Cán bộ thư viện Đại học trong quản lý hệ thống thông tin số hỗ trợ hành vi thông tin của người dùng tin

Ngày nay, khi Internet trở thành nguồn

thông tin quan trọng, người ta thường đề cập

đến vấn đề nhiễu tin, bởi bao quanh người

dùng tin là cả một nguồn tài nguyên thông tin

khổng lồ. Trong bối cảnh đó, thư viện đại học

góp phần hỗ trợ người dùng tin tiếp cận và sử

dụng nguồn thông tin phù hợp và hiệu quả với

việc ứng dụng Internet trong quá trình tổ chức,

khai thác và phục vụ thông tin. Với môi trường

học thuật ở các trường đại học, người dùng tin

luôn có nhu cầu cập nhật, bổ sung kiến thức

mới, đáp ứng mục tiêu học tập, giảng dạy và

nghiên cứu của sinh viên, giảng viên, các nhà

nghiên cứu. Trong đó, thư viện đại học giữ vai

trò là trung tâm thông tin hỗ trợ người dùng

tin. Đặc biệt, cán bộ thư viện trở thành cầu

nối thông tin, có vai trò tích cực trong việc

tác động và hỗ trợ đến hành vi thông tin của

người dùng tin trong môi trường số.

pdf 7 trang kimcuc 7220
Bạn đang xem tài liệu "Cán bộ thư viện Đại học trong quản lý hệ thống thông tin số hỗ trợ hành vi thông tin của người dùng tin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cán bộ thư viện Đại học trong quản lý hệ thống thông tin số hỗ trợ hành vi thông tin của người dùng tin

