Bộ quy tắc biên mục RDA đã ra đời đánh dấu sự thay đổi quan trọng trong biên mục

Theo kế hoạch, RDA đã phát hành vào

năm 2009. Mặc dù có sự chậm trễ, nhưng

cuối cùng RDA đã ra đời phản ánh một sự

chuyển hướng kịp thời nhằm hình thành

một Bộ Quy tắc biên mục hoàn toàn phù

hợp với giai đoạn chuyển đổi biên mục

hiện nay – Biên mục dựa trên môi trường

Web. Một lần nữa, biên mục thay đổi có

nghĩa rằng lịch sử thư viện sang trang: Thư

viện trong thế giới số. Công nghệ thông tin

và viễn thông (ITT), đặc biệt là công nghệ

Web, đóng vai trò then chốt trong hoạt

động thông tin – thư viện.

Biên mục là một công việc thú vị nếu

bạn thực sự là người biết giá trị của sự

thay đổi và có tư duy công nghệ mới (phải

được trang bị ngay từ những bước chân

đầu tiên vào một trường đại học thông tin

– thư viện). Ngày xưa người ta biên mục

để hình thành những phiếu mục lục bằng

cách viết tay, đánh máy, quay ronéo, rồi in

từ máy vi tính. Có người cho rằng lịch sử

thư viện là lịch sử biên mục. Thật không

ngoa khi chúng ta thấy rằng những mốc

phát triển thư viện trùng khớp với những

đổi thay quan trọng trong công tác biên

mục. Ngày nay, biên mục phục vụ công

việc thiết lập siêu dữ liệu (metadata

building) để tạo nên những bộ sưu tập số

nội sinh và gặt hái siêu dữ liệu (metadata

harvesting) để tạo nên sưu tập ảo.

Do đó, thay đổi là một đặc điểm của

ngành biên mục – thay đổi nhanh và trở

nên có thiết thực hơn. Thay đổi lần này

không những chúng ta phải đối diện với

dạng thức số mới và những thách thức mới

trong biên mục, mà còn có những mô hình

mới về hợp tác quốc tế, năng lực công

nghệ thông tin phát triển, những ý tưởng

mới về cách xây dựng hệ thống thư tịch

toàn cầu và cách để quản lí nó.

Đối với chúng ta hiện nay, thay đổi chủ

yếu chính là sự chấp nhận sử dụng RDA

để thay thế AACR2. Bộ Quy tắc biên mục

RDA mới với những khác biệt, nó có một

cấu trúc lạ được gọi là “Furbur” hay

FRBR.

Mặc khác, RDA cũng quan hệ gần với

AACR. Mặc dù có nhiều khác biệt nhưng

rõ ràng RDA không xa vời với một hình

thức khai sinh kế tiếp (next generation)

của AACR, không phải là một người xa lạ;

được chỉnh sửa một cách kế thừa chứ

không phải được tạo nên trong phòng thí

nghiệm bởi những nhà khoa học điên

khùng.

pdf 7 trang kimcuc 2700
Bạn đang xem tài liệu "Bộ quy tắc biên mục RDA đã ra đời đánh dấu sự thay đổi quan trọng trong biên mục", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bộ quy tắc biên mục RDA đã ra đời đánh dấu sự thay đổi quan trọng trong biên mục

