Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng

Luận giải đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng đông nam châu

thổ Sông Hồng được thực hiện dựa trên cơ sở phân tích hóa thạch trùng lỗ và hóa thạch bào tử phấn

hoa, với sự tham khảo các kết quả phân tích thạch học lát mỏng, thành phần độ hạt, hóa lý, các mẫu

lấy từ ba lỗ khoan trong vùng nghiên cứu. Ranh giới địa tầng Miocen muộn/Pliocen trong mặt cắt

được xác định bằng sự xuất hiện các trùng lỗ trôi nổi Neogloboquadrina acostaensis;

Globigerinoides ruber, G. bulloides, G. conglobatus. Môi trường trầm tích là bãi triều ven biển vào

Miocen muộn phần sớm; bãi triều và đầm lầy ven biển vào Miocen muộn phần giữa; và bãi triều

đầm lầy ven biển xen kẽ biển nông ven bờ vào Miocen muộn phần muộn. Cổ khí hậu thời kì Miocen

muộn vùng nghiên cứu có chế độ á nhiệt đới nóng ở Miocen muộn phần sớm chuyển sang chế độ

nhiệt đới xen kẽ với các đợt lạnh mát hơn ở Miocen muộn phần giữa và kết thúc ở Miocen muộn

phần muộn với chế độ á nhiệt đới lạnh hơn.

pdf 16 trang thom 08/01/2024 1400
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng

Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 
114 
Original Article 
Biostratigraphical characteristics of Late Miocene coaly 
sediments in the Southeastern Red River Delta 
Dinh Van Thuan, Ngo Thi Dao, Mai Thanh Tan , Le Duc Luong, 
Trinh Thi Thanh Ha, Nguyen Van Tao 
Institute of Geological Sciences, Vietnam Academy of Science and Technology, 
84 Chua Lang, Lang Thuong, Dong Da, Hanoi, Vietnam 
Received 20 May 2019 
Revised 18 June 2019; Accepted 20 June 2019 
Abstract: Late Miocene biostratigraphy of coaly sediments in the Southeastern Red River Delta are 
basically interpreted from the analyses of foraminifera, palynology with referencing analyses of 
petrographic thin section, grain-size and physicochemistry, from the samples of 3 boreholes. Late 
Miocene/Pliocene stratigraphical boundary is marked by the appearances of planktonic foraminifera 
as Neogloboquadrina acostaensis; Globigerinoides ruber, G. bulloides, G. conglobatus. 
Sedimentary environments were: tidal flats in the Earlier of Late Miocene; tidal flats and coastal 
marshes in the Middle of Late Miocene; tidal flats and coastal marshes intercalated with neritic 
shallow sea in the Later of Late Miocene. The Late Miocene paleoclimate in the study area was 
characterized by hot subtropical regime in the earlier, changed into tropical intercalated with cooler 
period in the middle and ended with colder subtropical regime in the later. 
Keywords: Biostratigraphy, coaly sediments, Late Miocene, foraminifera, palynology, paleoclimate. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: maithanhtan@igsvn.vast.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4394 
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 
 115 
Đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn 
vùng Đông Nam Châu thổ Sông Hồng 
Đinh Văn Thuận, Ngô Thị Đào, Mai Thành Tân , Lê Đức Lương, 
Trịnh Thị Thanh Hà, Nguyễn Văn Tạo 
Viện Địa Chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
84 Chùa Láng, Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 20 tháng 5 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 18 tháng 6 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 6 năm 2019 
Tóm tắt: Luận giải đặc điểm sinh địa tầng trầm tích chứa than Miocen muộn vùng đông nam châu 
thổ Sông Hồng được thực hiện dựa trên cơ sở phân tích hóa thạch trùng lỗ và hóa thạch bào tử phấn 
hoa, với sự tham khảo các kết quả phân tích thạch học lát mỏng, thành phần độ hạt, hóa lý, các mẫu 
lấy từ ba lỗ khoan trong vùng nghiên cứu. Ranh giới địa tầng Miocen muộn/Pliocen trong mặt cắt 
được xác định bằng sự xuất hiện các trùng lỗ trôi nổi Neogloboquadrina acostaensis; 
Globigerinoides ruber, G. bulloides, G. conglobatus. Môi trường trầm tích là bãi triều ven biển vào 
Miocen muộn phần sớm; bãi triều và đầm lầy ven biển vào Miocen muộn phần giữa; và bãi triều 
đầm lầy ven biển xen kẽ biển nông ven bờ vào Miocen muộn phần muộn. Cổ khí hậu thời kì Miocen 
muộn vùng nghiên cứu có chế độ á nhiệt đới nóng ở Miocen muộn phần sớm chuyển sang chế độ 
nhiệt đới xen kẽ với các đợt lạnh mát hơn ở Miocen muộn phần giữa và kết thúc ở Miocen muộn 
phần muộn với chế độ á nhiệt đới lạnh hơn. 
Từ khóa: Sinh địa tầng, trầm tích chứa than, Miocen muộn, trùng lỗ; bào tử, phấn hoa, cổ khí hậu. 
1. Mở đầu 
Trầm tích Kainozoi, đặc biệt là Neogen ở 
khu vực đồng bằng Sông Hồng chứa nhiều 
khoáng sản quan trọng và cần thiết để phát triển 
kinh tế. Trong số đó đáng kể nhất là than nâu (Vũ 
Xuân Doanh, 1986; Vũ Nhật Thắng, 1995) [1, 2]. 
