Bước ngoặt trong sự nghiệp đào tạo ngành thư viện - Thông tin Việt Nam

Thực hành trong chương trình đào tạo:

Ngoài những cơ sở lý luận định hướng thực hành, những môn học chuyên

ngành bám sát thực tế công tác thư viện và hoạt động thông tin hiện hành trong

điều kiện Việt Nam và hội nhập thế giới.

Vài minh họa về tính thực hành trong chương trình đào tạo này:

• Trong kiến thức cơ sở ngành, mục tiêu của môn học Thư mục học là chỉ

để thực hành biên soạn các loại thư mục chuyên đề và giới thiệu tài liệu.

Giúp cho sinh viên có kỹ năng lập thư mục theo phương pháp thủ công

và tự động. Không quan tâm đến khía cạnh xã hội như trước đây.

• Môn học Phương pháp nghiên cứu khoa học ứng dụng trong ngành

thư viện giúp học viên xây dựng và trình bày một bài báo cáo khoa học

hay luận văn.

• Môn học Trang thiết bị tin học trong thư viện với mục tiêu sử dụng có

hiệu quả các trang thiết bị tin học ứng dụng trong tất cả các công tác thư

viện và hoạt động thông tin. Sinh viên được học tính năng, giá cả, và

cách thức cập nhật những thông tin trên.

• Trong các môn học kiến thức ngành, môn Tự động hóa với mục tiêu

xây dựng hệ thống thông tin thư viện tự động hóa thì trước tiên phải dạy

cho sinh viên cách thức soạn thảo và tiến hành một dự án (Proposal –

Draft – Project). Phối hợp với kiến thức môn học Trang thiết bị tin học

trong thư viện và những môn học chuyên ngành khác, môn Tự động

hóa dạy cho sinh viên xác định vai trò của mình trong việc tự động hóa

một cơ quan thông tin là “đứng giữa lãnh đạo và nhà thầu” – thuyết

phục lãnh đạo và mặc cả với nhà thầu.

pdf 8 trang kimcuc 5600
Bạn đang xem tài liệu "Bước ngoặt trong sự nghiệp đào tạo ngành thư viện - Thông tin Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bước ngoặt trong sự nghiệp đào tạo ngành thư viện - Thông tin Việt Nam