Bộ quy tắc biên mục RDA đã ra đời đánh dấu sự thay đổi quan trọng trong biên mục
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 12/2010 
15
 ai trò thư viện không thay đổi, nhưng làm thế nào để thực hiện vai trò đó thì thay 
đổi (TS. Varaprasad – GĐ. Thư viện Quốc gia Singapore phát biểu tại buổi họp mặt của Ban 
chấp hành CONSAL XIV với cán bộ thư viện VILASAL tại Thư viện ĐH Khoa học Tự nhiên 
ngày 22/4/2008). Thay đổi không phải là dễ dàng, nhưng nó là chìa khóa cho tương lai 
(Bà Leslie Burger – Chủ tịch Hiệp hội Thư viện Hoa Kì phát biểu tại cuộc hội thảo quốc tế về 
thông tin – thư viện của FESAL tại Trường ĐH Khoa học Tự nhiên ngày 28/8/2006). 
TS. Barbara Tillett và Ông John Attig (những người tham gia biên soạn RDA) cắt chiếc bánh 
RDA trong dịp lễ ra mắt Bộ Quy tắc biên mục RDA tại ALA 2010 
Ngày 28 tháng 6 năm 2010, Bộ Quy tắc 
biên mục RDA đã chính thức ra mắt tại 
Hội nghị thường niên của Hiệp hội Thư 
viện Hoa Kì (ALA 2010) được tổ chức tại 
thủ đô Washington, DC., Hoa Kì. 
RDA ra đời chính thức thay thế cho Bộ 
Quy tắc biên mục Anh-Mĩ AACR2, đánh 
dấu một sự thay đổi quan trọng trong biên 
mục nói riêng và thư viện học nói chung. 
Sau khi làm lễ ra mắt, mọi người được truy 
cập miễn phí để sử dụng RDA trực tuyến 
trong vòng hai tháng (đến hết này 
31/8/2010). Trong khoảng thời gian đó đã 
có hàng ngàn người truy cập để tìm hiểu 
RDA. 
Trong bài viết “Phát triển RDA để 
thay thế AACR2” được đăng trong Bản tin 
Thư viện - Công nghệ thông tin tháng 
10/2007 ( có thể truy cập tại website : 
07/bai4.pdf ) chúng tôi đã giới thiệu khái 
quát về việc hình thành AACR2 và dự 
kiến phát triển AACR3 vào năm 2007 của 
JSC (Ban chỉ đạo biên soạn AACR); đồng 
thời cũng ghi nhận sự chuyển hướng tại 
Hội nghị thường niên của Hiệp hội Thư 
BỘ QUY TẮC BIÊN MỤC RDA ĐÃ RA ĐỜI 
ĐÁNH DẤU SỰ THAY ĐỔI QUAN TRỌNG TRONG BIÊN MỤC 
NGUYỄN MINH HIỆP, BA., MS. 
GĐ. Thư viện ĐH. Khoa học Tự nhiên TP. HCM. 
V
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 12/2010 
16
viện Hoa Kì (ALA 2005) tại Chicago: 
Thay vì phát triển AACR3 thì quyết định 
phát hành một ấn bản hoàn toàn mới phản 
ánh những tiêu chuẩn mới, đó là Resource 
Description and Access (RDA), tạm dịch 
là Truy cập và mô tả tài nguyên (i). 
Theo kế hoạch, RDA đã phát hành vào 
năm 2009. Mặc dù có sự chậm trễ, nhưng 
cuối cùng RDA đã ra đời phản ánh một sự 
chuyển hướng kịp thời nhằm hình thành 
một Bộ Quy tắc biên mục hoàn toàn phù 
hợp với giai đoạn chuyển đổi biên mục 
hiện nay – Biên mục dựa trên môi trường 
Web. Một lần nữa, biên mục thay đổi có 
nghĩa rằng lịch sử thư viện sang trang: Thư 
viện trong thế giới số. Công nghệ thông tin 
và viễn thông (ITT), đặc biệt là công nghệ 
Web, đóng vai trò then chốt trong hoạt 
động thông tin – thư viện. 
Biên mục là một công việc thú vị nếu 
bạn thực sự là người biết giá trị của sự 
thay đổi và có tư duy công nghệ mới (phải 
được trang bị ngay từ những bước chân 
đầu tiên vào một trường đại học thông tin 
– thư viện). Ngày xưa người ta biên mục 
để hình thành những phiếu mục lục bằng 
cách viết tay, đánh máy, quay ronéo, rồi in 
từ máy vi tính. Có người cho rằng lịch sử 
