Biển Đông: Những vấn đề cần cập nhật trong nghiên cứu và giảng dạy về địa lí tự nhiên Việt Nam
Địa lí tự nhiên Biển Đông cần đƣợc cập nhật trong nghiên cứu và giảng dạy về Địa lí tự nhiên Việt
Nam với một số nội dung quan trọng: Đặc điểm tổng quát và phân hóa vùng tự nhiên lãnh hải Biển
Đông; Tài nguyên thiên nhiên vị thế và các nguồn lợi Biển Đông; Ứng phó với biến đổi khí hậu và
thảm họa thiên tai từ biển; Nguy cơ ô nhiễm môi trƣờng biển và sự cần thiết bảo vệ các vùng biển
nhạy cảm đặc biệt. Những vấn đề về địa lí tự nhiên Biển Đông nói trên, cùng với các vấn đề trong
Chiến lƣợc Biển Việt Nam, cần đƣợc tích hợp trong các chƣơng trình cũng nhƣ sách giáo khoa về
Địa lí tự nhiên Việt Nam trong nhà trƣờng phổ thông và đại học.
Bạn đang xem tài liệu "Biển Đông: Những vấn đề cần cập nhật trong nghiên cứu và giảng dạy về địa lí tự nhiên Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Biển Đông: Những vấn đề cần cập nhật trong nghiên cứu và giảng dạy về địa lí tự nhiên Việt Nam
Nguyễn Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 81 - 87 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 BIỂN ĐÔNG: NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN CẬP NHẬT TRONG NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY VỀ ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN VIỆT NAM Nguyễn Thị Hồng* Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Địa lí tự nhiên Biển Đông cần đƣợc cập nhật trong nghiên cứu và giảng dạy về Địa lí tự nhiên Việt Nam với một số nội dung quan trọng: Đặc điểm tổng quát và phân hóa vùng tự nhiên lãnh hải Biển Đông; Tài nguyên thiên nhiên vị thế và các nguồn lợi Biển Đông; Ứng phó với biến đổi khí hậu và thảm họa thiên tai từ biển; Nguy cơ ô nhiễm môi trƣờng biển và sự cần thiết bảo vệ các vùng biển nhạy cảm đặc biệt. Những vấn đề về địa lí tự nhiên Biển Đông nói trên, cùng với các vấn đề trong Chiến lƣợc Biển Việt Nam, cần đƣợc tích hợp trong các chƣơng trình cũng nhƣ sách giáo khoa về Địa lí tự nhiên Việt Nam trong nhà trƣờng phổ thông và đại học. Từ khoá: Biển Đông, tài nguyên, ô nhiễm, nhận thức. Từ xa xƣa, ông cha ta đã diễn giải cấu trúc lãnh thổ Việt Nam là một đất nƣớc gồm: một phần là đồng ruộng, ba phần là núi, bốn phần là biển, (tam sơn, tứ hải nhất phần điền). Phần miền núi và đồng bằng (sơn, điền) cộng lại thành một nửa; một nửa còn lại là biển (tứ hải); biển nƣớc ta là Biển Đông (hải đông hải dã). Phần địa lí tự nhiên sơn - điền (phần lãnh thổ) đƣợc các nhà địa lí nghiên cứu khá sâu sắc; phần địa lí tự nhiên tứ hải (phần lãnh hải) bƣớc đầu đƣợc quan tâm trong các công trình nghiên cứu cấp nhà nƣớc cũng nhƣ các tác phẩm địa lí tiêu biểu. Tuy nhiên, so với yêu cầu mặt bằng nhận thức chung, phần địa lí tự nhiên về Biển Đông vẫn còn là chỗ yếu trong Địa lí tự nhiên Việt Nam. Vì vậy vấn đề làm phong phú và sâu sắc hơn sự hiểu biết về địa lí tự nhiên đất nƣớc bằng việc cập nhật kiến thức mới về Biển Đông cho xứng với vị thế của nó trong Chiến lƣợc Biển Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong giáo dục. ĐẶC ĐIỂM VÀ SỰ PHÂN HÓA VÙNG TỰ NHIÊN LÃNH HẢI BIỂN ĐÔNG Là một bộ phận của Thái Bình Dƣơng, Biển Đông, (tên gọi khác: Biển Đông Nam Á - South - East Asia Sea, Biển Nam Trung Hoa - South - Chine Sea), đƣợc phân cách với Thái Bình Dƣơng và các biển khác bởi các Tel: 0914 400809 đảo Đài Loan, Luxôn, Palaoan và Calimantan. Diện tích 3.537 nghìn km2, dung tích 3623 km 3, độ sâu trung bình 1024 m, nơi sâu nhất 5560 m. Vùng có độ sâu trên 2000 m chiếm 1/4 diện tích thuộc phần phía Đông của biển. Thềm lục địa có độ sâu dƣới 200 m chiếm trên 50% diện tích. Cấu tạo của đáy biển khá phức tạp: vùng biển phía đông kinh tuyến 110 0 Đ, nhìn chung là vùng biển sâu trên 4000 m, đáy biển có nhiều đảo ngầm, đảo nhỏ và đảo san hô. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa đều là những đảo san hô nằm trong vùng biển này. Vùng biển phía tây kinh tuyến nói trên, trái lại nằm trên một thềm lục địa nông, thƣờng không sâu quá 100 m. Biển Đông nối liền với biển Giava qua một eo biển rộng là Calimata nằm giữa đảo Caliman-tan và Bêlitung thuộc Inđônêxia. Tài nguyên của Biển Đông rất đa dạng, gồm dầu khí, tài nguyên sinh vật (thuỷ sản, rong biển). Biển nằm trên một thềm lục địa ngầm; trong những kỷ băng hà gần đây nƣớc biển đã hạ thấp xuống hàng trăm mét, và Borneo từng là một phần của lục địa Châu Á. Nhiều con sông lớn chảy vào Biển Đông gồm các sông Châu Giang, Mân Giang, sông Cửu Long (Phúc Kiến), sông Hồng, sông Mê Kông, sông Rajang, sông Pahang, và sông Pasig. Phía đông bắc Biển Đông có quần đảo Đông Sa, thuộc Trung Quốc (Pratas Islands). Phía Nguyễn Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 81 - 87 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 Tây Bắc Biển Đông cách đảo Lý Sơn, Quảng Nam, Việt Nam khoảng 200 km; cách đảo Hải Nam, Trung Quốc 235 km có quần đảo Hoàng Sa (Paracell) với 18 đảo, cồn và 22 bãi, đá. Lớn nhất là đảo Phú Lâm (Woody Island). Độ cao tuyệt đối lớn nhất 14 m (Rocky Island). Bên trong vùng biển, có hơn 200 đảo và bãi đá ngầm đã đƣợc đặt tên, đa số chúng thuộc Quần đảo Trƣờng Sa (Spatly) và trải dài trên một vùng rộng 810, dài 900 km với khoảng 175 đảo đã đƣợc xác định, hòn đảo lớn nhất là đảo Ba Bình (Itu Aba) với chỉ hơn 1,3 km chiều dài và điểm cao nhất là 3,8 mét. Ở đông bắc quần đảo Trƣờng Sa Có một núi ngầm rộng 100km đƣợc gọi là Reed Tablemount, cách biệt khỏi đảo Palawan của Philippine bởi Rãnh Palawan, hiện nay nằm dƣới mực nƣớc biển 20m nhƣng trƣớc kia nó từng là một hòn đảo trƣớc khi bị mực nƣớc biển dâng lên ở thời băng hà cuối cùng làm chìm ngập. Phía đông quần đảo Hoàng Sa có các bãi ngầm nhƣ Macelesfield Bank (quần đảo Trung Sa), Stewart Bank, Truro Shoal và Scarborough Shoal. Bãi Scarborough Shoal nằm về phía đông của bãi Maclesfield, gần bờ biển Philippin. Dựa trên cơ sở nền nhiệt độ, Biển Đông đều thuộc đới nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình năm của nƣớc biển tầng mặt đều đạt từ 24 0 C đến 290 C. Cho tới tầng sâu 20m vẫn còn giữ đƣợc mức nhiệt đô nhƣ vậy và phải xuống tới tầng sâu 50m mới giảm đi chút ít. Dựa vào sự phân hóa về nhiệt của nƣớc biển tầng mặt và tầng 20m, đới nhiệt đới biển - đảo trên Biển Đông nƣớc ta đƣợc các nhà địa lí tự nhiên Viện Địa lí thuộc Trung tâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam chia thành 3 cấp địa lí tự nhiên biển Đông: Á đới / miền / vùng [4]. Theo đó Biển Đông phân hóa thành 2 á đới: phía bắc là á đới đảo – biển nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh; và phía nam là á đới đảo – biển nhiệt đới, gió mùa nóng quanh năm [4]. Ranh giới giữa hai á đới đƣợc nối tiếp với hai á đới trên đất liền (khoảng vĩ tuyến 160 B, gần mũi Chân Mây, sau