Kết quả nghiên cứu của tập đoàn Công nghiệp 
Than – Khoáng sản Việt Nam tại vùng châu thổ 
________ 
 Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: maithanhtan@igsvn.vast.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4394 
Sông Hồng đã phần nào xác định được đặc điểm 
trầm tích, môi trường thành tạo than, trữ lượng 
và chất lượng than, điều kiện địa chất, địa chất 
thủy văn, địa chất công trình và khả năng khai 
thác than với trình độ và công nghệ khai thác 
hiện tại trên thế giới [3]. Tuy nhiên, vấn đề 
nghiên cứu địa chất trong đó có địa tầng, vấn đề 
quan trọng đầu tiên quyết định tới các hướng 
nghiên cứu tiếp theo, ở đây đã được đề cập song 
D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 
116 
chưa được quan tâm thích đáng, làm hạn chế ý 
nghĩa của kết quả nghiên cứu thăm dò trong việc 
đánh giá tìm kiếm cho toàn vùng. 
Các nhóm cổ sinh (trùng lỗ, bào tử phấn hoa) 
tuy rất nhỏ nhưng lại dễ được bảo tồn trong trầm 
tích và mỗi nhóm cổ sinh lại mang những nét đặc 
trưng cho điều kiện môi trường khi chúng sinh 
trưởng và phát triển ở đó, mặt khác sự tiến hóa 
của các dạng cổ sinh theo thời gian cũng được 
ghi nhận bằng các giống, loài đặc trưng (Trương 
Cam Bảo, 1980; Nguyễn Ngọc và nnk, 2006) [4, 5]. 
Vì vậy, phương pháp nghiên cứu cổ sinh là một 
trong các phương pháp tin cậy được sử dụng để 
xác định được tuổi địa chất, điều kiện cổ địa lý 
của các tầng trầm tích chứa chúng, và dựa vào đó 
tiến hành phân chia, liên hệ địa tầng tại khu vực 
nghiên cứu (Zubkovits, 1978) [6]. 
2. Khái quát về địa tầng Neogen vùng châu 
thổ Sông Hồng 
Hệ tầng Phong Châu tuổi Miocen sớm (N11 phc) 
đặc trưng bởi sự xen kẽ liên tục giữa những lớp 
cát kết hạt vừa, hạt nhỏ xám trắng, xám lục nhạt 
gắn kết rắn chắc với những lớp cát bột kết phân 
lớp rất mỏng cỡ mm đến cm tạo thành các dạng 
mắt, thấu kính, gợn sóng và được gọi là đá “dạng 
sọc” (Vũ Nhật Thắng, 1995; Đỗ Bạt, 2001; Đỗ 
Bạt và nnk, 2007) [2, 7, 8]. Cát kết có xi măng 
gắn kết chủ yếu là carbonat với hàm lượng cao 
(25%). Khoáng vật phụ gồm nhiều glauconit và 
pyrit. Bề dày hệ tầng tại mặt cắt chuẩn đạt 
1180m. 
Hệ tầng Phủ Cừ tuổi Miocen giữa (N12 pc) 
bao gồm trầm tích có tính chu kỳ rõ rệt với các 
lớp cát kết hạt vừa, bột kết phân lớp mỏng (dạng 
sóng, thấu kính, phân lớp xiên), bột kết, sét kết 
cấu tạo khối chứa nhiều hóa thạch thực vật, dấu 
vết động vật ăn bùn, trùng lỗ. Cát kết có thành 
phần ít khoáng, độ lựa chọn và mài tròn tốt, 
khoáng vật phụ ngoài tourmalin, zircon, đôi nơi 
còn bắt gặp glauconit và granat là những khoáng 
vật không thấy có trong hệ tầng Phong Châu (Đỗ 
Bạt, 2001; Đỗ Bạt và nnk, 2007) [7, 8]. Ngoài 
mặt cắt chuẩn, xem xét thêm nhiều mặt cắt khác, 
hệ tầng Phủ Cừ có thể chia thành ba phần, mỗi 
phần là một nhịp trầm tích bao gồm cát kết, bột 
kết, sét kết có chứa than và hóa thạch thực vật. 
Chiều dày của hệ tầng Phủ Cừ thay đổi từ 1500 
đến 2000m (Vũ Nhật Thắng, 1995) [2]. 
Hệ tầng Tiên Hưng tuổi Miocen muộn (N13 
th) bao gồm các trầm tích có tính phân nhịp rõ 
ràng, phần thô thường dày hơn phần mịn, các 
nhịp bắt đầu bằng sạn kết, cát kết chuyển lên bột 
kết, sét kết, sét than và nhiều vỉa than nâu. Cát 
kết thường gắn kết yếu hoặc chưa gắn kết, nhiều 
granat, các hạt có độ lựa chọn và mài tròn kém. 
Trong phần dưới của hệ tầng, các lớp thường bị 
nén chặt hơn và bắt gặp cát kết xám trắng chứa 
kết hạch siderit, xi măng carbonat. Bề dày của hệ 
tầng tại mặt cắt chuẩn đạt 760m (Vũ Nhật Thắng, 
1995; Đỗ Bạt, 2001; Đỗ Bạt và nnk, 2007) [2, 7, 8]. 
