
- Xâm nhập 
mặn, hạn hán, 
nước biển dâng 
ảnh hưởng đến 
nông nghiệp. 
- Đặc biệt quan 
trọng với nông 
dân (tưới tiếu ) 
- Đối với dịch 
vụ (chợ nổi, du 
lịch) 
Năng 
lượng 
- Gia tăng khí 
thải và BĐKH 
- Năng lượng 
sạch ứng phó 
với BĐKH 
Bơm nước Năng lượng 
phục vụ sản 
xuất, chế biến 
lương thực 
-Bơm nước 
- Đặc biệt quan 
trọng với nông 
dân (tưới tiếu ) 
Lương 
thực 
Lúa nước, nuôi 
bò tăng lượng 
khí nhà kính, 
gia tăng 
BĐKH 
Ảnh hưởng đến 
lượng nước và 
chất lượng 
nước 
Tạo nhiên liệu 
sinh học như 
Biogas 
 Nông nghiệp 
phát triển làm 
xã hội công 
bằng hơn. 
Công 
bằng 
xã hội 
Công bằng xã 
hội ảnh hưởng 
tới ứng phó với 
biến đổi khí 
hậu. 
Công bằng 
trong chia sẻ 
tài nguyên 
nước ảnh 
hưởng tới 
nguồn nước 
Công bằng xã 
hội tác động 
tới đạo đức sử 
dụng tài năng 
lượng 
Công bằng xã 
hội ảnh hưởng 
tới chất và 
lượng lương 
thực. 
Dựa vào số liệu tại Hình 1, Bảng 1, Bảng 2, Bảng 3, xây dựng, thông qua phương pháp đánh 
giá tương quan và phương trình hồi quy xây dựng được mô tả ở Hình 2. 
Dựa trên phân tích về vai trò của các thành phần trong chuỗi và (Hình 3) có thể nhận thấy 
thấy, BĐKH tác động đến tất cả các thành phần trong chuỗi với mức độ khác nhau vì vậy BĐKH 
có thể coi như là nhân tố chính trong chuỗi. 
Đánh giá chuỗi biến đổi khí hậu - nước - năng lượng - lương thực - công bằng xã hội ở đồng bằng 
149 
Nguồn nước sông Mê Công đã tạo lên đặc trưng kinh tế - xã hội ở ĐBSCL, vai trò quan trong 
thứ 2 trong chuỗi là nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. 
Hình 2. Biểu đồ thể hiện mức độ biến động của chuỗi nước - năng lượng - lương thực 
trong bối cảnh biến đổi khí hậu 
Tất cả yếu tố trên ảnh hưởng đến an ninh lương thực, cụ thể là sản lượng lúa và sản lượng 
thủy sản, là nhân tố tác động trực tiếp đến sự ổn định cũng như công bằng xã hội, phát triển bền 
vững. Nhân tố cuối cùng có vai trò quan trọng, thiết yếu trong đời sống, phục vụ nhu cầu sản xuất 
và sinh hoạt ở ĐBSCL là năng lượng. 
Như vậy với nhìn nhận mối tương tác của các thành phần trong phạm vi ĐBSCL, có thể mô 
hình hóa vai trò của các thành phần trong chuỗi thông qua sơ đồ SAM tại (Hình 3). 
Hình 3. Vai trò của các thành phần trong chuỗi ở ĐBSCL 
2.3.3. Quan tâm của xã hội về chuỗi 
Ngày nay, những mối quan tâm của xã hội về các vấn đề được thể hiện rõ nét, khách quan và 
dễ tiếp cận trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt trên internet. Để đánh giá mức độ 
quan tâm một vấn đề nào đó, có thể sử dụng phương pháp phân tích tần số lặp lại một thông tin 
nào đó bằng việc sử dụng các từ khóa trên công cụ tìm kiếm thông tin Google. 