đó hơi vòng lên phía bắc một chút rồi quay về phía đông nam, tiếp theo đi thẳng hƣớng đông bắc, kết thúc ở khoảng tọa độ 210 vĩ độ Bắc – 1200 kinh độ Đông. Đƣờng ranh giới này đi cùng hƣớng và gần với đƣờng đẳng nhiệt 240C của nƣớc biển tầng mặt trong mùa đông, nghĩa là bằng khoảng > 200C nhiệt độ không khí. Á đới đảo biển phía bắc đƣợc chia thành 2 miền: (1) Miền đảo – vịnh Bắc bộ (gồm 4 vùng: (i) Vùng đảo biển lục địa Lƣu Sa (Lôi Châu) – Đồ Sơn / (ii) Vùng đảo – biển trên thềm lục địa Đồ Sơn – Mũi Ròn / (iii) Vùng thềm lục địa mũi Ròn – bán đảo Sơn Trà / (iv) Vùng thềm lục địa trung tâm vịnh Bắc bộ) và (2) Miền đảo – biển Hải nam (gồm 3 vùng: (i) Vùng thềm Hải Nam – Lôi Châu / (ii) Vùng thềm biển Quảng Châu / (iii) Vùng đảo biển phía đông đảo Hải Nam); Á đới đảo – biển phía nam đƣợc chia thành 4 miền: (1) Miền đảo – biển Trung Trung Bộ và Hoàng Sa (gồm 2 vùng: (i) Vùng biển ven bờ Trung Trung Bộ / (ii) Vùng lục địa quần đảo Hoàng Sa; (2) Miền đảo biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ (gồm 2 vùng: (1) Vùng biển ven bờ Nam Trung Bộ / (ii) Vùng biển Bà Rịa - Vũng tàu – Mũi Cà Mau); (3) Miền biển sâu (gồm: (i) Vùng quần đảo Trƣờng Sa / (ii)Vùng biển thẳm phía bắc / (iii) Vùng ven bờ biển Philippin); (3) Miền đảo biển Trƣờng Sa; Miền đảo – biển vịnh Thái Lan (gồm 3 vùng: (i) Vùng biển ven bờ Việt Nam – Campuchia / (ii) Vùng biển trung tâm vịnh Thái Lan / (iii) Vùng biển bờ Malaixia). TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VỊ THẾ VÀ CÁC NGUỒN LỢI BIỂN ĐÔNG Tài nguyên vị thế: Đó là tập hợp gồm một hoặc hơn một loại tài nguyên (thiên nhiên, con ngƣời, xã hội), có vai trò hoặc triển vọng quyết định vị thế của một địa phƣơng, lãnh thổ, quốc gia hay khu vực trong chuỗi giá trị: nghiên cứu - triển khai, bản quyền, sản xuất - thƣơng hiệu thƣơng mại. Cũng có thể hiểu tài nguyên vị thế là một biến thể của thế mạnh, lợi thế cạnh tranh hay lợi thế so sánh của một Nguyễn Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 81 - 87 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 không gian lãnh thổ cụ thể. Theo cách hiểu nói trên, tài nguyên vị thế quan trọng nhất của Biển Đông là vị trí địa – chính trị / địa kinh tế quan trọng; đó là một vùng nƣớc rộng lớn ở bờ Đông Nam của lục địa châu Á, có 5 trong số 16 eo biển có ý nghĩa chiến lƣợc tầm thế giới và có 5 trong số 10 đƣờng giao thông chủ yếu trên biển của thế giới, có 2 cảng thuộc loại lớn nhất (cảng Singapo và Hồng Kông) với đủ điều kiện dịch vụ tiếp nhận tàu viễn dƣơng qua lại. Biển Đông đứng hàng thứ 4 trong 19 vùng đánh cá lớn nhất thế giới xét theo tổng sản lƣợng hải sản hàng năm. Hơn thế nữa, hoạt động kinh tế – thƣơng mại ở Đông Á đều phụ thuộc vào Biển Đông vì đây là con đƣờng ngắn nhất đến Đông Nam Á, châu Phi, Trung Đông, châu Âu. Vì vậy, ai kiểm soát đƣợc Biển Đông nói chung, các đảo và quần đảo nằm ở vị trí trung tâm vùng biển này nói riêng sẽ kiểm soát đƣợc nhiều tuyến đƣờng biển quốc tế. Tài nguyên vị thế quan trọng hàng đầu vẫn là dầu khí. Biển Đông đã đƣợc xác định có trữ lƣợng dầu mỏ khoảng 7.7 tỷ barrel, với ƣớc tính tổng khối lƣợng là 28 tỷ barrel). Trữ lƣợng khí gas tự nhiên đƣợc ƣớc tính khoảng 266 nghìn tỷ feet khối). Theo thống kê của Cục Tình báo năng lƣợng Bộ Năng lƣợng Hoa Kì (EIA), trữ lƣợng dầu thô ở khu vực Biển Đông khoảng 7 tỷ thùng, sản lƣợng khai thác hàng