Hệ tầng Vĩnh Bảo tuổi Pliocen (N2 vb) tại 
mặt cắt chuẩn gồm hai phần. Phần dưới chủ yếu 
là cát hạt mịn màu xám, vàng chanh, phân lớp 
dày, có độ lựa chọn tốt, đôi nơi có những thấu 
kính hay lớp kẹp cuội, sạn hạt nhỏ xen kẽ. Phần 
trên có hàm lượng bột tăng dần. Bề dày chung 
của hệ tầng tại mặt cắt chuẩn khoảng 270m. 
Trong đá gặp nhiều hóa thạch động vật biển như 
thân mềm, san hô, trùng lỗ (Vũ Nhật Thắng, 
1995; Đỗ Bạt, 2001; Đỗ Bạt và nnk, 2007) [2, 7, 8]. 
Trong khuôn khổ bài báo này, nhóm tác giả 
tập trung vào nghiên cứu đặc điểm sinh địa tầng 
các thành tạo trầm tích Miocen muộn thuộc hệ 
tầng Tiên Hưng. 
3. Tài liệu và phương pháp nghiên cứu 
Kết quả phân tích cổ sinh của 48 mẫu trùng 
lỗ và 55 mẫu bào tử phấn hoa được lấy từ ba lỗ 
khoan vùng Thái Bình, LK 51SH (độ sâu 265 - 
1100m), LK 97SH (độ sâu 290 – 1050m) và LK 
102SH (335,2 – 1090m) (Hình 1). Cơ sở tài liệu 
xây dựng môi trường trầm tích thời kỳ Miocen 
muộn vùng nghiên cứu. 
a) Trùng lỗ (Foraminifera) 
Đặc điểm hóa thạch trùng lỗ có vai trò rất 
quan trọng để khôi phục lại các điều kiện của môi 
trường lắng đọng trầm tích (Nguyễn Ngọc và 
nnk, 2006) [5]. Trùng lỗ là động vật sống trong 
môi trường biển có độ muối khác nhau từ lợ đến 
mặn (Dương Xuân Hảo và nnk, 1980; Mai Văn 
D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 
117 
Hình 1. Vị trí các lỗ khoan nghiên cứu. 
Lạc và nnk, 2009; Nguyễn Ngọc và Nguyễn 
Xuân Phong, 2016) [9-11]. Vỏ của chúng thường 
được bảo tồn tốt trong các lớp đá cho phép khai 
thác các thông tin về môi trường của quá khứ địa 
chất (Cushman, 1928 và 1933; Debenay, 2012) 
[12-14]. 
b) Bào tử phấn hoa 
Cũng như trùng lỗ, đặc điểm các phức hệ bào 
tử phấn hoa có vai trò quan trọng để khôi phục 
môi trường trầm tích (Trần Đình Nhân, 1962) 
[15]. Ứng với mỗi môi trường khác nhau là một 
phức hệ bào tử phấn hoa đặc trưng cho môi 
trường đó (Erdtman, 1943, 1952) [16, 17]. Có rất 
nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sinh thái của thực vật, 
bao gồm khí hậu (nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng), địa 
hình, đất hay thổ nhưỡng,Sự tồn tại và phát 
triển của thực vật gắn liền với các yếu tố đó. Nói 
cách khác, dựa vào sự phân bố của các chi loài 
thực vật có thể xác định được đặc điểm cổ địa lý 
(môi trường trầm tích, chế độ khí hậu,) của các 
thời kỳ khác nhau trong một vùng cụ thể (Phạm 
Quang Trung, 1998; Đinh Văn Thuận, 2005) 
[18, 19]. 
Cổ khí hậu được xác định dựa trên cơ sở tiếp 
cận đồng tồn tại (Coexistence Approach – CA) 
do Mosbrugger và Utescher (1997) đưa ra [20]. 
Theo cách tiếp cận này, các điều kiện khí hậu đối 
với các chi loài thực vật cổ tương tự như những 
họ hàng đang sống gần nhất (Nearest Living 
Relatives – NLR). Mức độ phân giải, độ tin cậy 
tăng theo số lượng chi loài được phân tích. 
Thông thường có độ tin cậy tương đối cao khi có 
trên 10 chi loài được đánh giá về khí hậu, đánh 
giá này được dựa trên sự có mặt hay vắng mặt 
của chi loài thay vì độ giàu nghèo của chúng. 
Mục tiêu của phương pháp CA là xác lập các 
khoảng giá trị của các tham số khí hậu đối với 
các thực vật cổ với số lượng tối đa các NLR của 
hệ thực vật này có thể cùng tồn tại; các khoảng 
cùng tồn tại được coi là cổ khí hậu phù hợp mà 
thực vật cổ sinh sống. Các tham số cổ khí hậu 
thường được xem xét là: Nhiệt độ trung bình năm 
(MAT – mean annual temperature); Nhiệt độ 
trungbình tháng lạnh nhất (CMT – mean 
temperature of the coldest month); Nhiệt độ 
trung bình tháng nóng nhất (WMT – mean 
temperature of the warmest month); Lượng mưa 
trung bình năm (MAP – mean annual 
precipitation); Lượng mưa tháng nhiều nhất 
(HMP – precipitation of the wettest month); 
Lượng mưa tháng ít nhất (LMP – precipitation of 
the direst month). Trong bài viết này chủ yếu 
đánh giá theo các thông số nhiệt độ trung bình 
năm (MAT) và lượng mưa trung bình năm 
(MAP). 
Chỉ thị sinh thái của một số loài dựa theo họ 
hàng đang sống gần nhất. Các chi loài được phân 
chia thành các nhóm sinh thái khác nhau dựa 
theo họ hàng đang sống gần nhất (Suc, 1984; 
Tomlinson, 1986; Ellison, 2000; Gozalo và nnk, 
2005) [21-24]. 