thư viện là lịch sử biên mục. Thật không 
ngoa khi chúng ta thấy rằng những mốc 
phát triển thư viện trùng khớp với những 
đổi thay quan trọng trong công tác biên 
mục. Ngày nay, biên mục phục vụ công 
việc thiết lập siêu dữ liệu (metadata 
building) để tạo nên những bộ sưu tập số 
nội sinh và gặt hái siêu dữ liệu (metadata 
harvesting) để tạo nên sưu tập ảo. 
Do đó, thay đổi là một đặc điểm của 
ngành biên mục – thay đổi nhanh và trở 
nên có thiết thực hơn. Thay đổi lần này 
không những chúng ta phải đối diện với 
dạng thức số mới và những thách thức mới 
trong biên mục, mà còn có những mô hình 
mới về hợp tác quốc tế, năng lực công 
nghệ thông tin phát triển, những ý tưởng 
mới về cách xây dựng hệ thống thư tịch 
toàn cầu và cách để quản lí nó. 
Đối với chúng ta hiện nay, thay đổi chủ 
yếu chính là sự chấp nhận sử dụng RDA 
để thay thế AACR2. Bộ Quy tắc biên mục 
RDA mới với những khác biệt, nó có một 
cấu trúc lạ được gọi là “Furbur” hay 
FRBR. 
Mặc khác, RDA cũng quan hệ gần với 
AACR. Mặc dù có nhiều khác biệt nhưng 
rõ ràng RDA không xa vời với một hình 
thức khai sinh kế tiếp (next generation) 
của AACR, không phải là một người xa lạ; 
được chỉnh sửa một cách kế thừa chứ 
không phải được tạo nên trong phòng thí 
nghiệm bởi những nhà khoa học điên 
khùng. 
Được xây dựng dựa trên sự hình thành 
Bộ Quy tắc biên mục Anh-Mĩ (AACR), 
RDA sẽ cung cấp một bộ tập hợp rộng 
rãi những chỉ dẫn và giải thích về truy 
cập và mô tả tài nguyên bao gồm tất cả 
các loại hình tài liệu và đa phương 
tiện. Tiêu chuẩn mới là đang được phát 
triển cho việc sử dụng chủ yếu trong 
thư viện, nhưng đang được bàn bạc để 
đảm nhận luôn việc sử dụng trong 
những cộng đồng khác (lưu trữ, bảo 
tàng, xuất bản, vv) trong một nỗ lực 
để đạt được một mức độ có hiệu quả 
trong sự liên kết giữa RDA với những 
tiêu chuẩn siêu dữ liệu được dùng 
trong những cộng đồng đó. (JSC – Ban 
chỉ đạo biên soạn RDA, 2008.) 
Để sử dụng RDA, những biên mục viên 
nên ghi nhận những thay đổi và khác biệt, 
học tập những quy tắc mới và những 
nguyên tắc căn bản mà RDA dựa vào, và 
hơn thế nữa phải sẳn sàng dạy cho những 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 12/2010 
17
đồng nghiệp về công cụ mới để sử dụng 
trong việc truy cập và mô tả tài nguyên 
trong thế kỉ XXI. 
1. Khái quát về RDA 
RDA ra đời là sự kế thừa của AACR2. 
Đáng lí ra nó đã được mang tên AACR3, 
nhưng vào tháng 4/2005, Ban chỉ đạo tu 
chính AACR (JSC) đã thay đổi ý định ban 
đầu và có quyết định mới rằng một tiêu 
chuẩn mới được thiết kế cho môi trường số 
là thích hợp hơn. Do đó, ấn bản mới sẽ bao 
gồm những chỉ dẫn và giải thích việc truy 
cập và mô tả cho tất cả tài nguyên số 
(digital) và liên biến (analog) (ii), mang 
đến hệ quả là sử dụng cho tất cả các biểu 
ghi trong môi trường số (Internet, Web 
OPAC, vv). 
Từ đó, tên mới RDA – Resource 
Description and Access được khai sinh 
phản ánh sự thay đổi vừa hình thức và 
phạm vi sử dụng. RDA là một tiêu chuẩn 
mới cho việc truy cập và mô tả tài nguyên 
trong thế giới số. RDA sẽ cung cấp: 
− Một khung linh hoạt để mô tả tất cả 
các tài nguyên – liên biến và số; 
