Công nghệ mới trong ngành thông tin - Thư viện
Ngày nay, quan điểm trên hoàn toàn
ngược lại. Hoạt động chính trong một cơ
quan thông tin ngày nay là công tác phục
vụ bạn đọc mà hiện nay mang một danh
xưng quen thuộc là dịch vụ thông tin
(information services) và bộ phận tiêu biểu
nhất trong một thư viện là Dịch vụ tham
khảo – Reference Services nhằm đáp ứng
nhu cầu thông tin cho tất cả mọi người.
Nói như thế không có nghĩa công tác
nghiệp vụ không còn quan trọng mà thực
sự công tác này được nâng lên một tầm
cao mới khi được chuẩn hóa cao độ và dựa
vào công nghệ mới công tác này hầu như
được tổ chức thực hiện chung trong một
cộng đồng chứ không còn được thực hiện
riêng lẻ trong từng thư viện. Công cụ để
thực hiện chung công việc nghiệp vụ được
tích hợp trong những Mạng công cụ thư
tịch – Bibliographic Utilities. Mạng công
cụ thư tịch nổi tiếng nhất hiện nay là
OCLC (Online Computing Library Center)
được sử dụng trên phạm vi toàn cầu.
Sử dụng Mạng công cụ thư tịch để thực
hiện công tác nghiệp vụ mô tả, phân loại,
biên mục, vv là cơ hội đồng đều cho
tất cả các thư viện. Do đó công tác
nghiệp vụ trở nên nhẹ hơn trong hoạt
động của một thư viện. Các thư viện tập
trung vào dịch vụ thông tin với việc ứng
dụng công nghệ mới để ngày mỗi nâng
cao năng lực cung cấp thông tin cho độc
giả của mình. Đó là lý do ngày nay để
đánh giá một thư viện người ta cho rằng
“Giá trị thư viện không phải ở chỗ thư
viện có bao nhiêu tài nguyên thông tin
mà là thư viện đáp ứng nhu cầu thông tin
một cách có hiệu quả như thế nào từ
nhiều nguồn ở khắp nơi thông qua công
nghệ mới”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Công nghệ mới trong ngành thông tin - Thư viện
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 7/2009 4 CÔNG NGHỆ MỚI TRONG NGÀNH THÔNG TIN - THƯ VIỆN NGUYỄN MINH HIỆP, BA., MS. GĐ. Thư viện ĐH Khoa học Tự nhiên TP. Hồ Chí Minh rước đây, người ta thường cho rằng công tác nghiệp vụ hay công tác kỹ thuật (technical services) trong một thư viện là quan trọng nhất. Đó là những công việc bổ sung, phân loại, biên mục, chỉ mục, vv. chiếm một tỷ lệ rất cao so với công tác phục vụ bạn đọc (public services). Ngày nay, quan điểm trên hoàn toàn ngược lại. Hoạt động chính trong một cơ quan thông tin ngày nay là công tác phục vụ bạn đọc mà hiện nay mang một danh xưng quen thuộc là dịch vụ thông tin (information services) và bộ phận tiêu biểu nhất trong một thư viện là Dịch vụ tham khảo – Reference Services nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin cho tất cả mọi người. Nói như thế không có nghĩa công tác nghiệp vụ không còn quan trọng mà thực sự công tác này được nâng lên một tầm cao mới khi được chuẩn hóa cao độ và dựa vào công nghệ mới công tác này hầu như được tổ chức thực hiện chung trong một cộng đồng chứ không còn được thực hiện riêng lẻ trong từng thư viện. Công cụ để thực hiện chung công việc nghiệp vụ được tích hợp trong những Mạng công cụ thư tịch – Bibliographic Utilities. Mạng công cụ thư tịch nổi tiếng nhất hiện nay là OCLC (Online Computing Library Center) được sử dụng trên phạm vi toàn cầu. Sử dụng Mạng công cụ thư tịch để thực hiện công tác nghiệp vụ mô tả, phân loại, biên mục, vv là cơ hội đồng đều cho tất cả các thư viện. Do đó công tác nghiệp vụ trở nên nhẹ hơn trong hoạt động của một thư viện. Các thư viện tập trung vào dịch vụ thông tin với việc ứng dụng công nghệ mới để ngày mỗi nâng cao năng lực cung cấp thông tin cho độc giả của mình. Đó là lý do ngày nay để đánh giá một thư viện người ta cho rằng “Giá trị thư viện không phải ở chỗ thư viện có