ngày khả dĩ khoảng 2,5 triệu thùng. Điều tra của Cục thăm dò địa chất Hoa Kì (USGS) cho thấy: ở khu vực Biển Đông trữ lƣợng khí thiên nhiên gấp đôi trữ lƣợng dầu thô. Căn cứ chủ trƣơng chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông nhƣ Trung Quốc tuyên bố thì phần lớn dầu khí ở khu vực này thuộc về Trung Quốc. Theo số liệu thống kê của các cơ quan công quyền Trung Quốc, trên vùng Biển Đông có hơn 200 cấu tạo dầu khí, khoảng 180 mỏ dầu khí. Chỉ tính tại các bồn địa Tăng Mẫu, Sabah, Vạn An (Tƣ Chính) đã có trữ lƣợng gần 20 tỷ tấn dầu thô, là một trong những khu vực có trữ lƣợng dầu khí lớn nhất trên thế giới chƣa đƣợc khai thác. Trong phạm vi vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông có tài nguyên khoáng sản quan trọng sau : Titan: Các điểm và mỏ quặng titan phân bố dọc theo đƣờng bờ biển từ Móng Cái (Quảng Ninh) tới Nam Trung Bộ. Trữ lƣợng titan dự báo đạt 22 triệu tấn. Trữ lƣợng đã thăm dò đánh giá là 16 triệu tấn. Thành phần quặng là inmenit, rutin, có kích thƣớc hạt từ 0,5 mm đến 2,3 mm nằm trong cát ven biển. Hiện nay một số địa phƣơng đã tiến hành khai thác inmenit và rutin để xuất khẩu nhƣ ở Hà Tĩnh, Quảng Trị Đất hiếm: Thành phần quặng là khoáng vật xenotin và monazit, có mầu hồng xám hoặc lục với kích thƣớc hạt từ 0,5mm đến vài milimet, nằm trong cát ven biển. Những diện tích chứa quặng phân bố dọc bờ biển từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Vũng Tàu. Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lƣợng monazit, xenotin, đạt từ 90 đến 95% không thua kém chất lƣợng khoáng vật cùng loại của một số nƣớc trên thế giới. Hiện nay đất hiếm đã đƣợc khai thác để phục vụ cho các ngành công nghiệp: sản xuất thuỷ tinh cao cấp, thực phẩm, sản xuất phân vi lƣợng, thuốc trừ sâu, thuộc da Trữ lƣợng của đất hiếm nằm trong sa khoáng ven biển nƣớc ta khoảng 300.879 tấn. Cát thuỷ tinh: Cát thuỷ tinh ở nƣớc ta có hàm lƣợng SIO2 ,độ tinh khiết, độ trắng cao, đủ điều kiện để sản xuất các mặt hàng thuỷ tinh dân dụng và các mặt hàng thuỷ tinh cao cấp. Cát thuỷ tinh phân bố ở nhiều nơi, tuy nhiên những nơi tập trung thành mỏ không nhiều. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, các mỏ cát thuỷ tinh ở nƣớc ta đều thuộc cỡ nhỏ đến cỡ trung bình và phân bố ở : Vân Hải (Quảng Ninh), Nam Ô (Đà Nẵng), Quảng Ngãi, Nha Trang... Dầu khí: Tài nguyên dầu khí của nƣớc ta phong phú, nhƣng hầu hết diện tích chứa dầu đều nằm trên vùng thềm lục địa với độ sâu Nguyễn Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 81 - 87 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 không lớn. Trên toàn bộ diện tích nghiên cứu đã xác định đƣợc 20 vùng với những mức độ triển vọng dầu khí khác nhau nhƣng do điều kiện khai thác và thăm dò khó khăn, mới có 4 vùng có triển vọng cao, trong đó có 2 vùng đang đƣợc khai thác có hiệu quả là bể dầu khí Cửu Long và bể khí Nam Côn Sơn. Kết quả tìm kiếm thăm dò trong thời gian qua đã xác định ở vùng biển Việt Nam có 8 bể trầm tích Đệ Tam: Sông Hồng, Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn Sơn Thổ Chu – Mã Lai, Vũng Mây, Hoàng Sa và nhóm bể Trƣờng Sa. Công tác tìm kiếm, thăm dò mới chỉ tập trung ở các bể: Cửu Long, Nam Côn Sơn, Thổ Chu - Mã Lai, Sông Hồng. Tài nguyên muối : Nƣớc ta có đƣờng bờ biển dài 3260 km. Độ muối trong nƣớc biển trung bình 3,2%, xấp xỉ độ muối bình quân ở đại dƣơng. Do