Bước ngoặt trong sự nghiệp đào tạo ngành thư viện - Thông tin Việt Nam
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 12/2008 
6 
BƯỚC NGOẶT TRONG SỰ 
NGHIỆP ĐÀO TẠO NGÀNH 
THƯ VIỆN - THÔNG TIN 
VIỆT NAM 
NGUYỄN MINH HIỆP, BA., MS. 
GÐ Thư viện ÐH Khoa học Tự nhiên 
TP. HCM. 
 rong hơn thập niên qua việc đào tạo ngành thư viện thông tin (TVTT) ở 
nước ta hầu như chỉ đáp ứng được nhu cầu không thay đổi trong một xã hội 
đang đổi thay từng ngày! Có thể lý giải vấn đề này như sau: 
S Thư viện học thế giới đã từng phân đôi thành hai nền thư viện học xã hội 
chủ nghĩa thiên về lý thuyết và thư viện học tư bản chủ nghĩa thiên về thực 
hành trong thế kỷ trước, nay đã tiến đến hợp nhất thành một ngành khoa 
học duy nhất gắn liền với công nghệ thông tin (V.V. Xcvortxov). Hệ thống 
thư viện Việt Nam đã từng phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn 
chịu nhiều áp lực bởi quán tính của những giá trị cũ. 
S Chính những giá trị cũ đã tạo nên sức ì tâm lý làm cản trở mọi thay đổi để 
phát triển; đồng thời không thể hình thành được tư duy công nghệ mới về 
ngành nghề của mình cho học viên và sinh viên, trong khi bản thân xã hội 
công nghiệp ngày nay đã tự hình thành cho mọi người quán tính tư duy 
công nghệ mới đời thường – Một sinh viên TVTT tự biết cách tải nhạc trên 
mạng về cho điện thoại di động của mình một cách dễ dàng, nhưng không 
biết cách lấy thông tin từ kho tài nguyên mở (open resources) trên mạng để 
cung cấp theo yêu cầu của độc giả! 
Cũng ngần ấy thời gian, hoạt động TVTT ở khu vực phía Nam có phần sinh 
động hơn – Từ Câu lạc bộ Thư viện đến FESAL rồi VILASAL đã tổ chức hàng 
trăm khóa tập huấn nghiệp vụ thư viện đổi mới với phương châm “Hình thành 
giá trị mới và bổ sung những điều trường lớp chính quy chưa dạy”, đã tạo nên 
một bước ngoặt trong việc đổi mới hoạt động thư viện, giúp cho hàng loạt thư 
viện đại học phía Nam cải tạo và xây dựng thư viện hiện đại theo hướng CHUẨN 
HÓA – HỘI NHẬP – PHÁT TRIỂN, có ảnh hưởng đến việc đổi mới tư duy cho 
đồng nghiệp trong cả nước. 
Những người cán bộ thư viện có tâm huyết đã đặt nền móng cho việc đổi mới 
ngành TVTT nước nhà, nay đã hỗ trợ cho Khoa Thư viện Thông tin trường Đại 
học Sài Gòn thiết kế một chương trình đào tạo hoàn toàn đổi mới dựa trên quan 
điểm TVTT là một ngành khoa học thực hành và gắn liền với công nghệ thông tin, 
được Bộ Giáo dục-Đào tạo phê duyệt năm 2007. Chương trình này đang được 
triển khai giảng dạy theo hệ tín chỉ bắt đầu từ năm học 2008-2009 tại Khoa Thư 
viện Thông tin của Trường Đại học Sài Gòn với một phương thức giảng dạy 
hoàn toàn đổi mới. 
T 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 12/2008 
7 
Chương trình đào tạo TVTT đổi mới này ngoài việc không bị áp lực bởi những 
giá trị cũ chi phối đã dựa vào ba tiêu chí cơ bản sau: 
− Ngành TVTT là ngành khoa học thực hành; 
− Chương trình đào tạo phải chuẩn hóa; 
− Gắn liền với công nghệ thông tin. 
1. Thư viện thông tin là một ngành khoa học thực hành. 
Những giá trị cũ làm lý thuyết hóa ngành TVTT đã không còn phù hợp với kỷ 
nguyên thông tin ngày nay. Do đó việc đào tạo ngành TVTT phải dựa trên cơ sở 
thực hành được thể hiện trong chương trình, giáo trình, và phương thức giảng 
dạy. 
1.1. Thực hành trong chương trình đào tạo: 