− Dữ liệu thích ứng với những cấu 
trúc cơ sở dữ liệu mới mẽ và hiện 
đại; 
− Dữ liệu tương thích với những biểu 
ghi đang tồn tại trong những mục 
lục thư viện trực tuyến. 
 Để giải thích thêm về danh xưng RDA 
thì ta cũng nên biết rằng AACR2 được 
xuất bản đầu tiên vào năm 1978, đã được 
nhiều lẩn cập nhật nhưng cơ bản vẫn dựa 
vào môi trường được thống trị bởi mục lục 
phiếu. Một Hội nghị quốc tế về phát triển 
nguyên tắc và tương lai của AACR được 
tổ chức ở Toroto, Canada vào năm 1997 
(iii) đã xác định nhiều vấn đề tồn tại trong 
AACR2. Thế nhưng, những lần cập nhật 
sau hội nghị này vẫn không giải quyết 
được những vấn đề này cho đến khi các 
nhà thư viện học phải suy nghĩ lại rằng cơ 
bản là những mã số phải đáp ứng đầy đủ 
những thách thức và cơ hội trong thế giới 
số ngày nay. Những thay đổi cơ bản quan 
trọng đó khiến Bộ Quy tắc biên mục mới 
mang danh xưng RDA với ý nghĩa là được 
thiết kế cho thế giới số và một sự mở rộng 
toàn cầu cho những người sử dụng siêu dữ 
liệu. RDA là tiêu chuẩn biên mục thống 
nhất – một sự tiến hóa của những nguyên 
tắc biên mục từ AACR2, với những quy 
tắc mang sang mô hình RDA. Những lợi 
ích của RDA bao gồm: 
− Một cấu trúc dựa trên những mô 
hình quan niệm FRBR (Functional 
Requirements for Bibliographic 
Records – Những yêu cầu chức 
năng cho biểu ghi thư tịch) và 
FRAD (Functional Requirements 
for Authority Data – Những yêu cầu 
chức năng cho dữ liệu có thẩm 
quyền) giúp cho người sử dụng mục 
lục thư viện dễ dàng tìm thấy thông 
tin họ cần hơn; 
− Một khung linh hoạt cho việc mô tả 
nội dung của tài nguyên số đồng 
thời cũng phục vụ nhu cầu thư viện 
tổ chức tài nguyên truyền thống; 
2. FRBR – Những yêu cầu chức 
năng cho biểu ghi thư tịch 
 RDA đã sử dụng FRBR do Nhóm 
nghiên cứu IFLA (Hiệp hội Thư viện thế 
giới) phát triển từ 1992-1997. FRBR bao 
gồm một mô hình quan niệm của những 
thực thể, thuộc tính, và quan hệ: 
 − Thực thể là một “bản chất” hay một 
“vật thể với sự hiện hữu riêng biệt”; 
 − Thuộc tính là một đặc tính hay cái gì 
đó mô tả thực thể; 
 − Quan hệ là sự kết nối giữa những 
thực thể khác nhau. 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 12/2010 
18
 THỰC THỂ QUAN HỆ THỰC THỂ 
Hình 1: Một minh họa Sơ đồ mô hình quan niệm 
2.1. Thực thể. 
 Có ba nhóm thực thể trong FRBR: 
Nhóm 1: Nhóm thứ nhất bao gồm 
những sản phẩm trí tuệ hay nghệ thuật 
mà được nêu tên hay mô tả trong biểu 
ghi thư tịch: tác phẩm, biểu hiện, văn 
bản, bản sách: 
 − Tác phẩm: một sáng tác trí tuệ hay 
nghệ thuật riêng biệt. Trừu tượng; 
 − Biểu hiện: nhận thức một tác phẩm 
bằng hình thức số-chữ, âm nhạc hay 
kí âm, âm thanh, hình ảnh, vật thể, 
vvTrừu tượng; 
 − Văn bản: hiện thân vật lí của sự 
biểu hiện. Cụ thể; 
 − Bản sách: một ví dụ riêng của văn 
bản. Cụ thể. 
Nhóm 2: Thực thể chịu trách nhiệm 
nội dung trí tuệ hay nghệ thuật: nhân 
vật và cơ quan., [giòng họ là không bao 
gồm trong mô hình FRBR, chỉ mới 
được thêm vào sau này]: 
 − Nhân vật; 
 − Dòng họ; 
 − Cơ quan. 
Nhóm 3: Thực thể là những gì phục vụ 
như là chủ đề của sáng tác trí tuệ hay 
nghệ thuật. Có nghĩa rằng thực thể có 