Cán bộ thư viện Đại học trong quản lý hệ thống thông tin số hỗ trợ hành vi thông tin của người dùng tin
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2016 | 19
CÁN BỘ THƯ VIỆN ĐẠI HỌC TRONG QUẢN LÝ HỆ THỐNG 
THÔNG TIN SỐ HỖ TRỢ HÀNH VI THÔNG TIN 
CỦA NGƯỜI DÙNG TIN
Tóm tắt: Trình bày ý nghĩa của việc nghiên cứu hành vi thông tin của người dùng tin đối với 
thư viện đại học trong môi trường số. Phân tích vai trò của cán bộ thư viện trong quản lý hệ thống 
thông tin số hỗ trợ hành vi thông tin của người dùng tin.
Từ khóa: Thư viện đại học; cán bộ thư viện; hệ thống thông tin số; hành vi thông 
tin; người dùng tin.
Th e role of university librarians in managing digital information system to support 
users’ information behavior
Abstract: Th e paper introduces the research on the information users’ behavior towards 
academic libraries in the digital environment. Analyzing the role of librarians in managing 
digital information system to support users’ information behavior. 
Keywords: University library; librarian; digital information system; information behavior; 
information user.
Th S Bùi Hà Phương
Trường Đại học KHXH&NV Tp. Hồ Chí Minh 
Mở đầu
Ngày nay, khi Internet trở thành nguồn 
thông tin quan trọng, người ta thường đề cập 
đến vấn đề nhiễu tin, bởi bao quanh người 
dùng tin là cả một nguồn tài nguyên thông tin 
khổng lồ. Trong bối cảnh đó, thư viện đại học 
góp phần hỗ trợ người dùng tin tiếp cận và sử 
dụng nguồn thông tin phù hợp và hiệu quả với 
việc ứng dụng Internet trong quá trình tổ chức, 
khai thác và phục vụ thông tin. Với môi trường 
học thuật ở các trường đại học, người dùng tin 
luôn có nhu cầu cập nhật, bổ sung kiến thức 
mới, đáp ứng mục tiêu học tập, giảng dạy và 
nghiên cứu của sinh viên, giảng viên, các nhà 
nghiên cứu. Trong đó, thư viện đại học giữ vai 
trò là trung tâm thông tin hỗ trợ người dùng 
tin. Đặc biệt, cán bộ thư viện trở thành cầu 
nối thông tin, có vai trò tích cực trong việc 
tác động và hỗ trợ đến hành vi thông tin của 
người dùng tin trong môi trường số. 
1. Nghiên cứu hành vi thông tin hỗ trợ 
công tác phục vụ trong thư viện đại học
1.1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu hành vi 
thông tin
 Hành vi thông tin được hiểu là toàn bộ cách 
thức mà người sử dụng tiếp cận hệ thống thông 
tin, liên quan đến việc sử dụng, truy cập và tìm 
kiếm thông tin [11]. Từ những năm 1990, khái 
niệm “hành vi thông tin” được hình thành, 
nhưng nguồn gốc xuất phát chính từ khái niệm 
“nhu cầu và sử dụng thông tin” trong những 
năm 1960. Có một thời gian, nhiều nghiên cứu 
thường xuyên tập trung vào hành vi thông tin 
từ định hướng hệ thống cho đến định hướng 
người sử dụng. Những nghiên cứu định hướng 
hệ thống gồm nghiên cứu các hệ thống thông 
tin, vốn tài liệu ở các địa điểm như: thư viện, 
trường học, v.v. Trong những năm 1970, các 
nghiên cứu bắt đầu chú trọng đến các cá nhân 
như người tìm tin và người dùng tin.
Hành vi thông tin là một hoạt động tìm kiếm 
thông tin có mục đích nhằm thỏa mãn nhu 
cầu đạt mục tiêu nào đó. Trong quá trình tìm 
kiếm thông tin, người dùng tin có thể tương 
tác với hệ thống thông tin (như một tờ báo hay 
thư viện), hoặc tương tác với hệ thống máy 
tính (web) [11]. Một cách hiểu khác cụ thể hơn, 
hành vi tìm kiếm thông tin liên quan đến các lý 
do cá nhân khi tìm kiếm thông tin, loại thông 
tin mà người dùng tin mong muốn, cách thức 
20 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2016
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
tìm kiếm thông tin và nguồn thông tin [5].
Tóm lại, hành vi tìm kiếm thông tin liên 
quan nhiều hoạt động, bao gồm hoạt động của 
một cá nhân thực hiện nhằm thỏa mãn nhu 
cầu thông tin, tìm kiếm thông tin, đánh giá, 
lựa chọn thông tin và sử dụng thông tin nhằm 
thỏa mãn nhu cầu tin của cá nhân đó [4]. 
Ở phạm vi nghiên cứu trong khoa học 