hình thể kéo dài theo chiều kinh tuyến và nằm trong vùng khí hậu nội chí tuyến gió mùa ẩm nên có sự phân hoá thành hai kiểu: kiểu chí tuyến ở miền Bắc và kiểu xích đạo ở miền Nam. Vì vậy, mặc dù có số giờ nắng cao song do độ ẩm lớn, mƣa nhiều nên ảnh hƣởng không nhỏ tới thời vụ sản xuất cũng nhƣ năng suất muối. Tài nguyên sinh vật biển là tài nguyên vị thế quan trọng. Đó là nguồn lợi tự nhiên hết sức quý giá để phát triển ngành khai thác, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản. Ở nƣớc ta, giới sinh vật biển Đông có quan hệ chặt chẽ với các đặc điểm kiến tạo địa hình, trầm tích đáy biển và khí tƣợng thuỷ văn. Sinh vật trên biển Đông phong phú, đa dạng do nằm trong khu biển kín nội chí tuyến gió mùa với sự thống trị của của các loài bản địa, đồng thời có sự phân hoá sâu sắc theo không gian. Sinh vật trên biển Đông có xu hƣớng tăng nhanh về khối lƣợng ở các vùng có sự trao đổi giữa các khối nƣớc từ lục địa ra, từ đại dƣơng vào, từ dƣới sâu lên nhƣ ở vùng cửa sông, vùng nƣớc trồi và vùng có hải lƣu lạnh. Tài nguyên du lịch: Nƣớc ta có đƣờng bờ biển dài 3260 km với khoảng 125 bãi biển có bãi cát bằng phẳng và sạch với chiều dài trung bình mỗi bãi từ 5-18 km, đủ điều kiện thuận lợi để khai thác phục vụ du lịch. Các bãi biển ở nƣớc ta phân bố trải đều từ Bắc vào Nam. Nổi tiếng nhất là các bãi biển Trà Cổ (Móng Cái) Bãi Cháy (Quảng Ninh), Sầm Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò (Nghệ An), Thuận An, Lăng Cô, Non Nƣớc, Sa Huỳnh, Vân Phong, Nha Trang, Ninh Chữ, Cà Ná, Vũng Tàu Dọc theo chiều dài đƣờng bờ biển của Việt Nam có trên 2700 hòn đảo lớn nhỏ. Trong các đảo và quần đảo có tiềm năng phát triển du lịch, Vịnh Hạ Long là một điểm du lịch với ƣu thế nổi bật của cảnh quan núi đảo đá vôi ngập nƣớc, có nhiều dạng tài nguyên du lịch tự nhiên đặc Vịnh Hạ Long đã đƣợc UNESCO chính thức công nhận từ tháng 12 năm 1994 là một di sản thiên nhiên thế giới, thu hút khách du lịch đến từ các nƣớc khác nhau. Ngoài khơi là quần đảo san hô vùng biển đảo Côn Sơn, vùng biển Phú Quốc - Hà Tiên cũng đã từng bƣớc tiến hành phát phát triển các hoạt động du lịch. Các dải rừng ngập mặn phân bố ven biển từ bắc vào nam chiếm một diện tích rất rộng, tới 450000 ha, đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau rừng ngập mặn Amazôn ở Nam Mỹ và trên cả rừng ngập mặn của sông Hằng ở Ấn Độ. Tính đặc sắc, môi trƣờng trong sạch của rừng ngập mặn cùng các sân chim đã thu hút đƣợc nhiều khách du lịch tới thăm quan, nghiên cứu. ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ THẢM HỌA THIÊN TAI TỪ BIỂN Biến đổi khí hậu (BĐKH) Trái Đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu, gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tƣơng lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo. Công ƣớc khung về Biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc (1992) đã đặt ra mục tiêu ổn định các nồng độ khí quyển ở mức có thể nhằm ngăn ngừa đƣợc sự can thiệp của con ngƣời đối với hệ thống khí hậu toàn cầu. Mức phải đạt đƣợc nằm trong khung thời gian đủ để các hệ sinh thái thích nghi một cách tự nhiên với sự thay đổi khí hậu, bảo Nguyễn Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 81 - 87 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 đảm sản xuất lƣơng thực không bị đe doạ và tạo khả năng cho kinh tế tiến triển bền vững. Việt