thể nói về: quan niệm, vật thể, sự kiện, 
nơi chốn, thêm vào sự phối hợp về 
những thực thể nhóm 1 và 2: 
 − Nhóm 1 và 2; 
 − Quan niệm; 
 − Vật thể; 
 − Sự kiện; 
 − Nơi chốn. 
2.2. Thuộc tính 
 Thuộc tính là đặc tính hay tính chất cho 
phép độc giả tìm thấy thực thể họ cần. Mỗi 
thực thể có thể kết hợp một tập hợp những 
thuộc tính. Thuộc tính là yếu tố mô tả mỗi 
thực thể. 
 − Thuộc tính đối với tác phẩm bao 
gồm: nhan đề, thể loại, năm xuất 
bản, ngữ cảnh, phương tiện trình 
bày, vv 
 − Thuộc tính đối với biểu hiện bao 
gồm: nhan đề, hình thức, ngôn ngữ, 
sự duyệt lại, vv; 
 − Thuộc tính đối với văn bản bao 
gồm: nhan đề, phát biểu về trách 
nhiệm, lần xuất bản, năm xuất bản, 
tùng thư, phương tiện vật lí, vv; 
 − Thuộc tính đối với bản sách bao 
gồm: nhận dạng, nguồn gốc, vv 
2.3. Quan hệ 
 Quan hệ là những thuật ngữ được tác 
giả và nhà xuất bản dùng để trình bày hay 
chỉ định mối quan hệ giữa những thực thể 
trí tuệ và nghệ thuật. Chẳng hạn như ấn 
bản, bản dịch, phiên bản, ‘dựa vào’, vv 
ĐỘC GIẢ MƯỢN TRẢ 
 SÁCH 
THUỘC TÍNH { Tên sách Số cá biệt Họ tên Số CMND } 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 12/2010 
19
Trong mô hình FRBR, quan hệ mang ý 
nghĩa chỉ định mối quan hệ giữa một 
thực thể này với một thực thể khác, do 
đó mang ý nghĩa hỗ trợ độc giả tìm 
được cả thế giới. Điều này được trình 
bày trong một thư mục, mục lục, hay cơ 
sở dữ liệu thư tịch. Quan hệ phản ánh 
trong biểu ghi thư tịch cung cấp thêm 
thông tin hỗ trợ độc giả thực hiện việc 
kết nối giữa thực thể được tìm thấy với 
những thực thể khác có liên quan đến 
thực thể này. (Nhóm nghiên cứu IFLA 
về FRBR, 1998). 
2.4. Công việc người sử dụng 
 FRBR và FRAD cũng chỉ định công 
việc người sử dụng thực hiện đối với tài 
nguyên trong hệ thống thư tịch này. Nhớ 
rằng đây là một nhân tố khóa trong những 
thuật ngữ của mã số biên mục quốc tế. 
 Những công việc này được ấn định cho 
RDA như sau: 
− find (tìm)—vd., tìm những tài 
nguyên tương ứng với tiêu chí truy 
tìm bắt đầu của người sử dụng. 
− identify (chỉ định)—vd., chỉ định 
rằng tài nguyên được mô tả tương 
ứng với tài nguyên được tìm kiếm, 
hay phân biệt giữa hai hay nhiều tài 
nguyên hơn với những đặc tính 
tương tự. 
− select (chọn)—vd., chọn một tài 
nguyên là tương thích với nhu cầu 
của người sử dụng. 
− obtain (có)—vd., tiếp cận hay truy 
cập vào tài nguyên được mô tả. 
(RDA phần 0.0). 
Có một bộ tập hợp những công việc 
người sử dụng song song cho FRAD được 
ấn định cho RDA như sau: 
− find (tìm)—vd., tìm thông tin trên 
thực thể và trên tài nguyên kết hợp 
với thực thể. 
− identify (chỉ định)—vd., chỉ định 
rằng thực thể được mô tả tương ứng 
với thực thể được tìm kiếm, hay 
phân biệt giữa hai hay nhiều thực 
thể hơn với những tên tương tự. 
− clarify (làm rõ)—vd., làm rõ mối 
quan hệ giữa hai hay nhiều thực thể 
như thế, hay làm rõ mối quan hệ 
giữa thực thể được mô tả với một 
tên mà thực thể đó được biết. 
− understand (hiểu)—vd., hiểu tại sao 
một tên hay nhan đề cụ thể, hay 
hình thức của tên hay nhan đề, đã 
được chọn như tên hay nhan đề ưu 
tiên đối với thực thể. (RDA phần 
0.0). 
3. Cấu trúc RDA. Cấu trúc của RDA 