thông tin-thư viện (TT-TV), nghiên cứu hành 
vi thông tin có thể hiểu một cách đơn giản là 
nghiên cứu nhữ ng phả n ứ ng củ a các cá nhân 
người dùng tin khi cần, tìm kiếm, tiếp cận 
và sử dụng thông tin; những phản ứng của 
người dùng tin đối với các sản phẩm, dịch vụ 
TT-TV và quá trình thỏa mãn hành vi thông 
tin của thư viện nói riêng. Những phản ứng 
đó được nghiên cứu trong bối cảnh có sự tác 
động của nhiều yếu tố như: tâm lý bên trong, 
đặc điểm cá nhân cũng như môi trường xã 
hội bên ngoài. Những phản ứng của người 
dùng tin bao gồm phản ứng thuộc về cảm giác 
như cảm xúc, cảm nghĩ mà người dùng tin có 
được khi nhìn thấy, nghĩ về, tiếp cận hoặc khi 
sử dụng sản phẩm, dịch vụ TT-TV. Ngoài ra, 
nghiên cứu hành vi thông tin lưu ý đến những 
phản ứng thuộc về tri giác khi người dùng tin 
thể hiện qua suy nghĩ, hiểu biết và đánh giá 
cá nhân về sản phẩm, dịch vụ mà họ đã sử 
dụng. Từ đó, những đánh giá đó được bộc lộ 
ra ngoài bằng niềm tin, quan điểm, thái độ và 
quyết định liên quan đến sản phẩm, dịch vụ 
đó. Hơn nữa, những phản ứng biểu hiện qua 
hành động chính là khi người dùng tin quyết 
định lựa chọn thông tin, sản phẩm, dịch vụ 
TT-TV và sử dụng thông tin phục vụ cho mục 
tiêu của họ. Chính vì vậy, nghiên cứu hành vi 
thông tin của người dùng tin có ý nghĩa rất lớn 
đối với thư viện đại học. 
Th ứ nhất, nghiên cứu hành vi thông tin giúp 
thư viện đại học nhận diện được nhu cầu và thói 
quen tìm tin của người dùng tin. Trong nhiều 
nghiên cứu đã thực hiện cho thấy, đôi khi 
người dùng tin chưa thực sự coi thư viện đại 
học là nguồn thông tin chính và là sự lựa chọn 
đầu tiên khi họ có nhu cầu thông tin. Chính vì 
lẽ đó, việc nhận diện và nghiên cứu nhu cầu 
tin và hành vi thông tin của người dùng tin 
cần được thực hiện một cách kịp thời và chủ 
động. Việc nghiên cứu này giúp thư viện đại 
học nhận biết được nhu cầu của người dùng 
tin. Trên cơ sở đó, thư viện định hướng, tiếp 
cận chủ động và cung cấp thông tin cho người 
dùng tin. Đối với người dùng tin hiện tại, việc 
nhận diện nhu cầu tin thông qua quá trình 
nghiên cứu hành vi thông tin có thể được 
thực hiện dễ dàng. Ví dụ, thư viện đại học có 
thể thống kê, khảo sát hay phỏng vấn người 
dùng tin đã và đang sử dụng thư viện như một 
nguồn thông tin chính. Trong khi đó, để nắm 
bắt được nhu cầu, hiểu được người dùng tin 
tiềm năng cần gì, mong muốn gì thì đòi hỏi 
thư viện phải có sự chủ động tiếp cận hay 
quảng bá thư viện đến với các nhóm người 
dùng tin tiềm năng này. Chính việc nghiên 
cứu hành vi thông tin của nhóm người dùng 
tin hiện tại hay tiềm năng sẽ giúp thư viện có 
thể thực hiện tốt vai trò mang thông tin, thư 
viện đến cho người sử dụng. 
Th ứ hai, nghiên cứu hành vi thông tin là cơ sở 
để thư viện đại học đề ra chính sách, biện pháp 
tác động người dùng tin. Th ực vậy, nghiên cứu 
hành vi thông tin của người dùng tin giúp thư 
viện thiết lập chính sách, biện pháp nhằm tác 
động và hỗ trợ tích cực người dùng tin trong 
môi trường học thuật. Dựa trên những nghiên 
cứu người dùng tin, những người làm công tác 
thư viện hiểu được những thuận lợi mà người 
dùng tin cần có, khó khăn hay rào cản làm cho 
người dùng tin ít sử dụng thư viện. Trên cơ 
sở này, thư viện có thể tổ chức các khóa, các 
lớp tập huấn sử dụng thư viện, hay hướng dẫn 
kiến thức thông tin giúp người dùng tin hiểu 
được lợi ích khi sử dụng thư viện, cũng như 
vai trò hỗ trợ học tập, giảng dạy và nghiên cứu 
của người dùng tin. Bên cạnh đó, người dùng 
tin có được cách thức tìm kiếm, lựa chọn, sử 
dụng và đánh giá thông tin. Ngoài ra, thư viện 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2016 | 21
cũng có chiến lược marketing sản phẩm, dịch 
vụ hướng đến từng nhóm người dùng tin khác 
nhau, quảng bá thư viện và kích thích nhu cầu 
tin của người dùng. 