Ngoài những cơ sở lý luận định hướng thực hành, những môn học chuyên 
ngành bám sát thực tế công tác thư viện và hoạt động thông tin hiện hành trong 
điều kiện Việt Nam và hội nhập thế giới. 
Vài minh họa về tính thực hành trong chương trình đào tạo này: 
• Trong kiến thức cơ sở ngành, mục tiêu của môn học Thư mục học là chỉ 
để thực hành biên soạn các loại thư mục chuyên đề và giới thiệu tài liệu. 
Giúp cho sinh viên có kỹ năng lập thư mục theo phương pháp thủ công 
và tự động. Không quan tâm đến khía cạnh xã hội như trước đây. 
• Môn học Phương pháp nghiên cứu khoa học ứng dụng trong ngành 
thư viện giúp học viên xây dựng và trình bày một bài báo cáo khoa học 
hay luận văn. 
• Môn học Trang thiết bị tin học trong thư viện với mục tiêu sử dụng có 
hiệu quả các trang thiết bị tin học ứng dụng trong tất cả các công tác thư 
viện và hoạt động thông tin. Sinh viên được học tính năng, giá cả, và 
cách thức cập nhật những thông tin trên. 
• Trong các môn học kiến thức ngành, môn Tự động hóa với mục tiêu 
xây dựng hệ thống thông tin thư viện tự động hóa thì trước tiên phải dạy 
cho sinh viên cách thức soạn thảo và tiến hành một dự án (Proposal – 
Draft – Project). Phối hợp với kiến thức môn học Trang thiết bị tin học 
trong thư viện và những môn học chuyên ngành khác, môn Tự động 
hóa dạy cho sinh viên xác định vai trò của mình trong việc tự động hóa 
một cơ quan thông tin là “đứng giữa lãnh đạo và nhà thầu” – thuyết 
phục lãnh đạo và mặc cả với nhà thầu. 
• Với môn Mạng thông tin thư viện giúp sinh viên hiểu rõ những hình 
thức tổ chức và liên kết thư viện trong hệ thống thư viện (library 
system) và liên hiệp thư viện (consortium). Chương trình được thiết kế 
để sinh viên phải thực hành thường xuyên trên những cơ sở dữ liệu trực 
truyến cũng như tất cả các hệ thống tài nguyên mở (open resources), đặc 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 12/2008 
8 
biệt là cách khai thác hệ thống thư viện số ảo của tất cả các trường đại 
học danh tiếng trên thế giới. 
• Trong những môn tự chọn, môn Tài trợ thư viện mang tính thực tiễn 
cao. Ngày nay để vận hành và hoạt động tốt một thư viện hay một hệ 
thống thư viện thì phải cần đến nguồn tài trợ ngoài ngân sách nhà nước. 
Sinh viên được học cách lập kế hoạch tài chánh cho hoạt động thư viện 
và tìm kiếm nguồn tài trợ. 
• Ngành TVTT thế giới tự hào về một Mạng công cụ thư tịch của ngành 
mình đó là OCLC. Sinh viên cần phải được học Mạng công cụ thư tịch 
OCLC để biết cách khai thác nhằm hỗ trợ cho công việc chuyên môn 
của mình. 
1.2. Thực hành trong giáo trình. 
Để đáp ứng yêu cầu giảng dạy chương trình TVTT đổi mới. Một Ban biên soạn 
giáo trình đã hình thành với một lộ trình hoàn thành bộ giáo trình cơ bản trong 
hai năm. 
 Giáo trình được biên soạn theo phương thức: 
• Phân hệ hóa: được chia ra từng phần độc lập với nhiều tiêu đề; 
• Chương trình hóa: liên kết ý tưởng trong những tiêu đề của những 
phân hệ với nhau bằng những “chỉ chỗ” đến nơi cần tham khảo. 
 Do đó thông tin trong giáo trình sẽ ngắn, gọn, và súc tích với chủ trương 
giáo trình là công cụ để thực hành. 
1.3. Thực hành trong phương thức giảng dạy 
Phương thức giảng dạy theo hệ tín chỉ dựa trên cơ sở sinh hoạt học tập theo 
nhóm : 