gồm có ba phần: 
3.1. Phần 1: Thuộc tính FRBR/FRAD 
– Đoạn 1: Thuộc tính của văn bản và 
bản sách 
– Đoạn 2: Thuộc tính của tác phẩm và 
biểu hiện 
– Đoạn 3: Thuộc tính của nhân vật, 
dòng họ, và cơ quan 
– Đoạn 4: Thuộc tính của quan niệm, 
vật thể, sự kiện, và nơi chốn 
3.2. Phần 2: Quan hệ FRBR/FRAD 
– Đoạn 5: Quan hệ tiên khởi 
– Đoạn 6: Quan hệ đối với nhân vật, 
dòng họ, và cơ quan với tài nguyên 
– Đoạn 7: Quan hệ chủ đề 
– Đoạn 8: Quan hệ giữa tác phẩm, 
biểu hiện, văn bản, và bản sách 
– Đoạn 9: Quan hệ giữa nhân vật, 
dòng họ, và cơ quan với tài nguyên 
– Đoạn 10 : Quan hệ giữa quan niệm, 
vật thể, sự kiện, và nơi chốn 
3.3. Phần phụ lục: Nguyên tắc chỉ đạo 
và hướng dẫn bổ sung 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 12/2010 
20
4. Chuyển đổi từ AACR2 sang RDA 
 AACR2 đã tồn tại với chúng ta hơn 30 
năm qua. Thế nhưng hôm nay chúng ta 
phải chuyển đổi qua một Bộ Quy tắc biên 
mục mới – RDA vì những lí do sau: 
4.1. Những quy tắc hiện nay đã lỗi thời. 
 Có lẽ điểm rõ ràng nhất là AACR2 
được ấn hành vào năm 1978 đã dựa vào 
môi trường mục lục phiếu. Hiện nay chỉ 
một số ít thư viện còn sử dụng mục lục 
phiếu còn đại đa số đã chuyển sang môi 
trường điện tử với nhiều khác biệt về hình 
thức và chức năng. 
 Môi trường số đang bành trướng một 
cách rầm rộ với việc giới thiệu sử dụng 
những tính năng ưu việt của World-Wide-
Web và chia sẻ biểu ghi mục lục – một đặc 
điểm chủ yếu của công tác biên mục trong 
thế kỉ XX – tiếp tục mở rông với việc gia 
tăng sử dụng những mạng công cụ thư tịch 
như WorldCat (Mục lục thế giới) chẳng 
hạn. 
 Hiện nay, bộ tập hợp những nguyên tắc 
– FRBR và FRAD – sẽ cung cấp cơ sở cho 
những quy tắc biên mục như được trình 
bày ở trên. 
4.2. Chính bản thân tài nguyên là khác 
xa với quá khứ. 
 Đã có một sự phát triển nhanh chóng 
những loại và hình thức mới của tài 
nguyên số. Những hình thức truyền thống 
đã giảm số lượng đáng kể, trong khi những 
hình thức mới thì luôn luôn được bổ sung. 
Một tài nguyên thường là một dòng thông 
tin, thay đổi, chứ không phải là một vật cụ 
thể và cố định. 
 Những tác phẩm thường được xuất bản 
dưới nhiều văn bản khác nhau (in ấn, html, 
pdf), và điều này trở thành vấn đề đối với 
cả người sử dụng mục lục và biên mục 
viên khi bảo đảm rằng tất cả văn bản được 
tìm thấy và kết nối trong cùng một lúc tìm 
kiếm. Và thông tin thì xa, xa hơn những gì 
mình nghĩ trong đầu. 
 4.4. Công nghệ phát triển nhanh 
chóng. 
 Hệ thống công nghệ thông tin ngày nay 
có năng lực tổ chức và quản lí tài nguyên 
theo nhiều cách khác nhau. Biên mục viên 
và những quy tắc biên mục đã có thể quản 
lí tốt hơn thông tin chứa trong những giá 
đỡ vật lí khác nhau (sách, ấn phẩm liên 
tục, băng ghi hình, vv) 
4.5. Sự mong đợi của người sử dụng. 
 Độc giả của chúng ta có những mong 
đợi khác nhau từ những gì một mục lục 
thư viện có thể làm. Những bộ máy tìm 
kiếm từng ngày được phát triển một cách 
thân thiện và dễ dàng trong việc tìm kiếm 
thông tin khiến cho mục lục thư viện cũng 
phải cố gắng phát triển tương đương. 
Người sử dụng cũng muốn giao diện tìm 
kiếm dễ dàng kiểu Google để truy hồi mọi 