Th ứ ba, hành vi thông tin được nghiên cứu giúp 
thư viện đại học nâng cao chất lượng hoạt động. 
Chất lượng hoạt động thư viện được đánh giá 
tổng thể dựa trên rất nhiều yếu tố khác nhau, 
như: chất lượng phục vụ, chất lượng sản phẩm 
và dịch vụ TT-TV, chất lượng hệ thống tìm tin, 
chất lượng cán bộ thư viện, v.v Nghiên cứu 
hành vi thông tin giúp thư viện đánh giá một 
phần hiệu quả hoạt động, chất lượng thư viện 
dựa trên kết quả đánh giá, phản hồi của người 
dùng tin. Chính kết quả khảo sát người dùng 
tin là yếu tố góp phần giúp thư viện đại học 
điều chỉnh và tự đánh giá chất lượng phục vụ 
của mình. Từ đó, thư viện có thể điều chỉnh, 
xây dựng sản phẩm, dịch vụ thông tin phù 
hợp, phát triển chất lượng hệ thống hỗ trợ 
người dùng tra cứu tin, v.v 
1.2. Tìm hiểu một số loại hành vi thông tin 
của người dùng tin
Nhiều nghiên cứu đã khảo sát hành vi tìm 
tin của người dùng tin, tìm hiểu vai trò của 
thư viện liên quan so với các nhà cung cấp 
thông tin khác. Smith (1987) báo cáo khoảng 
một phần hai số người trả lời từ đại học bang 
Pennsylvania dựa vào bộ sưu tập cá nhân và 
mượn tài liệu từ các thư viện khác. Tương tự, 
Guest (1987) chỉ ra 85% người trả lời dựa vào 
bộ sưu tập cá nhân của họ như nguồn thông 
tin chính phục vụ giảng dạy và nghiên cứu. 
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu khác đã đề cập 
đến vai trò của thư viện đại học đối với hành 
vi thông tin của người dùng tin với các kết 
quả khác nhau. Trái với các nghiên cứu trên, 
Shokeen and Kushik (2001) cho thấy hành vi 
tìm kiếm thông tin của các nhà khoa học xã 
hội tại trường đại học Haryana, hầu hết nhà 
khoa học xã hội đến thư viện mỗi ngày. Công 
cụ tra cứu mà họ ưu tiên sử dụng đó là bảng tra, 
các ấn phẩm tóm tắt và công cụ trích dẫn trong 
các bài báo. Tạp chí và sách được đánh giá là 
nguồn thông tin chính. 
Nhiều nghiên cứu (Bates, 1989, 2007; 
Case, 2008; Rowlands and Fieldhouse, 
2007; Palmer, Teffeau and Pirmann, 2009) 
cho thấy, các hoạt động tra cứu của người 
dùng tin trong hệ thống thông tin số dẫn 
đến sự khác biệt về loại hình hành vi thông 
tin người dùng tin. Tuỳ thuộc cách thức 
người dùng tin tiếp cận hệ thống tra cứu tin 
và cách thức sử dụng thông tin sau tra cứu, 
có một số loại hành vi thông tin của người 
dùng tin, như:
- Đọc lướt (skimming): nhìn lướt 1 hoặc 2 
trang đầu tiên. Với loại hình này, người dùng 
tin thường có xu hướng mất ít thời gian để xem 
lướt qua nội dung, hình thức tài liệu, thông 
thường là các trang đầu tiên giúp họ có cách 
nhìn một phần về tài liệu, giúp họ thu nhận 
được một số thông tin đầu tiên của tài liệu.
- Đọc lướt sâu (powerbrowsing): đọc tóm tắt 
và tiêu đề, thậm chí người dùng tin ưu tiên đọc 
thuật ngữ chỉ mục/tra cứu hơn đọc toàn văn 
của tài liệu. Ở loại hình này, phần tóm tắt và 
tiêu đề của tài liệu giúp người dùng tin có thể 
hiểu được nội dung cơ bản nhất mà tài liệu đề 
cập trước khi bắt đầu đọc toàn văn của tài liệu. 
- Tích trữ (squirrelling): tải tài liệu và sau đó 
đọc ở các mức độ khác nhau. Loại hình hành 
vi thông tin này thường xảy ra khi người dùng 
tin đang có nhu cầu tìm kiếm một khối lượng 
lớn càng nhiều càng tốt các tài liệu khác nhau 
về chủ đề mà họ đang quan tâm. Sau đó, khi 
đã thu thập một lượng tài liệu tương đối lớn, 
người dùng mới bắt đầu vào việc đọc hoặc lựa 
chọn đọc phù hợp. Điều này giúp người dùng 
tin có sẵn được tài liệu ngay khi họ cần. 
- Kiểm tra chéo (crosschecking): thu thập 
thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Loại hình 
hành vi này cho thấy người dùng tin quan tâm 
đến sự đa dạng của thông tin như: nội dung, 
loại hình, hình thức, cách thức tiếp cận vấn 
đề của nhiều tác giả, nhiều quan điểm khoa 
22 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2016
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
học, đặc biệt là chất lượng của thông tin từ các 