Đào Ngọc Hùng, Trần Đức Tuấn và Cù Thị Phương 
150 
Dưới đây bài báo tìm hiểu sự quan tâm của xã hội đối với 5 thành phần của chuỗi. Tuy nhiên 
để có được số liệu cần thiết và khách quan cho nghiên cứu, bài báo đã chọn những từ khóa phù 
hợp với nội dung nghiên cứu. Với mỗi thành phần của NEXUS chúng tôi chọn 4 cụm từ bao gồm 
cụm từ : “Đồng bằng sông Cửu Long” và một cụm từ liên quan với “NEXUS”. Cụ thể các từ khóa 
dùng để tìm và thống kê số lượng các bài liên quan với từ khóa đó kê được trình bày tại (Bảng 7): 
Bảng 7. Thống kê mức độ quan tâm của xã hội đến các vấn đề nghiên cứu 
Thành phần Từ khóa (Đồng bằng 
 sông Cửu Long,) 
Số lượng thông tin liên quan 
Biến đổi khí hậu và 
nước biển dâng 
Biến đổi khí hậu 762157 
4,758,077 
Nước biển dâng 1307698 
Nắng nóng 1984220 
Thời tiết cực đoan 704002 
Nước tưới, hạn hán, 
xâm nhập mặn 
Nước tưới 1639267 
3,240,294 
Lũ lụt 1123533 
Hạn hán 233750 
Xâm nhập mặn 243744 
Năng lượng, thủy điện, 
biogas, điện, xăng dầu 
Năng lượng Đồng bằng 
sông Cửu Long 75000 
1,822,901 
Biogas ở Đồng bằng sông 
Cửu Long 28336 
Điện sinh hoạt 736903 
Xăng dầu 982662 
Lúa, nuôi trồng thủy sản 
Lúa 780240 
3,962,147 
Nuôi cá 1280282 
Nuôi tôm 1484257 
Đánh bắt hải sản 417368 
Công bẵng xã hội, vấn 
đề chia sẻ tài nguyên 
nước 
Thủy điện sông Mê Công 258958 
3,305,161 
Chuyền nước sông Mê Công 517872 
Nước sạch 764747 
Đói, nghèo 1763584 
3. Kết luận 
Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam là một trong ba đồng bằng dễ bị tổn thương nhất 
trên thế giới và hậu quả do tác động của BĐKH là một diện tích rất lớn đất nông nghiệp sẽ bị tàn 
phá bởi lũ lụt, bởi xâm nhập mặn; năng suất nông nghiệp bị suy giảm và sinh kế của nhiều người 
dân, đặc biệt là người nghèo bị tổn hại. 
Trong bối cảnh nêu, chính quyền và người dân địa phương ở ĐBSCL đã thể hiện mối quan 
tâm ngày càng nhiều và sâu sắc đến các thách thức của BĐKH và các vấn để gay cấn của việc 
đảm bảo an ninh nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng và quyền bình đẳng cho mọi người 
Đánh giá chuỗi biến đổi khí hậu - nước - năng lượng - lương thực - công bằng xã hội ở đồng bằng 
151 
dân đặc biệt là những người nghèo. Vấn đề đặt ra đối với ĐBSCL là làm thế nào để nhận diện đầy 
đủ các thách thức, các vấn đề gay cấn và tìm ra các giải pháp bền vững để vượt qua thách thức và 
giả quyết các vấn đề đặt ra. Nếu như tiếp cận ngành được sử dụng phổ biến trước đây không thể 
cho được giải đáp thỏa đáng thì cách tiếp cận chuỗi là một cách tiếp cận hiện đại, đa ngành và đa 
phương diện có thể giúp người dân ở ĐBSCL nhận diện và tìm ra các giải pháp bền vững để giải 
quyết các vấn đề nảy sinh dưới tác động của BĐKH. 
Các kết quả nghiên cứu được trình bày ở phần trên đã chỉ ra rằng nếu xét theo mức độ tác 
động và tầm quan trọng của các yếu tố nằm trong chuỗi các mối quan hệ ở ĐBSCL thì BĐKH 
phải được kể đến trước tiên, kế tiếp là Nước và Lương thực, cuối cùng Năng lượng và Công bằng 
xã hội. Vì vậy, chuỗi mối quan hệ tương tác “BĐKH - nước - lương thực - năng lương - công 
bằng xã hội” được xem chuỗi quan trọng nhất và đặc trưng cho ĐBSCL. Tuy nhiên, theo kết quả 
điều tra và phân tích các dữ liệu trên internet cho thấy mối quan tâm của xã hội đối với các thành 
phần của chuỗi nói trên không đồng nhất với sơ đồ sắp xếp nói trên. BĐKH là vấn đề được xã hội 
quan tâm nhất, tiếp theo sau là lương thực, tiếp đến là nước và công bằng xã hội và ở vị trí cuối 
cũng là năng lượng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Tổng cục thống kê, 2015. Niên giám thống kê Việt Nam 2015. Nhà xuất bản thống kê. 