• Tất cả các môn học chuyên ngành đều được chia nhóm đi thực tập hàng 
tuần tại các thư viện trong thành phố – học đến đâu thực tập đến đó; 
• Các nhóm nhận xét, đánh giá qua thực tế, so sánh với nội dung học tập 
và thảo luận trong nhóm, rồi trình bày trước lớp bằng cách báo cáo hay 
thuyết trình – sinh viên trong nhóm thay phiên nhau để trình bày và cả 
lớp tham gia thảo luận; 
• Việc thực hành hỏi-đáp, thảo luận, tranh luận, thuyết trình không những 
được khuyến khích mà là một sinh hoạt bắt buộc. Điểm thực hành này 
được tính vào điểm thi học kỳ. Do đó, sinh viên sau một thời gian ngắn 
đã có thói quen sinh hoạt học tập sôi nổi trong lớp. Chính điều này cũng 
mang đến sự hưng phấn trong học tập của sinh viên. 
• Với phương thức thực hành trong giảng dạy và đi thực tập thường 
xuyên đã giúp cho sinh viên tìm hiểu về ngành nghề của mình, tự nhận 
xét và phân tích được những ưu, khuyết, tồn tại cần khắc phục. Dần dần 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 12/2008 
9 
sinh viên đã hình thành cho mình kỹ năng “đáp ứng nhu cầu và thay đổi 
nhu cầu cho hoạt động TVTT nước nhà”. 
2. Chương trình đào tạo phải chuẩn hóa. 
Trước hết phải chuẩn hóa các thuật ngữ thư viện học. Trong quá trình giảng dạy, 
giảng viên cố gắng chuyển những thuật ngữ thư viện học tiếng Việt chuẩn hóa 
sang tiếng Anh tương đương (Không cố gắng dịch những thuật ngữ tiếng Việt 
không có trong thuật ngữ thư viện học tiếng Anh). Điều này làm hạn chế và bỏ 
hẳn việc sử dụng một số thuật ngữ TVTT tiếng Việt mang tính chất nôm na và 
thiếu chính xác, đang được sử dụng khá rộng rãi trong đại bộ phận cán bộ thư 
viện trong nước; đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện cho sinh viên tiếp cận 
với tài liệu chuyên ngành TVTT tiếng Anh chính thống thông qua sách, báo, tạp 
chí, và World-Wide-Web. 
Minh họa một số môn học chuyên ngành đòi hỏi phải chuẩn hóa cao độ: 
• Môn học Cơ sở khoa học thông tin và thư viện là môn chuyên ngành đầu 
tiên được giảng dạy nhằm giúp sinh viên có một cái nhìn tổng thể về công 
tác thư viện thông qua thư viện học với những giá trị chuẩn hóa trong từng 
công việc: mô tả tài liệu theo ISBD và AACR2, phân loại theo DDC và 
LCC, ấn định tiêu đề đề mục theo LCSH và Sears List, biên mục máy đọc 
được theo MARC21, hệ thống mục lục theo tiêu đề (tiêu đề tác giả, tiêu đề 
nhan đề, và tiêu đề đề mục), vv...; về hoạt động thông tin thông qua thông 
tin học với dịch vụ tham khảo; cũng như về việc ứng dụng công nghệ mới 
với nhiều chuẩn kỹ thuật và chuẩn thư tịch trong môi trường điện tử cùng 
với phần mềm nguồn mở để xây dựng thư viện số. 
Môn học này dạy cho sinh viên biết cách trình bày thông tin bằng một 
bài báo cáo viết theo đúng tiêu chuẩn; và phương thức cũng như kỹ năng 
trình bày một bài báo cáo bằng lời trước công chúng – Đây là những kỹ 
năng mà sinh viên thường xuyên thực hành suốt cả thời gian học tập. 
Kết quả của môn học giúp cho sinh viên định hình được những gì mình 
phải thực hành trong thời gian học tập và công việc gì mình sẽ làm khi ra 
trường. Và nhận thức được rằng Khoa học thông tin và thư viện là một 
ngành học thú vị với lý luận và thực tiễn của một ngành khoa học hiện đại. 
• Đối với môn học Phân loại tài liệu, ngay từ đầu phải khẳng định với sinh 