Yếu tố đại nhiệt (Megathermic elements) 
hay nhiệt đới có nhiệt độ trung bình của tất cả 
các tháng đều vượt 18°C. Các chi loài thuộc yếu 
tố này có: Magnoliapollenites sp., Gleichenia 
sp., Cyperus sp., Florschuetzia sp.; F.levipoli, F. 
meridionalis, Zonocostites sp. 
Yếu tố đại – trung nhiệt (Mega-mesothermic 
element) hay á nhiệt đới có nhiệt độ trung bình 
tháng lạnh nhất trong khoảng 6 - 18°C. Các chi loài 
thuộc yếu tố này có: Cyathea sp., Myricapollenites 
sp.; Castanopsispollenites sp., Engelhardtia sp., 
Platycaryapollenites sp., Cyperus sp. 
D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 
118 
Hình 2. Điều kiện khí hậu một số NLR của các 
chi loài. 
- Yếu tố trung nhiệt (mesothermic element) 
hay ôn đới nóng có nhiệt độ trung bình tháng 
lạnh nhất trong khoảng từ -3°C đến 6°C. Các chi 
loài thuộc yếu tố này có: Caryapollenites sp., 
Myricapollenites sp., Engelhardtia sp., 
Platycaryapollenites sp., Pterocaryapollenites 
sp., Quercoidites microhenrici, Quercoidites sp., 
Cyperus sp., Pinuspollenites sp. 
Điều kiện khí hậu của một số NLR của các 
chi loài cổ: Nhiệt độ trung bình năm (°C) (MAT) 
và Lượng mưa trung bình năm (mm) (MAP) của 
một số NLR của các chi loài trong trầm tích 
Miocen được xác định theo Quan và nnk (2013) 
[25] (Hình 2) 
4. Kết quả và thảo luận 
 4.1. Lỗ khoan 51SH 
Có tất cả 15 mẫu trùng lỗ, 17 mẫu bào tử 
phấn hoa được lấy từ độ sâu 265 – 1050m của lỗ 
khoan 51SH để gia công và phân tích. Thành 
phần thạch học chủ yếu là cát kết, bột kết, sét kết, 
sét bột xen kẹp các lớp than, sét than. Dựa vào 
kết quả phân tích mẫu, mà cụ thể là thành phần 
giống loài , kiểu sống, đặc điểm vỏ của hóa thạch 
VCS, thành phần chi loài, tỷ lệ phần trăm ba 
nhóm chính gồm bào tử dương xỉ, phấn hoa hạt 
trần, phấn hoa hạt kín, mức độ giầu nghèo, thành 
phần thành phần thực vật ngập mặn, thực vật 
đầm lầy của nhóm hóa thạch bào tử phấn hoa, 
toàn bộ mặt cắt được chia thành 3 phức hệ cổ 
sinh theo thứ tự từ cổ đến trẻ như sau (Bảng 1): 
- Phức hệ 1, Acrostichum – Pinuspollenites, 
được xây dựng từ độ sâu 1050 – 1100m với 1 
mẫu được phân tích trùng lỗ ở độ sâu 1085m và 
1 mẫu được phân tích bào tử phấn cũng ở độ sâu 
1085m. Theo kết quả phân tích, phức hệ này 
không có hóa thạch trùng lỗ mà chỉ có hóa thạch 
bào tử phấn hoa. Bào tử Dương xỉ chiếm tỷ lệ 
tương đối cao 37% với các dạng thường gặp như 
Polypodium sp., Acrostichum sp., phấn hoa hạt 
trần chiếm 25% với dạng thường gặp là 
Pinuspollenites sp., phấn hoa hạt kín chiếm 38% 
với các dạng thường gặp như Caryapollenites 
sp., Florchuetzia levipoli. Trong phức hệ này 
thực vật ngập mặn chiếm tỷ lệ tương đối cao 
khoảng 30% với dạng thường gặp là 
Florschuetzia levipoli, Acrostichum sp. Phức hệ 
này được xếp vào tuổi Miocen muộn, trên cơ sở 
quan hệ địa tầng với các phức hệ nằm trên, môi 
trường trầm tích được xác định là bãi triều ven biển. 
- Phức hệ 2, Stenochleana- Triporopollenites, 
được xây dựng từ độ sâu 700 – 1050m với 4 mẫu 
được phân tích hóa thạch trùng lỗ, 8 mẫu được 
phân tích bào tử phấn hoa. Theo kết quả phân 
tích phức hệ này không có trùng lỗ mà chỉ có hóa 
thạch bào tử phấn hoa trong 7/8 mẫu. Bào tử 
Dương xỉ chiếm từ 25 – 36%, với các dạng đặc 
trưng như Polypodiaceaea gen. indet., 
Magnastriatites howardi, Crassoretisporites sp., 
Stenochleana sp., Acrostichum sp., Polypodites 
sp, Phấn hoa hạt trần chiếm tỷ lệ thấp hơn từ 
15 – 20% với dạng thường gặp chủ yếu là 
Pinuspollenites sp., Cycas sp.. Phấn hoa hạt kín 
chiếm từ 45 – 55% với các dạng đặc trưng 
thường gặp như Quercoidites sp., 
Triporopollenites sp., Zonocostites sp., 
Tricolpoporopollenites sp.,Trong phức hệ 
này, thực vật ngập mặn gặp tương đối nhiều, 
thành phần chi loài cũng đa dạng và phong phú 
hơn so với phức hệ trước. Trong các phổ phấn 
chúng chiếm tỷ lệ 25 – 3 ... ùng nghiên cứu, môi trường trầm tích chủ đạo 
là biển nông ven bờ. Vào sâu trong lục địa, nơi 
chịu tác động của biển thông qua các đợt triều, 
môi trường trầm tích chủ đạo là bãi triều ven 
biển. Khi biển rút đi để lại các vùng bãi triều, 
đầm lầy rộng lớn thích nghi cho sự phát triển của 
thực vật tạo than. Chính trong giai đoạn này đã 
tạo nên các vỉa than xen kẹp vào các lớp đá trầm 
tích. Từ các đặc điểm mô tả ở trên có thể nhận 
định vào thời kỳ Miocen muộn phần muộn, vùng 
nghiên cứu là vùng tích tụ có môi trường trầm 
tích bãi triều, đầm lầy ven biển xen kẽ biển nông 
ven bờ. 