nguồn khác nhau. 
- Liên kết chuỗi (chaining): liên kết các trích 
dẫn trong danh mục tài liệu tham khảo để tìm 
kiếm thông tin mới. Trong quá trình tìm kiếm 
thông tin, người dùng tin thường có hành vi 
tìm kiếm thông tin từ các tài liệu được trích 
dẫn trong danh mục tài liệu tham khảo. Chẳng 
hạn, từ một khái niệm hay định nghĩa được 
trích dẫn trong bài viết, người dùng tin sẽ thực 
hiện hành vi liên kết nguồn trích dẫn đó với 
một quá trình tìm kiếm mới nhằm tìm tài liệu 
được trích dẫn đó và kiểm tra tính xác thực 
của thông tin được trích dẫn.
- Chọn lọc (berrypicking): đặt ra những câu 
hỏi từ kết quả tìm kiếm thông tin mới, hành 
vi này diễn ra trong suốt quá trình tìm tin. 
Đây là biểu hiện của hành vi thông tin có sự 
phản biện. Nghĩa là họ chọn lọc những tài 
liệu phù hợp thông qua việc đặt ra câu hỏi từ 
kết quả tìm kiếm.
- Th ải hồi (bouncing): thoát khỏi nguồn 
thông tin một cách nhanh chóng ngay khi 
người dùng tin nhận ra thông tin, nguồn thông 
tin đó không thích hợp với nhu cầu và yêu cầu 
tìm tin. Hành vi thông tin này đòi hỏi người 
dùng tin có cách đánh giá nhanh chóng và 
bao quát, bởi lẽ họ không tốn nhiều thời gian 
vào việc tìm và đọc những tài liệu không phù 
hợp với yêu cầu mà họ đang tìm kiếm. Hay nói 
cách khác, việc nhận diện tính thích hợp của 
tài liệu đối với yêu cầu tin của người dùng tin 
giúp họ tiết kiệm nhiều thời gian và công sức; 
đặc biệt, trong hệ thống thông tin số, điều này 
giúp người dùng tin hạn chế được những tác 
nhân gây mất tập trung vào mục tiêu tìm kiếm 
đã đặt ra ban đầu.
2. Vai trò của cán bộ thư viện đại học trong 
việc hỗ trợ hành vi thông tin của người dùng tin
Bối cảnh thông tin kỹ thuật số mang đến cho 
thư viện đại học những cơ hội mới để khẳng 
định vai trò của mình trong xã hội thông tin, 
bên cạnh đó là những thách thức không nhỏ 
đối với hoạt động và phát triển của thư viện. 
Khi đó, đòi hỏi cán bộ thư viện cần phải thích 
ứng với những vai trò và nhiệm vụ mới, trong 
đó bao gồm vai trò quản lý hệ thống thông tin 
số và hỗ trợ hành vi thông tin của người dùng. 
Quản lý hệ thống thông tin số đòi hỏi năng 
lực bao quát gồm kiến thức, kỹ năng, thái độ 
và cách thức cần thiết để tạo lập, lưu trữ, phân 
tích, tổ chức, tìm và phân phối thông tin số 
(văn bản, hình ảnh, âm thanh) trong thư viện 
số hay bất kỳ loại thông tin nào. Như vậy, việc 
quản lý hệ thống thông tin số hỗ trợ hành vi 
thông tin đòi hỏi người cán bộ thư viện phải 
thể hiện ở các vai trò khác nhau.
2.1. Vai trò tích hợp của cán bộ thư viện 
truyền thống và cán bộ thư viện số 
Người cán bộ thư viện ngày nay bên cạnh 
những kiến thức chuyên môn-nghiệp vụ cơ 
bản của một người cán bộ thư viện truyền 
thống cũng cần có những sự hiểu biết và những 
kỹ năng cần thiết trong vai trò của cán bộ thư 
viện số. Cán bộ thư viện là người thực hiện 
những công việc nhằm đảm bảo vai trò tích 
hợp của mình trong hệ thống thông tin số, bao 
gồm khai thác nguồn lực thông tin số; quản lý 
thư viện số; tổ chức thông tin và tri thức số; 
phổ biến thông tin số từ nguồn lực thông tin 
số mà thư viện tạo lập và khai thác; cung cấp 
dịch vụ tham khảo số và dịch vụ thông tin điện 
tử; xử lý và bảo quản thông tin số; biên mục 
và phân loại tài liệu số, v.v... Trong đó, khai 
thác, thu thập thông tin số là một trong những 
nhiệm vụ cần thiết của cán bộ thư viện số. Có 
rất nhiều nguồn thông tin khác nhau trong 
môi trường số, nhiệm vụ của cán bộ thư viện 
số chính là sử dụng các kỹ thuật tìm tin khác 
nhau bao gồm tra cứu siêu dữ liệu, tra cứu tài 
liệu toàn văn nhằm phát triển nguồn lực thông 
tin của thư viện, phục vụ người dùng tin. Với 
kiến thức về việc lựa chọn nguồn thông tin 
thư viện số, cán bộ thư viện có năng lực sẽ thể 
hiện vai trò như một chuyên gia thông tin số 
khi thu thập thông tin số hỗ trợ người dùng 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2016 | 23