viên rằng mục tiêu chính yếu (nếu không muốn nói là duy nhất) của phân 
loại tài liệu là để xếp tài liệu trên giá theo môn loại. Con số phân loại biểu 
thị nội dung tài liệu là để xếp giá. Do đó không bao giờ có ý tưởng rằng con 
số phân loại phải thể hiện chính xác và đầy đủ nội dung một tài liệu. Điều 
này được thể hiện bởi tiêu đề đề mục trong hệ thống mục lục đề mục. 
Đối với thực hành Phân loại DDC, một lưu ý hết sức quan trọng cho 
sinh viên rằng luôn luôn thực hiện công việc phân loại theo sự chỉ dẫn “tận 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 12/2008 
10 
răng” dưới các mục từ trong Bảng chính cũng như Bảng phụ trong Khung 
phân loại DDC. 
Sử dụng lưu đồ (Flowchart) giải thích quy trình phân loại một tài liệu để 
giúp sinh viên hiểu một cách trực quan. 
• Trong môn học Biên mục mô tả cần phân biệt giữa ý nghĩa của tiêu chuần 
và qui tắc để giúp sinh viên nhận thức rằng ISBD là tiêu chuẩn mô tả thư 
tịch quốc tế, tất cả những qui tắc mô tả chuẩn hóa đều dựa vào ISBD, chẳng 
hạn như Qui tắc biên mục Anh-Mỹ AACR2. 
Mặc dù AACR2 khá phức tạp, nhưng đây là qui tắc biên mục mô tả 
được sử dụng trong việc hình thành biểu ghi thư tịch trong hệ thống OPAC 
(Biên muc truy cập công cộng trực tuyến) có giá trị chuẩn hóa toàn cầu. 
Môn học này hướng dẫn sinh viên sử dụng thành thạo AACR2. 
Song song với việc học các qui tắc biên mục mô tả, sinh viên được học 
khổ mẫu MARC21 với việc tích hợp từng trường cụ thể. Môn học này giúp 
sinh viên kỹ năng biên mục MARC không những sử dụng trong biên mục 
mô tả mà còn trong những ứng dụng khác. 
• Phải thừa nhận rằng môn học Biên mục đề mục là quan trọng nhất trong tất 
cả các môn học về kiểm soát thư tịch – công việc tạo lập biểu ghi thư tịch 
bao gồm trong biên mục mô tả, phân loại, biên mục đề mục, chỉ mục, tóm 
tắt, và lập thư mục. 
Biên mục đề mục để tạo ra tiêu đề đề mục phản ánh chính xác nội dung 
tài liệu, được tập trung trong hệ thống mục lục đề mục nhằm phản ánh toàn 
bộ nội dung vốn tài liệu của một thư viện đồng thời phục vụ đắc lực công 
việc truy cập theo chủ đề. 
Sử dụng lưu đồ giải thích quy trình ấn định tiêu đề đề mục để giúp sinh 
viên hiểu một cách trực quan. 
Dạy sinh viên cấu trúc và cách sử dụng hai Khung tiêu đề đề mục chuẩn 
là Sears List of Subject Headings và Library Congress of Subject Headings 
(Dùng trong biên mục đề mục sách và các tài liệu thông tin khác). Ngoài ra 
phải biết phân biệt với Từ điển từ chuẩn – Thesaurus (thường được biên 
soạn theo chuyên ngành, được dùng để định từ khóa trong chỉ mục thông 
tin tư liệu). 
• Môn học Chỉ mục, trích dẫn, và tóm tắt tài liệu chủ yếu là dùng trong hoạt 
động thông tin. Mục tiêu là chỉ mục, trích dẫn, và tóm tắt thông tin tư liệu. 
Sinh viên học môn học này được thực hành nghiệp vụ SDI – Phổ biến 
thông tin có chọn lọc. 
• Dịch vụ tham khảo ngày nay được xem như là sinh hoạt chính của bộ phận 
Công tác bạn đọc hay Dịch vụ thông tin trong một thư viện chuẩn hóa. 
Người ta đánh giá thư viện qua dịch vụ tham khảo của thư viện đó – Khả 
năng thư viện sử dụng công nghệ mới để đáp ứng yêu cầu thông tin đến 
mức độ nào?. Cần phải làm rõ quan điểm này trước khi bắt đầu giảng dạy 
môn học Tham khảo. 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 12/2008 
11 