Cần có cái nhìn tổng thể về cổ địa lý trong 
thời kỳ Miocen vùng nghiên cứu với sự tiến hóa 
cổ địa lý hay môi trường trầm tích theo thời gian 
với bối cảnh tranh chấp giữa lục địa và biển. Các 
thành tạo trầm tích trong thời kỳ này bị chi phối 
trực tiếp bởi các hoạt động biển tiến, biển thoái 
trong khu vực. 
4.5. Cổ khí hậu 
Lỗ khoan LK51SH 
Phân tích cho thấy ở lỗ khoan này có 3 bất 
thường về thành phần tỷ lệ các yếu tố sinh thái 
(Hình 3): 
- 2 bất thường ở các độ sâu 432m và 730m 
liên quan đến sự nổi trội về yếu tố mesothermic 
(71%) và vắng mặt yếu tố megathermic. Ở 
những thời điểm này khí hậu lạnh nhất (ôn đới) 
trong toàn bộ đoạn lỗ khoan nghiên cứu. 
- 1 bất thường tại độ sâu 877,2m với sự nổi 
trội tương đối của yếu tố megathermic (67%) so 
với Mesothermic (33%), không có mặt yếu tố 
Megamesothermic. 
Như vậy, khí hậu trong khoảng độ sâu từ 
1085m đến 360m ở lỗ khoan LK51SH có lẽ lúc 
đầu là khí hậu á nhiệt đới sau đó nóng dần và 
chuyển sang nhiệt đới ở độ sâu 877m. Từ đây khí 
hậu lại lạnh dần chuyển sang á nhiệt đới rồi ôn 
đới ở độ sâu 730m, thể hiện bằng yếu tố 
mesothermic tăng trong khi yếu tố megathermic 
và megamesothermic giảm, thậm chí đến không 
cò yếu tố megathermic. Bắt đầu từ độ sâu 730m, 
khí hậu lại có xu thế ấm dần, đến độ sâu 613,5m 
lại đảo chiều chuyển sang lạnh dần và lạnh nhất 
thuộc khí hậu ôn đới ở độ sâu 432m. Từ đây đến 
hết đoạn khoan thể hiện xu thế khí hậu nóng dần. 
Đánh giá theo tiếp cận đồng tồn tại cho phép 
xác định điều kiện nhiệt độ trung bình năm 
(MAT) và lượng mưa trung bình năm (MAP) 
trong các phức hệ cổ sinh trong lỗ khoan 
KL51SH như sau (Hình 4): 
- Phức hệ 1, Acrostichum – Pinuspollenites, 
độ sâu 1050-1100m, có MAT trong khoảng 4,4 
– 22,2 °C và MAP trong khoảng 373-1724 mm. 
D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 
126 
- Phức hệ 2, Stenochleana- Triporopollenites, 
độ sâu 700 – 1050m, có MAT trong khoảng 
13,5-21,1°C và MAP trong khoảng 1183-1335 mm. 
- Phức hệ 3, Ammonia – Stenochleana – 
Quercoidites, độ sâu 265 – 700m, có MAT trong 
khoảng 15,6 – 22,2 °C và MAP trong khoảng 
1035 – 1724 mm. 
Hình 3. Tỷ lệ các yếu tố sinh thái trong lỗ khoan 
LK51SH. 
Hình 4. Các yếu tố nhiệt độ và lượng mưa trong 
Miocen muộn LK51SH. 
Lỗ khoan LK97SH 
Tỷ lệ các yếu tố sinh thái biến động theo 
chiều sâu ở lỗ khoan LK97SH có phức tạp hơn 
so với lỗ khoan LK51SH (Hình 5). 
- Mẫu lấy ở độ sâu sâu nhất (1050m) là mẫu 
duy nhất có tỷ lệ megathermic vượt trội hẳn 
(67%) so với megamesothermic (0%) và 
mesothermic (33%). Khí hậu ở đây có thể là 
nhiệt đới hoặc á nhiệt đới. Tuy nhiên số lượng 
bào tử phấn ở đây không nhiều nên độ tin cậy 
không cao. 
- Ở các độ sâu 1020m, 885m và 788m đều 
không phát hiện thực vật megathermic, tỷ lệ 
mesothermic thường vượt trội hoặc bằng tỷ lệ 
megamesothermic. Khí hậu thuộc loại ôn đới 
hoặc á nhiệt đới lạnh. Tuy nhiên số lượng bào tử 
phấn ở đây không nhiều nên độ tin cậy còn hạn 
chế. Riêng mẫu ở độ sâu 885m với 19 cá thế 
được xác định thì có 6 cá thể có đặc trưng sinh 
thái có thể dùng đánh giá khí hậu khi kết hợp với 
các kết quả phân tích khác. 