Nam nằm trong tốp các nƣớc chịu tác động mạnh mẽ của BĐKH toàn cầu, trƣớc hết là Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng, nhiều địa phƣơng ven biển các tỉnh miền Trung. Theo nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), TP Hồ Chí Minh nằm trong danh sách 10 thành phố bị đe doạ nhiều nhất (bao gồm Calcuta và Bombay của Ấn Độ, Dacca của Bangladesh, Thƣợng Hải, Quảng Châu của Trung Quốc, TP Hồ Chí Minh của Việt Nam, Băng Cốc của Thái Lan và Yagon của Myanma). Báo cáo Phát triển con ngƣời 2007 - 2008 của UNDP cảnh báo: nếu nhiệt độ Trái Đất tăng thêm 20 C thì 22 triệu ngƣời dân Việt Nam sẽ mất nhà và 45% diện tích đất nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất của Việt Nam, sẽ ngập chìm trong nƣớc biển . Với trên 3260 km bờ biển, Việt Nam đƣợc coi là quốc gia có mức độ dễ tổn thƣơng cao do tác động của BĐKH, tới nhiều địa phƣơng ven biển, không chờ tới cuối thế kỉ 21, khi mà nhiệt độ trung bình khí quyển có thể tăng thêm 20 C. Để hạn chế thiệt hại do nƣớc biển dâng cao, trƣớc mắt, các nhà khoa học Việt Nam đã đề xuất phƣơng án trồng rừng ngập mặn, quy hoạch nuôi trồng thủ sản, xây dựng các khu bảo tồn sinh thái; không qui hoach khu định cƣ sát bờ biển, cửa sông; nâng đê cao 1- 1,2 m để bảo vệ cảng biển, di tích văn hoá - lịch sử, điểm du lịch ... trong vùng nguy cơ ngập do nƣớc biển dâng cao. Để đối phó với BĐKH, Chính phủ sẽ xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia về BĐKH, đồng thời tăng cƣờng giáo dục cho ngƣời dân nhận thức và hành động thiết thực góp phần hạn chế tác hại của nguy cơ BĐKH đối với tƣơng lai đất nƣớc. Về nguy cơ thảm họa sóng thần đổ bộ từ Biển Đông, theo Trung tâm Báo tin động đất và Cảnh báo sóng thần (Viện Vật lý Địa cầu), lịch sử động đất ở Việt Nam cho thấy cứ 20 - 30 năm lại xuất hiện động đất trên 6 độ richte. Cụ thể, năm 1923 có động đất mạnh 6,1 độ richter ở ngoài khơi Vũng Tàu - Phan Thiết; năm 1935, động đất mạnh 6,5 độ richte ở đới đứt gãy sông Mã và năm 1983, động đất mạnh 6,8 richter ở Tuần Giáo, Điện Biên. Có nguy cơ cao nhất là từ đới hút chìm Manila. Sóng thần đi từ rãnh nƣớc sâu Manila tới bờ biển Việt Nam mất khoảng 2 giờ sau khi xảy ra động đất. Động đất 8,3 độ richter tại đây có thể tạo sóng thần cao 5,2 m ở Quảng Ngãi và 2,1m ở Nha Trang. Nếu mạnh 9,2 độ richte thì sóng thần ở Quảng Ngãi sẽ cao 10,6m và ở Nha Trang là 5m. Gần đây, vào ngày 26/5/2006, khu vực này đã xảy ra động đất 8,2 độ richte, nhƣng rất may không gây sóng thần [7]. Theo các nhà khoa học, không chỉ ở Việt Nam, các nƣớc tiên tiến nhƣ: Nhật Bản, Mỹ cũng không thể dự báo chính xác thời điểm xảy ra động đất. Chính vì vậy Nhật Bản mới bị thiệt hại lớn trong trận động đất vừa qua gây ra thảm họa vô cùng to lớn. Không đƣợc chủ quan lơ là, nƣớc ta phải bắt tay hành động để có biện pháp đề phòng đón trƣớc thảm họa này. NGUY CƠ Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG BIỂN VÀ SỰ CẦN THIẾT BẢO VỆ CÁC VÙNG BIỂN NHẠY CẢM ĐẶC BIỆT (PSSA – PARTICULALY SENSISIVE SEA AREA) Sự ô nhiễm môi trƣờng biển gia tăng do các chất độc hại từ đất liền ra theo nƣớc sông, một phần do hoạt động giao thông trên biển và khai thác dầu khí đƣợc đẩy mạnh. Nƣớc biển ven bờ có hàm lƣợng chất lơ lửng cao hơn mức cho phép, có ảnh hƣởng xấu đến chất lƣợng một số bãi tắm. Các vùng bị ô nhiễm nặng là các thành phố cảng