Ngoài những nghiệp vụ đặc thù của tham khảo như đánh giá và xây 
dựng sưu tập tham khảo, tìm kiếm thông tin, hướng dẫn tìm tin, vv... bản 
thân môn học Tham khảo là sự phối hợp các môn học Công tác bạn đọc, 
Kỹ năng giao tiếp, và Công nghệ Web. 
Sinh viên được học từ những kỹ năng tham khảo cốt lỏi như phỏng vấn, 
căn bản như tìm kiếm và phân tích thông tin, xây dựng thư mục đến thực 
hành dịch vụ tham khảo tại bàn, trực tuyến (chat reference), tham khảo ảo, 
tái đóng gói thông tin, vv... 
Môn học Tham khảo được phát triển liên tục theo tốc độ phát triển của 
công nghệ mới. 
3. Chương trình đào tạo gắn liền với công nghệ thông tin. 
TVTT là một ngành khoa học gắn liền với công nghệ thông tin (CNTT). Phải giúp 
sinh viên nhận thức rằng CNTT không phải chỉ là ứng dụng trong ngành TVTT 
mà chính là nghiệp vụ của TVTT. Hàng ngày, ngoài những công việc thư viện 
truyền thống, người cán bộ TTTV phải đối mặt với những công việc: 
− Truy hồi thông tin trên Internet; 
− Thiết kế và bảo trì trang web; 
− Trình bày thông tin và xuất bản điện tử; 
− Biên mục trên web; 
− Xây dựng những bộ sưu tập số; 
− Phổ biến thông tin có chọn lọc cho người sử dụng; 
− Tái đóng gói thông tin phục vụ công tác tham khảo; 
− vv 
Đó là những công việc đòi hỏi kiến thức CNTT, hay chính xác hơn là công nghệ 
Web. Những môn học có đề cập và cung cấp kiến thức về CNTT và Web bao 
gồm: 
• Môn học Cơ sở khoa học thông tin và thư viện có phần đề cập đến Công 
nghệ mới và Thư viện số đã giải thích cho sinh viên quán triệt rằng Web là 
công nghệ của ngành TVTT trong hiện tại và tương lai. 
• Môn học Trang thiết bị tin học trong thư viện là môn học đầu tiên sinh 
viên làm quen với CNTT thông qua những vật dụng ngày càng trở nên quen 
thuộc trong một cơ quan thông tin chứ không phải chỉ có những giá kệ 
sách. 
• Môn học Tự động hóa dạy tất cả những ứng dụng tin học trong một hệ 
thống thông tin tự động hóa, trong đó có phần mềm quản lý thư viện. Môn 
học Tự động hóa cho thấy vị trí đứng giữa lãnh đạo và nhà thầu của người 
cán bộ thư viện trong việc tự động hóa là để thuyết phục lãnh đạo bằng kiến 
thức nghiệp vụ TVTT của mình; và mặc cả với nhà thầu bằng kiến thức 
CNTT được cập nhật. 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 12/2008 
12 
• Môn học Mạng thông tin thư viện dạy sinh viên sử dụng công nghệ Web 
để tìm kiếm thông tin trên mạng. 
• Môn học Trình bày thông tin và xuất bản điện tử dạy sinh viên cơ bản về 
công nghệ Web phục vụ những hoạt động thông tin trong một cơ quan 
thông tin ngày nay. 
Thiết kế và bảo trì trang Web. Trình bày thông tin lên trang Web hay 
cổng thông tin của thư viện. Xuất bản bản tin điện tử trên mạng. 
• Môn học Thư viện số là ứng dụng cao nhất của công nghệ Web đối với 
ngành TVTT. Những khái niệm cũng như những tiêu chuẩn truy hồi, biên 
mục, lưu trữ, chuyển tải, trình bày tài nguyên số được giải thích rõ ràng. 
Chẳng hạn như chuẩn Dublin Core và METS. 
Phương thức xây dựng kho số và bảo trì tài nguyên số. Sử dụng phần 
mềm nguồn mở xây dựng thư viện số bằng cách tạo lập siêu dữ liệu 
(building metadata) để xây dựng bộ sưu tập số nội sinh và gặt hái siêu dữ 
liệu (harvesting metadata) để xây dựng bộ sưu tập ảo. 
• Môn học Tham khảo 2 đúc kết những ứng dụng của các môn học Tự động 