- Ở độ sâu 968m yếu tố megathermic (64%) 
chiếm ưu thế hơn hẳn so với megamesothermic 
(18%) và mesothermic (18%) thể hiện khí hậu 
nhiệt đới, á nhiệt đới nóng. 
- Ở các độ sâu 697m, 590m và 460m, tỷ lệ 
thực vật mesothermic cao nhất (56-60%), tỷ lệ 
megamesothermic và megathermic thấp hơn nhiều. 
Khí hậu ở đây có thể là ôn đới, á nhiệt đới lạnh. 
- Đan xen với các độ sâu nêu trên, ở khoảng độ 
sâu 761m, 654m, tỷ lệ thực vật megamesothermic 
cao, tỷ lệ megathermic thường nhỉnh hơn tỷ lệ 
mesothermic chút ít. Khí hậu ở đây có tính chất 
nóng hơn so với các khoảng liền kề trên và dưới 
nó. Khí hậu có lẽ thuộc loại á nhiệt đới nóng. 
Như vậy, khí hậu trong khoảng độ sâu từ 
1050m đến 360m ở lỗ khoan LK97SH có lẽ lúc 
đầu là khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới nóng, dao 
động chuyển sang á nhiệt đới lạnh, ôn đới ở độ 
sâu 885m. Sau đó khí hậu mang tính chất á nhiệt 
đới với những pha nóng hơn (á nhiệt đới nóng) 
ở khoảng độ sâu 761m, 654m, xen lẽ với những 
pha lạnh hơn (á nhiệt đới lạnh hoặc ôn đới) ở các 
độ sâu 697m, 590m và 460m. 
Đánh giá theo tiếp cận đồng tồn tại cho phép 
xác định điều kiện nhiệt độ trung bình năm 
(MAT) và lượng mưa trung bình năm (MAP) 
trong các phức hệ cổ sinh trong lỗ khoan 
KL97SH như sau (Hình 6): 
D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 
127 
- Phức hệ 1, Stenochleana- Triporopollenites, 
độ sâu 895 - 1050m, có MAT trong khoảng 15,2 
-22,2 °C và MAP trong khoảng 1183-1741 mm. 
- Phức hệ 2, Ammonia-Stenochleana- 
Quercoidites, độ sâu 365-895m, MAT trong khoảng 
15,6-22,2°C và MAP trong khoảng 1183-1724 mm. 
Hình 5. Tỷ lệ các yếu tố sinh thái trong lỗ khoan 
LK97SH. 
Hình 6. Các yếu tố nhiệt độ và lượng mưa trong 
Miocen muộn LK97SH. 
Lỗ khoan LK102SH 
Ở lỗ khoan LK102SH thực vật 
megamesothermic trong đoạn từ 548m đến 
1090m thường chiếm tỷ lệ cao nhất ngoại trừ 
mẫu ở độ sâu 1020m (Hình). Khái quát về thành 
phần các yếu tố sinh thái ở đây như sau: 
Ở độ sâu 1020m, mẫu rất nghèo bào tử phấn, 
chỉ có 5 bào tử phấn được xác định với 1 phấn 
duy nhất (Caryapollenites sp.) thuộc loại thực 
vật mesothermic. Do vậy mẫu này thiếu độ tin 
cậy 
Ở độ sâu 950m không có yếu tố 
mesothermic, chỉ có megamesothermic (67%) và 
megathermic (33%). Như vậy có lẽ khí hậu ở đây 
thuộc loại khí hậu á nhiệt đới nóng. 
Ở độ sâu 760m, tương tự như trên, tỷ lệ 
megamesothermic (50%) cao hơn so với 
megathermic (25%) và mesothermic (25%) nên 
khí hậu thuộc loại á nhiệt đới nóng. 
Ở các độ sâu 800m và 615m, các yếu tố 
megamesothermic (45-50%) cao hơn so với 
mesothermic (25-32%) cao hơn so với 
megathermic (23-25%), khí hậu á nhiệt đới mang 
tính chất lạnh. 
Ở các độ sâu 1090m, 725m, 590 và 485m, 
thường có tỷ lệ megathermic và mesothermic 
xấp xỉ nhau, thể hiện tính chất á nhiệt đới thuần. 
Như vậy khí hậu trong khoảng độ sâu từ 
1090m đến 548m ở lỗ khoan LK102SH có tính 
chất á nhiệt đới với những thời kỳ nóng hơn 
tương đối ở độ sâu 950m, 760m và lạnh hơn 
tương đối ở độ sâu 800m, 615m. 
Đánh giá theo tiếp cận đồng tồn tại cho phép 
xác định điều kiện nhiệt độ trung bình năm 
(MAT) và lượng mưa trung bình năm (MAP) 
trong các phức hệ cổ sinh trong lỗ khoan 
KL102SH như sau (Hình 8): 
- Phức hệ 1, Stenochleana Triporopollenites, 
độ sâu 821,9m-1090m, có MAT trong khoảng 
9.3-22,2 °C và MAP trong khoảng 578-1724 mm 
- Phức hệ 2, Ammonia – Stenochleana – 
Quercoidites, độ sâu 370m – 821,9m, có MAT 
trong khoảng 16,5 – 22,2 °C và MAP trong 
khoảng 1183 – 1724 mm. 