tin. Có nhiều công cụ khác nhau có thể hỗ trợ 
cán bộ thư viện số tìm kiếm thông tin số như 
mục lục truy cập công cộng trực tuyến (OPAC), 
CSDL trực tuyến, các công cụ trên nền Internet 
như: email, website, các công cụ xuất bản điện 
tử, v.v... Bên cạnh đó, việc tìm kiếm và tra cứu 
thông tin trong hệ thống thông tin số cũng yêu 
cầu cán bộ thư viện có kiến thức tổng hợp về 
công cụ tra cứu nhằm cung cấp các yêu cầu tìm 
tin tương thích với hệ thống tìm tin. Dù ở bất kỳ 
nhiệm vụ nào, thì mục tiêu cuối cùng của cán 
bộ thư viện trong vai trò tích hợp này chính là 
đảm bảo tốt vai trò của cán bộ thư viện trong 
môi trường thư viện truyền thống và phát huy 
hiệu quả của hệ thống thông tin số trong hỗ trợ 
hành vi của người dùng tin của thư viện trong 
môi trường số hiện nay. 
2.2. Vai trò quản lý thư viện và hệ thống 
thông tin số
Ở vai trò cơ bản này, cán bộ thư viện là người 
quản lý, giám sát chính hoạt động của thư viện 
không chỉ ở phạm vi quốc gia mà còn là phạm 
vi quốc tế. Bởi lẽ, thư viện số không chỉ còn 
giới hạn trong phạm vi bức tường của một thư 
viện thông thường. Quá trình quản lý này đòi 
hỏi nhiều yếu tố khác nhau của người cán bộ 
thư viện. Năng lực chuyên môn là yêu cầu tiên 
quyết của người quản lý thư viện và hệ thống 
thông tin số. Năng lực này đòi hỏi người cán 
bộ thư viện phải có trình độ và khả năng nhận 
diện, phân tích và đánh giá mối tương quan 
nguồn thông tin trong môi trường thông tin 
số và nguồn lực của thư viện, hệ thống thông 
tin. Hay nói cách khác, trước khi nguồn thông 
tin trở thành một phần của nguồn lực trong 
hệ thống, cán bộ thư viện với vai trò quản lý 
cần có sự xem xét, đánh giá năng lực của thư 
viện, hệ thống thông tin số như: nguồn nhân 
lực có đảm bảo các điều kiện cần và đủ để thực 
hiện; nguồn kinh phí có đảm bảo để thư viện 
tiếp cận, sử dụng nguồn thông tin chất lượng 
và khả năng duy trì lâu dài hay không; cơ sở 
vật chất, hạ tầng, kỹ thuật công nghệ có đảm 
bảo vận hành hiệu quả; những tác động của 
bối cảnh bên ngoài như sự thay đổi của môi 
trường số, sự đa dạng của nguồn lực thông tin, 
quy luật phát triển của thông tin số, tính pháp 
lý liên quan, v.v.... cũng là những mối quan 
tâm khác của người cán bộ thư viện khi thể 
hiện vai trò quản lý. 
Không chỉ vậy, người cán bộ thư viện cũng 
cần biết nhận diện và đánh giá sự tương thích 
giữa nguồn thông tin và nhu cầu của người 
dùng tin, khai thác, lưu trữ, tổ chức và phân 
phối thông tin cho người dùng tin, v.v... Làm 
tốt vai trò này góp phần đảm bảo nâng cao 
chất lượng phục vụ của thư viện và hệ thống 
thông tin số đối với người dùng tin, tiết kiệm 
nguồn lực, khẳng định vai trò và năng lực của 
cán bộ thư viện nói riêng và hiệu quả của hệ 
thống thông tin nói chung. 
Ngoài ra, một đòi hỏi khác ở vai trò quản lý 
hệ thống thông tin số đó chính là khả năng liên 
quan đến tạo lập và sử dụng nguồn lực thông 
tin số, ví dụ như khả năng tạo lập CSDL, phân 
phối CSDL, thiết kế giao diện người sử dụng, 
thiết kế ngôn ngữ truy vấn, các hoạt động khác 
liên quan đến tạo lập sản phẩm thông tin đa 
phương tiện, các phương thức để khai thác dữ 
liệu, tri thức, v.v... Nhìn chung, những yêu cầu 
trên có thể thực hiện tốt hơn khi người cán bộ 
thư viện hiểu rõ hệ thống thông tin số của thư 
viện với cách tiếp cận đa chiều, từ bản thân 
cán bộ thư viện, từ hệ thống và từ người dùng 
tin. Các yếu tố cần hiểu rõ về hệ thống thông 
tin số như: thành phần của hệ thống thông tin 
số, đầu vào nguồn dữ liệu, cách thức xử lý từ 
dữ liệu sang thông tin, đầu ra sản phẩm thông 
tin, lưu trữ, kiểm soát hiệu suất hoạt động của 
hệ thống và các yếu tố khác. 
Như vậy, dù rằng vai trò quản lý của cán bộ 
thư viện trong môi trường số được thể hiện 
ở những hoạt động khác nhau, thì vai trò này 
cũng gắn liền với mục tiêu hỗ trợ người dùng 