bao nhiêu tài nguyên thông tin mà là thư viện đáp ứng nhu cầu thông tin một cách có hiệu quả như thế nào từ nhiều nguồn ở khắp nơi thông qua công nghệ mới”. Công nghệ mới làm thay đổi hoạt động nghiệp vụ thư viện; Công nghệ mới làm nâng cao năng lực dịch vụ thông tin. Vấn đề là làm thế nào để người cán bộ thư viện ngày nay nhận thức được tính tất yếu của việc ứng dụng công nghệ mới trong hoạt động thông tin thư viện để nâng cao tầm nhìn và đổi mới công việc muôn thuở của mình cho ngang tầm với thời đại – Thời của kỷ nguyên thông tin (information age) hay nói một cách thời thượng là kỷ nguyên số (digital age). Tư duy công nghệ mới. Thật ra cụm từ “công nghệ mới” đã trở thành một thuật ngữ quen thuộc của thời đại chúng ta ngày nay khi mà T BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 7/2009 5 cuộc sống con người hoàn toàn bị chi phối bởi công nghệ và công nghệ mới hầu như xuất hiện hàng ngày và ai cũng có thể sử dụng công nghệ mới đó ngay từ khi nó được phân phối. Một cách tự nhiên, mọi người đều tự hình thành cho mình một tư duy công nghệ mới để luôn tìm kiếm những sản phẩm mới phục vụ cho đời sống của mình. Đó là loại tư duy công nghệ mới đời thường. Một sinh viên thư viện thông tin với tư duy công nghệ mới đời thường, anh ta có thể dễ dàng tải nhạc chuông mới nhất từ mạng Internet về điện thoại di động của mình; nhưng hết sức lúng túng thậm chí không biết cách lấy thông tin trên mạng phục vụ cho một yêu cầu cụ thể của độc giả. Bởi vì đáng lý ra ngay khi còn ở ghế nhà trường anh phải được trang bị tư duy công nghệ mới ngành nghề của mình! Tư duy công nghệ mới là nền tảng của người cán bộ thông tin - thư viện ngày nay. Tư duy công nghệ mới khiến người cán bộ thư viện: – Luôn tìm tòi học hỏi để cải tiến công việc; – Sẳn sàng từ bỏ những giá trị cũ để tuân thủ những tiêu chuẩn mới. Người cán bộ thư viện với tư duy công nghệ mới là người làm việc với tác phong công nghiệp và có ý thức học tập suốt đời. Luôn đổi mới để cải tiến công việc cho phù hợp với công nghệ mới. Công nghệ mới ngành thông tin - thư viện. Từ hơn mười năm nay, những chuyên gia thư viện - thông tin trên thế giới đã khẳng định rằng “Web là công nghệ hiện tại và tương lai của ngành thông tin - thư viện”. Do đó có người gọi chuyên viên thư viện ngày nay thay vì librarian là webrarian. Lý giải câu nói trên là cơ bản ta đã hình thành cho mình tư duy công nghệ mới ngành nghề. Tuy nhiên, trước hết ta nên tìm hiểu một vài khái niệm cơ bản nhất của công nghệ mới của ngành thông tin - thư viện. 1. Gói thông tin. Thông thường người ta trao đổi thông tin với nhau một cách liên tục như trong giao tiếp bình thường. Chẳng hạn như tôi muốn tiếp chuyện với 5 độc giả, tôi sẽ lần lượt nói chuyện hết người này đến người kia, cách trao đổi truyền thống này người ta gọi là liên biến – analog. Theo yêu cầu ngày nay tôi phải tiếp chuyện với 5 độc giả cùng một lúc, muốn làm được như thế thông tin trong những câu chuyện của tôi phải được “đóng gói” thành những gói nhỏ và mỗi lần tôi sẽ trao cho mỗi người một gói, lần lượt hết gói này đến gói khác, cả 5 người đều có cảm giác cùng nói chuyện với tôi một lúc, cách trao đổi hiện đại này người ta gọi là kỹ thuật số – digital. Thông tin được đóng gói như thế được gọi là thông tin kỹ thuật số hay thông tin số (digital information). 