D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 
128 
Hình 7. Tỷ lệ các yếu tố sinh thái trong lỗ khoan 
LK102SH. 
Hình 8. Các yếu tố nhiệt độ và lượng mưa trong 
Miocen muộn LK102SH. 
Từ các phân tích trên có thể nhìn tổng quan 
khí hậu thời kì Miocen muộn vùng nghiên cứu 
có chế độ á nhiệt đới nóng ở Miocen muộn phần 
sớm chuyển sang chế độ nhiệt đới xen kẽ với các 
đợt lạnh mát hơn ở Miocen muộn phần giữa và 
kết thúc ở Miocen muộn phần muộn với chế độ 
á nhiệt đới lạnh hơn. Do số lượng mẫu hạn chế, 
số lượng chi loài thực vật ít nên kết quả đánh giá 
định lượng về cổ nhiệt độ và lượng mưa ở đây 
còn hạn chế. Tuy nhiên có thể thấy, lượng mưa 
có xu thế giảm dần từ >2000mm/năm ở Miocen 
muộn phần sớm - giữa đến <2000mm/năm ở 
Miocen muộn phần muộn. 
5. Kết luận 
Địa tầng trầm tích chứa than vùng Thái Bình 
có tuổi Miocen muộn được xây dựng trên cơ sở 
phân tích cổ sinh của các nhóm hóa thạch bào tử 
phấn hoa và trùng lỗ. 
Sự xuất hiện một số giống loài Trùng lỗ 
nhóm trôi nổi (plankton) như Neogloboquadrina 
acostaensis; Globigerinoides ruber, G. 
bulloides, G. conglobatus, là cơ sở để xác định 
tuổi và ranh giới địa tầng Miocen muộn với 
Pliocen trong các mặt cắt. 
Tập hợp hóa thạch trùng lỗ nhóm bám đáy 
(benthos) và thành phần hệ sinh thái thực vật 
ngập mặn và đầm lầy cho phép xác định môi 
trường trầm tích trong Miocen muộn như sau: 
Thời kỳ Miocen muộn phần sớm, môi trường 
trầm tích là bãi triều ven biển. 
Thời kỳ Miocen muộn phần giữa, môi trường 
trầm tích là bãi triều đầm lầy ven biển. 
Thời kỳ Miocen muộn phần muộn, môi 
trường trầm tích là bãi triều đầm lầy ven biển xen 
kẽ biển nông ven bờ. 
Cổ khí hậu thời kì Miocen muộn vùng 
nghiên cứu có chế độ á nhiệt đới nóng ở Miocen 
muộn phần sớm chuyển sang chế độ nhiệt đới 
xen kẽ với các đợt lạnh mát hơn ở Miocen muộn 
phần giữa và kết thúc ở Miocen muộn phần 
muộn với chế độ á nhiệt đới lạnh hơn. Lượng 
mưa có xu thế giảm dần từ >2000mm/năm ở 
Miocen muộn phần sớm giữa đến < 2000mm/năm 
ở Miocen muộn phần muộn. 
Lời cảm ơn 
Bài báo được hoàn thành trong khuôn khổ đề 
tài cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ 
Việt Nam mã số VAST05.04/17-18. Các mẫu 
phân tích được lấy từ các lỗ khoan do Liên đoàn 
Địa chất Quốc tế thực hiện với sự đồng ý của cơ 
quan chủ quản là Tổng cục Địa chất và Khoáng 
sản Việt Nam. 
D.V. Thuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 114-129 
129 
Tài liệu tham khảo 
[1] Vũ Xuân Doanh, Báo cáo Tổng kết địa chất và độ 
chứa than miền võng Hà Nội, Lưu trữ Trung tâm 
Thông tin Lưu trữ Địa chất, Hà Nội, 1986. 
[2] Vũ Nhật Thắng (chủ biên), Báo cáo đo vẽ bản đồ 
địa chất và tìm kiếm khoáng sản tỷ lệ 1/50.000 
nhóm tờ Nam Định – Thái Bình, Lưu trữ Trung 
tâm Thông tin Lưu trữ Địa chất, Hà Nội, 1995. 
[3] Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt 
Nam, Tóm tắt báo cáo kết quả thi công đề án Thăm 
dò than khu Nam Thịnh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái 
Bình, Lưu Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng 
sản Việt Nam, Hà Nội, 2016. 
[4] Trương Cam Bảo, Cổ sinh vật học, NXB Đại học 
và Trung học chuyện nghiệp, Hà Nội, 1980. 
[5] Nguyễn Ngọc, Nguyễn Hữu Cử, Đỗ Bạt, Hóa 
thạch Trùng lỗ (foraminifera) Kainozoi thềm lục 
địa và các vùng lân cận ở Việt Nam, NXB Viện 
Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội, 2006. 
[6] M. E. Zubkovits, Phương pháp nghiên cứu cổ sinh 
địa tầng – cơ sở sinh địa tầng, NXB Khoa họa và 
Kỹ thuật, Hà Nội, 1978. (người dịch: Trịnh Dánh, 
Nguyễn Ngọc, Nguyễn Văn Trinh). 
[7] Đỗ Bạt (chủ biên), Định danh và liên kết địa tầng 
trầm tích Đệ Tam thềm lục địa Việt Nam, Báo cáo 
tổng kết nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cấp ngành, 
Lưu Viện Dầu khí Việt Nam, Hà Nội, 2001. 