tin sử dụng thư viện hiệu quả nhất.
2.3. Vai trò định hướng và hỗ trợ người dùng 
tin trong hệ thống thông tin số 
Với vai trò này, người cán bộ thư viện cần 
24 | THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2016
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
biết sử dụng các phương tiện hiện đại trong 
hoạt động thư viện, có kiến thức và kỹ năng tốt 
trong việc sử dụng công nghệ thông tin nhằm 
xử lý, phân phối thông tin số và hỗ trợ người 
dùng tin. Đặc biệt, đối với hành vi thông tin 
của người dùng tin, cán bộ thư viện có vai trò 
hỗ trợ và hướng dẫn người dùng tin truy cập, 
tra cứu và sử dụng máy tính để tìm tin, bởi 
lẽ hệ thống tìm tin là một trong những công 
cụ hỗ trợ cho người dùng tích cực. Để thực 
hiện được vai trò này, đòi hỏi cán bộ thư viện 
phải có kiến thức tổng hợp về công cụ tra cứu 
và cấu trúc hệ thống tra cứu, từ đó giúp cán 
bộ thư viện có thể thực hiện được yêu cầu tìm 
tin, có được kết quả tìm tin phù hợp dành cho 
người dùng tin, khai thác tối đa hiệu quả của 
công cụ tìm tin mang lại. Ngoài ra, người cán 
bộ thư viện cần hiểu rõ hành vi thông tin của 
người dùng tin biểu hiện ở mức độ nào và với 
loại hình nào. 
Việc xác định từng loại hình hành vi thông 
tin của người dùng tin cho thấy, cán bộ thư 
viện là người có thể tiếp cận và tác động vào 
hành vi tìm kiếm thông tin của người dùng tin 
trong hệ thống thông tin của thư viện. Chẳng 
hạn, ở hành vi đọc lướt sâu cán bộ thư viện 
chính là người góp phần quyết định việc người 
dùng tin tiếp tục hay không tiếp tục đọc tài 
liệu khi họ đọc phần tóm tắt hay tiêu đề của tài 
liệu. Trong thực tế, ngoài tiêu đề là bắt buộc, 
một số bài viết không có sẵn phần tóm tắt 
nội dung tài liệu từ tác giả, ban biên tập hay 
từ nhà xuất bản, khi đó việc tạo các bản tóm 
tắt chất lượng là yêu cầu của cán bộ thư viện 
khi thực hiện vai trò này. Điều chắc chắn rằng, 
người dùng tin sẽ đọc toàn văn tài liệu đó khi 
họ nhận thấy phần tóm tắt phù hợp với yêu 
cầu tin của họ. Như vậy, cán bộ thư viện cần 
phải đảm bảo có những kỹ năng về tóm tắt tài 
liệu một cách đầy đủ, cô đọng, chính xác nhất 
trước khi tạo sản phẩm cung cấp cho người 
dùng tin. 
Một loại hình hành vi thông tin khác mà 
trong đó vai trò của cán bộ thư viện thể hiện 
rõ, đó là hành vi tích trữ thông tin. Th ực vậy, 
khi người dùng tin có nhu cầu thu thập và lưu 
trữ tài liệu trước khi họ bắt đầu đọc, cán bộ 
thư viện cần hỗ trợ người dùng ở các nhiệm 
vụ sau: 
Th ứ nhất, cán bộ thư viện cần giúp người 
dùng tin hiểu rõ và sử dụng hiệu quả các công 
cụ tra cứu như: hệ thống mục lục trực tuyến, 
danh mục tài liệu mới, hay cách thức tra cứu 
tin để người dùng tin có thể chủ động tìm tài 
liệu phù hợp.
Th ứ hai, việc lưu trữ tài liệu từ quá trình 
tìm kiếm của người dùng tin cần sự hỗ trợ từ 
cán bộ thư viện. Cụ thể, cán bộ thư viện cần 
cung cấp các hướng dẫn về kỹ năng thông tin 
hay phần mềm ứng dụng trong quản lý nguồn 
thông tin số, trong đó bao gồm kỹ năng tìm và 
lưu trữ thông tin một cách khoa học và logic. 
Điều này giúp người dùng tin dễ dàng tìm thấy 
tài liệu họ cần trong toàn bộ tài liệu mà họ đã 
thu thập được. 
Ngoài ra, hành vi thải hồi của người dùng 
tin sau khi tìm thấy thông tin không thích hợp 
cũng cần sự phối hợp và hỗ trợ của cán bộ thư 
viện. Ví dụ, nhằm hạn chế tối đa việc mất thời 
gian vào quá trình tìm tài liệu trong hệ thống 
thông tin và kết quả thu được là tài liệu không 
thích hợp, thì cán bộ thư viện cần có sự định 
hướng và hướng dẫn người dùng tin ngay từ 
thao tác tìm kiếm đầu tiên, cách thức đặt biểu 
thức tìm hay cách thức sử dụng thuật ngữ, 
toán tử tìm kiếm. Điều này giúp người dùng 
tin tránh lãng phí công sức, thời gian, đồng 
thời giúp người cán bộ thư viện thể hiện tốt 
vai trò của mình trong việc phối hợp và hỗ trợ 