thứ với chỉ một lần tìm. 
 Có những tiêu chuẩn siêu dữ liệu đa 
dạng đang cố gắng định nghĩa những hình 
thức mới khác nhau của tài nguyên 
(MARC, Dublin Core, ISBD, EAD, 
MARCXML, vv). Sử dụng RDA sẽ giải 
quyết được nhiều vấn đề khiến có thể nâng 
cao vị trí của thư viện trong môi trường 
thông tin. 
5. Kết luận 
 Bộ Quy tắc biên mục Anh-Mĩ đã có 
một lịch sử dài cho việc cập nhật và chỉnh 
sửa. Có 23 chương quy tắc và quy tắc phụ 
bao gồm (khá chi tiết) việc sử dụng tiêu đề 
chủ đề, điểm truy cập, và kiểm soát tính 
thẩm quyền. Tuy nhiên, để duy trì việc sử 
dụng trong môi trường số hiện hành, Hiệp 
hội Thư viện Hoa Kì đã quyết định thiết 
lập một tiêu chuẩn mới gọi là Truy cập và 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 12/2010 
21
Mô tả tài nguyên . RDA là bước kế tiếp 
của biên mục viên để đưa lĩnh vực thư 
viện học hiện đại vào thế kỉ XXI. RDA 
không chỉ cung cấp nguyên tắc chỉ đạo cho 
việc biên biên mục sách và tài nguyên liên 
tục (continuing resources – trước đây gọi 
là ấn phẩm liên tục - serials) và trang web, 
mà còn cho phép chuyên viên thư viện 
thâm nhập Web 2.0 bằng cách cho phép 
người sử dụng tạo lập những nhãn trường 
(tags) cho hệ thống OPAC của thư viện 
địa phương, có nghĩa rằng chính người sử 
dụng có thể tạo từ khóa riêng cho tài liệu 
của mình trong hệ thống biên mục thư 
viện. 
 RDA ra đời đánh dấu một thay đổi 
quan trọng trong công tác biên mục, đồng 
nghĩa với lịch sử thư viện sang trang – Thư 
viện thực sự bước vào giai đoạn quản lí tri 
thức trong thế giới số. Con người làm việc 
thư viện phải là con người với tư duy công 
nghệ mới. 
 TP Hồ Chí Minh, Tháng 10/2010 
Tài liệu tham khảo 
1. Celebrating the launch of RDA and RDA Toolkit at ALA10.- 
2. Cơ sở khoa học thông tin và thư viện / Nguyễn Minh Hiệp. – TP. Hồ Chí Minh 
: Giáo dục, 2008. 
3. Phát triển RDA để thay thế AACR2 / Nguyễn Minh Hiệp. – Thư viện-Công 
nghệ thông tin.- Tháng 10-2007. 
4. RDA: Resource Description and Access / Joint Steering Committee for 
Development of RDA. -  
5. RDA: Resource Description and Access Instruction / Joint Steering Committee 
for Development of RDA. – New York : Facet Publishing, 2010. 
(i) Thuật ngữ tài nguyên – resource ngày nay được dùng phổ biến trong ngành thông tin –
thư viện để chỉ tất cả các loại hình tài liệu: in ấn, điện tử, và đa phương tiện. (Thuật ngữ tài 
nguyên dần dần thay thế cho tài liệu). 
 Trong chuẩn Dublin Core và Bộ Quy tắc biên mục RDA, người ta gọi một đối tượng để 
biên mục: một cuốn sách, một bài báo, một tấm hình, một tài liệu điện tử, một bài hát, một 
video clip, vv là a resource – một tài nguyên. 
 Chúng ta không nên nhầm lẫn giữa information resource là tài nguyên thông tin với 
information source là nguồn thông tin. Do đó open source là nguồn mở còn open 
resource là tài nguyên mở tức là tài liệu miễn phí ở trên mạng. 
(ii) Xem bài viết “MARC hay Dublin Core? Việc chuyển đổi MARC-Dublin Core và 
Dublin Core-MARC” tại:  
(iii) The International Conference on the Principles and Future Development of AACR : 

File đính kèm:

  • pdfbo_quy_tac_bien_muc_rda_da_ra_doi_danh_dau_su_thay_doi_quan.pdf