nhƣ Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu và các vùng cửa sông Hồng, sông Đồng Nai và sông Cửu Long. Nguyễn Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 81 - 87 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 Đối với môi trƣờng biển thì ô nhiễm dầu là nguy hiểm nhất. Dầu loang trên biển đã cản trở quá trình trao đổi ôxy giữa biển và khí quyển, còn dạng dầu hoà tan đƣợc trong nƣớc sẽ đầu độc sinh vật biển. Nhiều nơi, nhất là tại các cảng và cửa sông, hàm lƣợng dầu trong nƣớc biển vƣợt quá xa giới hạn cho phép, nhƣ cửa Lục vƣợt 2 lần, Hải Phòng trên 10 lần. Ảnh hƣởng của dầu trôi dạt vào bờ, mắc cạn vào cát, vào các mảnh sò, vào cây nƣớc mặn cũng quan trọng ở một số vùng. Đáng lo ngại là ô nhiễm dầu ngày càng tăng do vận chuyển, khai thác dầu trên biển ngày càng nhiều, khi xảy ra sự cố tràn dầu, mức độ tăng ô nhiễm là không tránh khỏi. Dọc bờ biển nƣớc ta có một số vùng biển nhạy cảm đặc biệt về môi trƣờng sinh thái biển - PSSA (Particularly Sensisive Sea Area). Theo tiêu chí của Tổ chức hàng hải quốc tế (IMO) PSSA là vùng biển có giá trị cao về môi trƣờng sinh thái, kinh tế - xã hội và khoa học, giáo dục. Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến các PSSA để thực hiện Công ƣớc quốc tế MARPOL trong việc bảo vệ các vùng biển này tránh ô nhiễm từ các hoạt động hàng hải và nhấn chìm chất thải ngoài biển. Là thành viên của IMO và Công ƣớc MARPOL, Việt Nam có bờ biển dài 3260 km, vùng lãnh hải rộng lớn thuộc chủ quyền trên Biển Đông. Vùng ven biển tập trung khoảng 30% dấn số cả nƣớc, đƣợc xem là vùng kinh tế động lực hƣớng biển. Bảo vệ môi trƣờng biển khỏi ô nhiễm và tài nguyên sinh thái không suy thoái do các hoạt động về hàng hải và các sự cố tràn dầu trên biển là một đòi hỏi cấp bách, lâu dài trong Chiến lƣợc Biển Việt Nam. Căn cứ 3 tiêu chí: (1) Tính quan trọng của vùng biển về mặt môi trƣờng tự nhiên; (2) Mức độ ô nhiễm môi trƣờng biển do các hoạt động hàng hải; và (3) Các giải pháp liên quan đến ngăn ngừa, giảm thiểu hay loại trừ các môi đe dọa đó, theo phƣơng pháp PSSA của IMO, các chuyên gia của Viên Nghiên cứu quản lí biển và hải đảo thuộc Tổng cục Biển & Hải đảo – Bộ TN&MT đã định hƣớng 4 vùng PSSA của Việt Nam nhƣ sau : (1) Các vùng ven biển và hải đảo có 15 khu giá trị đặc biệt về bảo tồn nhƣ : Đảo Trần, Cô Tô (Quảng Ninh), Cát Bà, Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Hòn Mê (Thanh Hoá), Sơn Trà, Hải Vân (Thừa Thiên – Huế), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lí Sơn (Quảng Ngãi), Hòn Mun (Khánh Hoà), Cồn Cau, Phú Quí (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu), Nam Yết (QĐ Trƣờng Sa – Khánh Hoà), Phú Quốc (Kiên Giang). Các khu có giá trị kinh tế cao nhƣ vịnh Hạ Long, Nha Trang, Cam Ranh, Lăng Cô, Vân Phong. (2) Các vùng có các hệ sinh thái san hô đặc biệt nhƣ vùng biển các quần đảo Trƣờng Sa, Rạn Trào, Cát Bà, Côn Đảo, Bạch Long Vỹ, Cồn Cỏ, Phú Quý, Phú Quốc; (3) Các vùng có hệ sinh thái cỏ biển, rong biển, rừng ngập mặn đặc trưng ven biển các tỉnh / thành phố: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang; (4) Các vũng vịnh ven biển: Hạ Long, Lăng Cô, Nha Trang, Xuân Đài, Bái Tử Long. Vùng ven biển Việt Nam là vùng có nguy cơ cao bị ảnh hƣởng của các hoạt động hàng hải, đặc biệt là hàng hải quốc tế, vì vậy việc xác định các vùng PSSA cho Việt Nam là rất cần thiết; có thể coi đó là công cụ giám sát và truyền tin tự động về mọi trạng thái thay đổi của các vùng PSSA nhằm phục vụ công tác quản lí tài nguyên và bảo vệ môi trƣờng biển.