người dùng tin. Trong trường hợp tương tự, 
cán bộ thư viện cũng có thể cung cấp các sản 
phẩm, dịch vụ TT-TV theo yêu cầu cụ thể của 
người dùng tin.
Bên cạnh những vai trò kể trên, cán bộ thư 
viện còn có rất nhiều những vai trò, nhiệm vụ 
khác phụ thuộc theo đặc thù từng vị trí công 
việc khác nhau, đòi hỏi mức độ chuyên môn 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2016 | 25
hóa cao hơn. Tuy vậy, dù với bất kỳ nhiệm vụ 
nào, đối với hành vi thông tin của người dùng 
tin, thông qua hệ thống thông tin số, cán bộ 
thư viện cần giữ vai trò là người định hướng, 
tác động, hỗ trợ và phục vụ người dùng tin, 
giúp người dùng tin thỏa mãn nhu cầu tin, 
khai thác và sử dụng thông tin đúng mục tiêu 
đã đề ra. Đó chính là ý nghĩa thực sự hướng 
tới việc xác định giá trị của thông tin đối với 
người dùng tin trong bối cảnh thông tin số 
hiện nay. 
Kết luận
Có thể thấy, hành vi thông tin là chuỗi hoạt 
động của một cá nhân tương tác với nguồn 
tin nhằm thỏa mãn nhu cầu tin của bản thân. 
Th ư viện đại học là một trong những nguồn 
tin có giá trị lớn, trong đó người cán bộ thư 
viện đóng vai trò đắc lực của một chuyên gia 
thông tin, một người truyền giao tri thức đến 
người dùng tin. Để thực hiện tốt điều này, 
mỗi cán bộ thư viện cần không ngừng đổi 
mới, nâng cao kiến thức chuyên môn-nghề 
nghiệp và thể hiện tốt vai trò của mình, nhằm 
định hướng và hỗ trợ hành vi thông tin của 
người dùng tin một cách hiệu quả và chất 
lượng nhất. 
------------------------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bates, M.J. (1989), “Th e design of 
browsing and berrypicking techniques for 
the online search interface”, Online Review, 
13 (5), 407-24. 
2. Bates, M.J. (2007), “What is browsing-
really? A model drawing from behavioural 
science research”, Information Research, 12 
(4). Retrieved October 10, 2011 from http://
InformationR.net/ir/12-4/paper330.html. 
3. Guest S.S. (1987), “The use of 
bibliographic tools by humanities faculty at 
the State University of New York at Albany”. 
Reference Librarian 18 : 157-172.
4. Majid, S. and Kassim, G.M. (2000), 
“Information seeking behavior of 
international Islamic University Malaysia 
Law Faculty members”, Malaysian Journal of 
Library and Information Scene, 5(2): 1-17.
5. Leckie, G.J., Pettigrew, K.E., Sylvain, C. 
(1996). “Modelling the information seeking 
of professionals: A general model derived 
from research on engineers, health care 
professionals, and lawyers”, Library Quarterly 
66 (2): 161-193.
6. Palmer, C.L., Teff eau, L.C. & Pirmann, 
C.M. (2009), “Scholarly Information 
Practices in the Online Environment: Th emes 
from the Literature and Implications for 
Library Service Development”. Retrieved 
March 21 2012 from www.oclc.org/research/
publications/library/2009/2009- 02.pdf. 
7. Rowlands, I. & Fieldhouse, M. (2007), 
“Information behaviour of the researcher 
of the future, Work Package I: Trends in 
Scholarly Information Behaviour”. Retrieved 
March 21 2012 from www.jisc.ac.uk/media/
documents/programmes/reppres/ggwor 
kpackagei.pdf. 
8. Shokeen, A., & Kushik, S.K. (2002), 
“Information seeking behavior of social 
scientists of Haryana universities”. Library 
Herald, 40 (1), 8-11.
9. Smith, E.S. (1987). “Document supply: 
Developments and problems”, IAALD 
Quarterly Bulletin 32 (1): 19-23.
10. Sreenivasulu, V. (in publication), “Role 
of information technologies in electronic 
information transfer and in providing value 
added information services’’, DESIDOC 
Bulletin of Information Technology. 
11. Wilson, T. (2000), “Human information 
behavior”, Incoming Scene, 3(2): 49-55.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 12-10-2015; 
Ngày phản biện đánh giá: 09-12-2015; Ngày 
chấp nhận đăng: 06-01-2016).

File đính kèm:

  • pdfcan_bo_thu_vien_dai_hoc_trong_quan_ly_he_thong_thong_tin_so.pdf