[2] Käkönen, Mira, 2008. Mekong Delta at the Crossroads: More Control or Adaptation?. 
Ambio Volume 37, No. 3: 205-12. Retrieved October 5, 2011 from ProQuest. 
[3]  
[4] Golam Rasul & Bikash Sharma, 2015. The nexus approach to water–energy–food security: 
an option for adaptation to climate change. Published by Informa UK imited, trading as 
Taylor & Francis Group. 
[5] FAO, 2014. The Water-Energy-Food Nexus A new approach in support of food security and 
sustainable agriculture. Food and Agriculture Organization of the United Nations Rome. 
[6] Unescap, 2013. The Status of the Water-Food-Energy Security Nexus in Asia and the 
Pacific region. 
[7] Tuyet L. Cosslett, Patrick D. Cosslett, 2014. Water Resources and Food Security in the 
Vietnam Mekong Delta. Springer. USA. 
[8] U. Lele., M. Klousia-Marquis, S. Goswami, 2013. Good Governance for Food, Water and 
Energy Security. Published by Elsevier B.V. 
[9] Brian Walker and David Salt, 2006. Resilience Thinking Sustaining Ecosystems and People 
in a Changing World. IslandPress. 
[10] Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu, 2007. Tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu môi trường và 
phát triển. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[11] Phạm Đỗ Văn Trung, 2010. Nghiên cứu quá trình đô thị hóa và ảnh hưởng của nó đến sự 
phát triển kinh tế - xã hội thành phố Cần Thơ. Luận án tiến sĩ. 
[12] https://www.britannica.com/science/Koppen-climate-classification 
[13] Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016. Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt 
Nam. Nxb Tài nguyên Môi trường và Bản đồ Việt Nam. 
[14] Trần Thanh Xuân, Hoàng Minh Tuyển, 2013. Tài Nguyên Nước Việt Nam và quản lí. Nxb 
Khoa học Tự nhiên và Công Nghệ. 
[15]  
Đào Ngọc Hùng, Trần Đức Tuấn và Cù Thị Phương 
152 
[16]  
[17] Trần Thanh Xuân, 2013. Mạng lưới và tài nguyên nước sông Việt Nam, những biến đổi và 
thách thức. Nxb Khoa học và Kĩ thuật. 
ABSTRACT 
Assessing the consequences of climate change - water resource 
- energy - food - justice social in mekong river delta 
Dao Ngoc Hung¹, Tran Duc Tuan² and Cu Thi Phuong³ 
¹Faculty of Geography, Hanoi National University of Education 
²Vietnam Education Publishing House, ³Thuy Loi University 
As a myriad of studies, there is a relationship between climate change and socio-economic 
activities of human life and it is shown by the nexus among climate change, water resource, 
energy, food, and justice social. However, there is a difference in the importance of another 
components as well as the interest of people in them for each regions. The study applied the 
approach about nexus and used simultaneous method of regress, analysing, and SAM chart. The 
result of research show that in Mekong River Delta the predicted nexus is climate change - water 
resource - food - power - justice social for the effect of another one and is climate change - food - 
water resource - justice social - energy for the interest of society. Moreover, it is really meaningful 
for assessing the implication among them in Mekong River Delta because they are major premise 
that sciences can use for their researches on transformative learning by the sustainable 
development in Mekong River Delta. 
Keywords: Climate change, nexus climate change - water - energy - food - social justice, Mekong 
River Delta, transformative learning, sustainable development. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_chuoi_bien_doi_khi_hau_nuoc_nang_luong_luong_thuc_c.pdf