hóa, Mạng thông tin thư viện, Trình bày thông tin và xuất bản điện tử, và 
Thư viện số luôn luôn cập nhật những công nghệ mới để giảng dạy sinh 
viên. 
• Trong bốn môn học tự chọn liên quan đến CNTT, môn Mạng công cụ thư 
tịch OCLC mang tính chất phổ biến cho tất cả sinh viên. Ba môn Quản trị 
mạng máy tính, Phân tích và thiết kế hệ thống, và Truyền thông đa 
phương tiện rất cần thiết cho việc ứng dụng tin học trong hoạt động TVTT 
vào việc tự động hóa, điều hành một mạng cục bộ, và thiết kế và bảo trì 
trang Web nhiều chức năng. Những sinh viên có trình độ CNTT khá được 
khuyến khích chọn những môn học quan trọng này. 
Kết luận 
TVTT là một ngành chuyên nghiệp (professional) đòi hỏi việc đào tạo phải 
thiên về thực hành. Sinh viên được chia nhóm và thực tập thường xuyên tại những 
cơ quan thông tin trong thành phố, tạo thói quen học và làm bài tập theo nhóm, 
thảo luận nhóm và báo cáo kết quả trong lớp nhằm tạo cho sinh viên kỹ năng sử 
dụng công nghệ mới để thay đổi nhu cầu xã hội theo những kiến thức mới được 
học từ nhà trường. Đây chính là một phương pháp giảng dạy hoàn toàn đổi 
mới. 
TVTT là một ngành gắn liền với công nghệ thông tin nên luôn phát triển và 
thay đổi. Những môn học thiên về lý thuyết được thay thế bằng những môn học 
công nghệ mới năng động nhằm giúp sinh viên hình thành tư duy công nghệ mới 
để thay đổi nhu cầu xã hội phù hợp với từng giai đoạn phát triển theo công nghệ. 
Đây chính là một chương trình giảng dạy hoàn toàn đổi mới. 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 12/2008 
13 
Vai trò thư viện không thay đổi, nhưng làm thế nào để thực hiện vai trò đó thì 
thay đổi theo sự phát triển của công nghệ mới. Cần phải có một chương trình đào 
tạo nguồn nhân lực thông tin thư viện không chỉ để đáp ứng nhu cầu mà luôn 
luôn đổi mới để thay đổi nhu cầu xã hội mới thực sự đáp ứng được đà phát triển 
của ngành TVTT hiện đại; đồng thời có thể cung ứng cho xã hội một nguồn nhân 
lực có trình độ nghiệp vụ thông tin thư viện chuẩn hóa cùng với kiến thức CNTT 
vững vàng để đảm trách công việc quản lý thông tin trong bất cứ một cơ quan 
thông tin nào cũng như trong tất cả các công ty, xí nghiệp, doanh nghiệp, cơ sở 
quản lý, cơ quan công quyền, vv... 
Chương trình đào tạo đổi mới như được trình bày trong bài viết này đang được 
triển khai thành công, chắc chắn sẽ tạo nên một bước ngoặt trong sự nghiệp đào 
tạo ngành TVTT ở nước ta. 
Sinh viên Thư viện - Thông tin Đại học Sài Gòn học tập Chương trình đào tạo hoàn toàn 
đổi mới với Phương thức giảng dạy hoàn toàn đổi mới – Sinh viên đang thảo luận 
về “Biên mục đề mục” (năm II) và thuyết trình về việc thực hành tạo lập siêu dữ liệu 
để xây dựng bộ sưu tập số bằng phần mềm nguồn mở Greenstone (năm III). 
Tài liệu tham khảo 
1. Chương trình Giáo dục đại học. Ngành đào tạo: Thư viện Thông tin. 
Trình độ đào tạo: Đại học / Trường Đại học Sài Gòn. Khoa Thư viện Thông 
tin. – TP. Hồ Chí Minh, 2008. 
2. NGUYỄN MINH HIỆP. – Cơ sở khoa học thông tin và thư viện. – TP. Hồ 
Chí Minh : Giáo dục, 2008. 
3. XCVORTXOV, V. V. – Thư viện học đại cương: Phần 1: Những cơ sở lý 
thuyết của thư viện học / Nguyễn Thị Thư dịch. – Hà Nội: Văn hóa Thông 
tin, 2004 

File đính kèm:

  • pdfbuoc_ngoat_trong_su_nghiep_dao_tao_nganh_thu_vien_thong_tin.pdf