[8] Đỗ Bạt, Nguyễn Địch Dỹ, Phan Huy Quynh, Phạm 
Hồng Quế, Nguyễn Quý Hùng, Đỗ Việt Hiếu, Địa 
tầng các bể trầm tích Kainozoi Việt Nam, Địa chất 
và tài nguyên dầu khí Việt Nam, NXB Khoa học 
Kỹ thuật, Hà Nội, 2007. 
[9] Dương Xuân Hảo (Chủ biên), Hóa thạch đặc trưng 
ở miền Bắc Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ 
thuật, Hà Nội, 1980. 
[10] Mai Văn Lạc, Vũ Anh Thư, Đỗ Thị Bích Thược, 
Phân dị sinh thái và phân dị tiến hóa của 
Foraminifera Vịnh Bắc Bộ, Tạp chí các Khoa học 
về Trái đất 31 (2) (2009) 139-147. 
[11] Nguyễn Ngọc, Nguyễn Xuân Phong, Một số nét 
về hóa thạch Trùng lỗ kích thước lớn và ý nghĩa 
của việc nghiên cứu đối tượng này. Tạp chí Thăm 
dò – Khai thác Dầu khí 5 (2016) 22-28. 
[12] J.A. Cushman, Foraminifera and their 
classification and economic use, Contribution 
from the Cushman Laboratory for Foraminiferal 
Research 4 (1928) 1-401. 
[13] J.A. Cushman, The Foraminifera of the tropical 
Pacific collections of the “Albatross”, 1899-1900. 
Pt.2-Lagenidae to Alveolinellidae. Bull. U.S. Nat. 
Mus., Washington, 161 (1933) 1-79. 
[14] J.P. Debenay, A Guide to 1,000 Foraminifera from 
Southwestern Pacific New Caledonia. IRD 
Editions. Institut de recherche pourle 
développement. Paris: Marseille, Publications 
Scientifiques du Muséum, Muséum national 
d’Histoire naturelle, 2012, pp. 1–378. 
[15] Trần Đình Nhân, Áp dụng phương pháp phân tích 
bào tử phấn hoa vào việc nghiên cứu địa chất ở 
nước ta”, Nội san Địa chất 5 (1962) 22-23. 
[16] G. Erdtman, An Introduction to Pollen Analysis. 
Waltham, Mass. 1943, pp. 1-239. 
[17] G. Erdtman, Pollen Morphology and Plant 
Taxonomy, Angiosperms (An Introduction to 
Palynology. 1), Stockholm, 1952, pp. 1-539. 
[18] Phạm Quang Trung (chủ biên), Các phức hệ bào 
tử phấn hoa trong trầm tích Paleogen bắc bể Sông 
Hồng và vùng ven rìa, mối quan hệ của chúng với 
môi trường trầm tích. Báo cáo nhiệm vụ cấp ngành 
dầu khí, Viện Dầu khí Việt Nam, 1998. 
[19] Đinh Văn Thuận, Các phức hệ bào tử phấn hoa 
trong trầm tích Đệ tứ đồng bằng Nam bộ, ý nghĩa 
địa tầng và cổ địa lý của chúng, Luận án Tiến sĩ 
Địa chất, Đại học Mỏ-Địa chất Hà Nội, Hà Nội, 2005. 
[20] V. Mosbrugger, T. Utescher, The coexistence 
approach-a method for quantitative reconstructions 
of Tertiary terrestrial paleoclimate data using plant 
fossils, Palaeogeography Palaeoclimatology 
Palaeoecology 134 (1997) 61-86. 
[21] J.P. Suc, Origin and evolution of the Mediterranean 
vegetation and climate in the Europe. Macmillan 
Journal Ltd, 1984, pp. 429-435. 
[22] P.B. Tomlinson, The botany of mangroves. Cambridge 
University Press, Cambridge, 1986, pp. 1-413. 
[23] A.M. Ellison, Mangrove restoration: Do we know 
enough?. Restoration ecology, 2000, pp. 142-155. 
[24] Gozalo Jiménez-Moreno, Martin Head, Mathias 
Harzhauser, Early and Middle Miocen 
dinoflagellate cyst stratigraphy of the Central 
Paratethys, Central Europe. The 
Micropaleotological Society, 2005, pp. 113-139. 
[25] Yong Quan, Shuai Wang, Ming Gu, Jun Kuang. 
Field measurement of wind speeds and wind-
induced responses atop the Shanghai world 
financial center under normal climate conditions. 
Hindawi publishing corporation, 2013, pp.1-14. 
[26] W.H. Blow, Late middle Miocene to Recent 
planktonic foraminiferal biostratigraphy. In 
Bronnimann, P.Renz, H.H (eds), Proceedings of 
the First International Conference on Planktonic 
Microfossils, Geneva 1 (1969) 199-422. 
[27] Berggren, Van Couvering, Neogen chronostratigraphy, 
planktonic foraminiferal zonation and the 
radiometric time scale. W.H.O.I., part1, 1974. 
[28] T. Saito, Late Cenozoic planktonic foraminiferal 
datum levels: the present state of knowledge 
toward accomplishing Pan-Pacific correlation. 
Proceed 1 Intern. Cong. pacific Neogene 
strstigraphy, Tokyo, 1976, pp. 61-80. 
[29] G. Bartioli, M. Sarnthein, M. Weineil, H. 
Erenkeuser, D. Garbe-Scheonberg, D. W. Lea, 
Final closure of Panama and the onest of northen 
hemisphere giaciation, Erath and Planetary 
Science Letters 237 (2005) 33-44. 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_sinh_dia_tang_tram_tich_chua_than_miocen_muon_vung.pdf