2. Thông tin số. Thông tin số hay còn được gọi là công nghệ cơ số nhị phân là cơ sở của công nghệ thông tin. Thông tin số cho phép trao đổi thông tin dưới dạng chữ viết, âm thanh, hình ảnh, vv Dữ liệu số có chung một cấu trúc cơ bản giống nhau là kết hợp hai con số 0 và 1, được gọi là mã nhị phân. Mỗi con số 0 hay 1 biểu thị 1 “bit”. Để biểu diễn một dấu hiệu hay ký tự người ta kết hợp 8 bit gọi là 1 byte. Hay nói cách khác, mỗi ký tự chiếm 1 byte bộ nhớ. Bộ mã ASCII (American Standard Code for Information Interchange) là tiêu chuẩn chuyển đổi tất cả mẫu tự La Tinh, các số, BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 7/2009 6 Sir Timothy John Berners-Lee dấu chấm câu qua mã kỹ thuật số để lưu trữ trong máy tính. Có 128 mã ASCII chuẩn. Hình ảnh số thì được cấu trúc bởi “pixels” bao gồm những điểm trên màn hình hay trên giấy. Những hình ảnh có thể là đen trắng hay màu. 3. Công nghệ đóng gói thông tin. Công nghệ đóng gói thông tin hay còn được gọi là công nghệ Web. Thông thường người ta dùng ngôn ngữ đánh dấu mở rộng XML (eXtensible Markup Language) để tạo ra cấu trúc, lưu trữ và tổ chức dữ liệu; còn ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản HTML (HyperText Markup Language) để hiển thị dữ liệu trong trình duyệt Web, hay nói một cách khác chúng ta sử dụng HTML để tạo ra trang Web. Ví dụ bạn muốn tạo ra một dòng cho tên sách “Cơ sở khoa học thông tin và thư viện” với chữ cỡ lớn và nằm ngay giữa trang giấy thì bạn dùng HTML để thể hiện như sau: Giáo trình Cơ sở khoa học thông tin và thư viện HTML khác với ngôn ngữ lập trình, ngôn ngữ đánh dấu đơn giản chỉ nêu phương pháp hiển thị thông tin. Các gói thông tin được lồng ghép vào nhau như búp bê Nga. Sir Timothy John Berners-Lee, sinh năm 1955, một nhà khoa học máy tính người Anh làm việc trong Phòng thí nghiệm Vật lý hạt cơ bản Châu Âu (CERN) ở Geneva, Thụy Sĩ là người đã phát minh ra World- Wide-Web. Ngày 25/12/1990 lần đầu tiên ông thành công trong việc liên lạc giữa một máy tính khách sử dụng HTTP với máy chủ qua Internet với cộng sự Robert Cailliau, một sinh viên trẻ tại CERN. Internet ra đời từ thập niên 1970 nhưng mãi đến khi công nghệ Web ra đời vào năm 1991 đã tạo nên một cuộc bùng nổ sử dụng, Internet mới thực sự phổ biến đến hang cùng ngỏ hẻm và có diện mạo như ngày hôm nay. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 7/2009 7 4. Công nghệ chuyển gói thông tin. Trên Internet có hai giao thức đảm nhận công việc nhận và chuyển các gói thông tin đến đích đó là: TCP – Transmission Control Protocol và IP – Internet Protocol, thường được kết hợp là TCP/IP. TCP phân chia và tích hợp các gói thông tin; IP đảm bảo các gói thông tin được đến đúng địa chỉ. Internet sử dụng công nghệ TCP/IP nên được gọi là mạng chuyển gói, trong đó thông tin được đóng thành từng gói nhỏ và được gởi theo nhiều đường cùng một lúc, sau đó được tích hợp ở đầu nhận. 5. Siêu dữ liệu. Trong thư viện truyền thống, để tiếp cận được tài liệu trên giá kệ thì độc giả phải thông qua một hệ thống mục lục bao gồm những phiếu mục lục mô tả lý lịch tài liệu. Đối với tài liệu điện tử hay thông tin số, lý lịch tài liệu được mô tả và trình bày bằng siêu dữ liệu – metadata. Như vậy siêu dữ liệu và phiếu mục lục là tương đồng với nhau, đều bao gồm những dữ liệu có cấu trúc và do con người tạo ra. Chỉ khác nhau là phiếu mục lục được tách rời khỏi tài liệu trong khi siêu dữ liệu thì thường gắn liền với tài liệu, cho nên khi ta có được siêu dữ liệu là có được nội dung tài liệu. Tài liệu số được đóng gói do đó siêu dữ liệu cũng được đóng gói. Đây là trường hợp siêu dữ liệu thư tịch – bibliographic metadata. Khái quát hơn chúng ta có thể xem đặc tính của siêu dữ liệu là được phát triển bởi con người cho một mục đích hay chức năng nào đó. Một minh họa cho điều này đồng thời để hiểu