[8]. Nhƣ vậy trong nghiên cứu cũng nhƣ giảng dạy Địa lí tự nhiên Việt Nạm cần dành phần quan trọng về khối lƣợng kiến thức và thời lƣợng tích lũy về Địa lí Biển Đông tƣơng xứng với tầm quan trọng chiến lƣợc của nó trong thực tiễn. Đồng thời gắn việc nghiên cứu về địa lí tự nhiên Biển Đông với việc giáo dục công dân sự hiểu biêt về Biển; qua đó nâng cao lòng yêu Tổ Quốc, góp phần đấu Nguyễn Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 87(11): 81 - 87 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 tranh chống các luận điệu phủ nhận chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Tích hợp các kiến thức về Biển Đông một cách hệ thống trong các chƣơng trình và sách giáo khoa trong trƣờng phổ thông và đại học. Gắn việc nghiên cứu Địa lí tự nhiên Biển Đông với thực thi Chiến lƣợc biển Việt Nam trong tầm nhìn đến năm 2020 nƣớc ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển [2]. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Lê Đức An (2010). Bàn về tài nguyên vị thế đới bờ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Hội nghị Khoa học Địa lí toàn quốc lần V, 2010, Hà Nội, tr.: 1007 – 1016. [2]. Bộ Tài Nguyên & Môi trƣờng. Kịch bản biến đổi khí hậu , nước biển dâng cho Việt Nam. Hà Nội, 6 – 2009, 34 tr. [3]. Chiến lược biển Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị 4 BCH TW Đảng CS Việt Nam (Khoá X), 12 – 2006. [4]. Nguyễn Đức Chính, Vũ Tự Lập (1963), Địa lí tự nhiên Việt Nam (Phần đại cƣơng). Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 200 tr. [5]. Lê Bá Thảo (1998), Việt Nam : Lãnh thổ và các vùng địa lí, Nxb Thế Giới, Hà Nội, 608 tr. [6]. Dƣ Văn Toán và nnk (2009). Nghiên cứu đánh giá và xác định sơ bộ các vùng biển nhạy cảm đặc biệt (PSSA) ở vùng biển Việt Nam. Hội nghị Thông tin và định vị vì sự phát triển kinh tế biển Việt Nam, Hải Phòng, 2007, tr.: 11 – 16. . [7]. Vũ Nhƣ Vân (2007), Chiến lược Biển Đông : một cách nhìn từ triết lí địa lí phát triển bền vững. Hội nghị Thông tin và định vị vì sự phát triển kinh tế biển Việt Nam, Nxb KH&KT Hà Nội, 2007, tr.: 19 – 25. [8]. Viện Địa lí – Trung Tâm KHTN &CN Quốc gia (1997). Phân vùng địa lí tự nhiên Việt Nam và Biển Đông (Tỉ lệ 1 : 1.000.000). 231 tr. SUMMARY EAST SEA: SOME ISSUES SHOULD BE MENTIONED IN STUDYING AND TEACHING ON VIETNAMESE NATURAL GEOGRAPHY NguyenThi Hong College of Education - TNU In the article, the author deales with some problems related to BienDong (The East Sea) that are follow: (1) General natural features of The East Sea and spacial deference of territorial waters; (2) Positioning natual resources and marin sources of the sea; (3) To cope with climatic changes and natural calamities coursed by the sea; (4) Marin polution threats and necessity of PSSA’s protection (Particularly Sensisive Sea Area). In the author’s opinion, just written above problems related to the sea‘s Physical Geography should be updated and introduced to the teaching programes and tekbooks on Physical Geography of Vietnam in schools of any level as soon as possible. Key words: East sea, natural resources, pollution, awareness Tel: 0914 400809
File đính kèm:
- bien_dong_nhung_van_de_can_cap_nhat_trong_nghien_cuu_va_gian.pdf