rõ hơn khái niệm “dữ liệu về dữ liệu” và thông tin có cấu trúc của siêu dữ liệu như sau: Để mô tả trái đất và định vị một điểm trên đó ta sử dụng kinh độ và vĩ độ. Thực tế hiển nhiên bản thân trái đất không có đường kinh tuyến hay vĩ tuyến bao quanh, song sự sáng tạo ra kinh độ và vĩ độ cho phép chúng ta đề cập đến các vị trí trên hành tinh này và di chuyển chính xác qua những khoảng cách rộng lớn mà không cần một cột mốc nào chỉ dẫn cho chúng ta. Kinh độ và vĩ độ trong ví dụ này chính là hình ảnh siêu dữ liệu. 6. Tạo lập và gặt hái siêu dữ liệu. Tạo lập siêu dữ liệu – Building metadata và gặt hái siêu dữ liệu – Harvesting metadata là hai hình thức xây dựng Bộ sưu tập thư viện số – Digital Library Collection. Sử dụng phần mềm nguồn mở để xây dựng những Bộ sưu tập số nội sinh gắn liền với công việc biên mục để tạo lập siêu dữ liệu. Trong khi sử dụng một số công cụ khác tích hợp với phần mềm nguồn mở để gặt hái siêu dữ liệu, chẳng hạn như Giao thức sáng kiến lưu trữ mở OAI-PMH (Open Archives Initiative – Protocol for Metadata Harvesting) tích hợp với Phần mềm nguồn mở thư viện số Greenstone để tạo lập những Bộ sưu tập ảo (Chỉ gồm siêu dữ liệu). 7. Phần mềm nguồn mở. Phần mềm nguồn mở – Open source software là phần mềm máy tính mà người ta có thể đọc được mã nguồn. Điều này cho phép người sử dụng thay đổi và phát triển phần mềm, rồi tái phân phối dưới hình thức có hoặc không có sửa đổi. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 7/2009 8 Richard Matthew Stallman Richard Mathiew Stallman, sinh năm 1953 một nhà phát triển phần mềm, vừa là nhà hoạt động cho việc tự do phần mềm Hoa Kỳ. Chủ tịch Quỹ Phần mềm tự do – Free Software Foundation, là người đứng đầu trong thế giới phần mềm nguồn mở đã ấn định bốn loại tự do cho phần mềm nguồn mở như sau: S Tự do chạy chương trình với bất cứ mục đích nào; S Tự do chỉnh sửa cho phù hợp với yêu cầu của mình; S Tự do tái phân phối bản sao để giúp người khác sử dụng; S Tự do phát triển chương trình và bán rộng rãi phần phát triển đó nhằm mang đến lợi ích chung cho cộng đồng. Ngày nay Phần mềm nguồn mở được xem như là một công nghệ mới quan trọng không thể thiếu trong việc xây dựng thư viện số. Phần mềm nguồn mở và thư viện số là sản phẩm tự nhiên của những mô hình trao đổi mở giúp cho xã hội phát triển và thịnh vượng. Kết luận Ngày nay, các thư viện liên thông với nhau trong một hệ thống thư viện hay consortium đều thông qua mạng liên kết toàn cầu Internet; ngay cả trong một thư viện đơn lẻ, Internet vẫn là một hoạt động không thể thiếu trong toàn bộ những hoạt động thông tin bình thường. Lượng thông tin điện tử phong phú ngày càng trở nên quan trọng trong những hoạt động thông tin đó. Hàng ngày người cán bộ thông tin thư viện phải đối mặt với những công việc: S Truy hồi thông tin trên Internet; S Thiết kế và bảo trì trang Web hay cổng thông tin (Portal); S Trình bày thông tin và xuất bản điện tử; S Biên mục trên Web; S Xây dựng những bộ sưu tập số; S Phân phối thông tin có chọn lọc cho người sử dụng; S Tái đóng gói thông tin phục vụ công tác tham khảo; S vv... Để thực hiện những công việc trên, người cán bộ thông tin thư viện phải biết sử dụng thành thạo công nghệ Web với một tinh thần luôn đổi mới để sẳn sàng đón nhận công nghệ mới. Tham khảo 1. Nguyễn Minh Hiệp. Cơ sở khoa học thông tin và thư viện. – TP. HCM: Giáo dục, 2008. 2. Rubin, Richard E. Foundations of library and information science. – 2nd edition. – New York: Neal – Schuman Publishers, Inc., 2004.
File đính kèm:
- cong_nghe_moi_trong_nganh_thong_tin_thu_vien.pdf