Báo cáo Nghiên cứu bổ sung các môn thể thao tự chọn vào chương trình giảng dạy môn Giáo dục thể chất tại trường Đại học Trà Vinh

Nhiệm vụ của GDTC trong các trường Đại học:

Giáo dục thể chất trong các trường đại học là một bộ phận quan trọng trong

sự nghiệp thể dục thể thao và sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Nó được tiến hành phù

hợp về đặc điểm giải phẫu, tâm-sinh lý, giới tính và lứa tuổi sinh viên cùng với

một số yêu cầu khác. Căn cứ vào nhiệm vụ chung của hệ thống giáo dục thể chất,

nhiệm vụ giáo dục thể chất ở các trường đại học được cụ thể hóa như sau:

a. Nhiệm vụ bảo vệ và nâng cao sức khỏe:

- Thúc đẩy sự phát triển hài hòa của cơ thể, giữ gìn và hình thành thân thể

cân đối; nâng cao các khả năng chức phận của cơ thể; tăng cường quá trình trao

đổi chất, củng cố và rèn luyện hệ thần kinh vững chắc.

- Phát triển một cách hợp lý các tố chất thể lực và năng lực hoạt động cơ

bản; Nâng cao khả năng làm việc về trí óc và thể lực.- 8 -

- Trên cơ sở phát triển thể chất, tổ chức các hoạt động vui chơi lành mạnh,

nghỉ ngơi tích cực, rèn luyện và nâng cao khả năng chịu đựng và sức đề kháng của

cơ thể đối với các ảnh hưởng bất lợi của môi trường bên ngoài, phòng chống lại

bệnh tật.

b. Nhiệm vụ giáo dưỡng:

-Trang bị cho sinh viên những tri thức về thể dục thể thao, kỹ năng kỹ xảo

vận động cần thiết cho các hoạt động khác nhau của cuộc sống.

- Cung cấp các tri thức và rèn luyện thói quen giữ vệ sinh môi trường, vệ

sinh tập luyện, nếp sống văn minh, lành mạnh.

- Phát triển hứng thú và nhu cầu rèn luyện thân thể cường tráng, hình thành

thói quen tự tập luyện.

- Trang bị một số tri thức về mặt tổ chức và phương pháp tiến hành một

buổi tập luyện thể dục thể thao.

pdf 45 trang kimcuc 5620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Nghiên cứu bổ sung các môn thể thao tự chọn vào chương trình giảng dạy môn Giáo dục thể chất tại trường Đại học Trà Vinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo Nghiên cứu bổ sung các môn thể thao tự chọn vào chương trình giảng dạy môn Giáo dục thể chất tại trường Đại học Trà Vinh

Báo cáo Nghiên cứu bổ sung các môn thể thao tự chọn vào chương trình giảng dạy môn Giáo dục thể chất tại trường Đại học Trà Vinh
 LỜI CẢM ƠN 
 Để hoàn thành đề nghiên cứu này, tôi xin cảm ơn các đơn vị, cá nhân đã 
hỗ trợ trong suốt quá trình nghiên cứu đối với chủ nhiệm đề tài. 
 Xin cảm ơn quý Thầy, Cô các Phòng, Khoa, Trung tâm, các em Sinh viên 
đã rất nhiệt tình trong quá trình phản hồi thông tin giúp tôi thu thập số liệu đạt 
kết quả tốt nhất. 
 Tôi chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô Bộ môn Giáo dục thể chất Khoa 
Khoa học Cơ bản Trường Đại học Trà Vinh đã tận tình hướng dẫn các em sinh 
viên thông qua quá trình khảo sát với số lượng sinh viên khá đông. Với kết quả 
đạt được trong quá trình nghiên cứu sẽ giúp các em học được các môn thể thao 
mà các em yêu thích. Từ đó mục tiêu, chất lượng môn Giáo dục thể chất ngày 
được nâng cao. 
 Tôi chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu nhà trường đã tạo điều kiện tốt 
nhất trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài nghiên cứu . 
 Cuối cùng tôi kính chúc các đơn vị luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, 
chúc quý Thầy, Cô dồi dào sức khỏe và thành công trong sự nghiệp cao quý 
của mình. Chúc các em sinh viên luôn học tốt và xứng đáng với câu nói của 
Bác Hồ “Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”! 
DANH MỤC BẢNG 
Trang BẢNG GHI CHÚ 
16 Bảng 1.Phân phối nội dung chương trình môn học 
GDTC 
18-19 Bảng 2. Thống kê cơ sở vật chất giảng dạy môn GDTC 
20-21 Bảng 3: Thống kê giảng viên phụ trách giảng dạy các 
môn tự chọn 
24- 25; 
26- 27 
Bảng 4. Kết quả khảo sát đối với sinh viên 
29- 
30- 31 
Bảng 5: tổng hợp kết quả đối với CB - GV 
DANH MỤC BIỂU ĐỒ 
Trang Biểu đồ GHI CHÚ 
19 
Biểu đồ 1: Tỷ lệ giáo viên các môn TTTT và 
các môn TT khác. 
28 Biểu đồ 2: Tỷ lệ lựa chọn hình thức giảng dạy. 
29 
Biểu đồ 3: Tỷ lệ lựa chọn về sỉ số nhóm học 
môn GDTC 
32 
Biểu đồ 4: Ý kiến của CB-GV về sĩ số nhóm 
học môn GDTC. 
32 
Biểu đồ 5: Ý kiến bổ sung 03 môn thể thao vào 
chương trình giảng dạy của CB - GV 
 - 1 - 
 PHẦN MỞ ĐẦU 
 Trong công cuộc phát triển đất nước hiện nay, con người là tiềm năng là mục 
tiêu chiến lược lâu dài của công tác giáo dục nhằm chăm lo nguồn lực cho sự nghiệp 
xây dựng và phát triển đất nước. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến 
mục tiêu giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ về đức, trí, thể, mỹ. 
 Nhà trường là cơ sở quan trọng, nơi đào tạo những chuyên gia có trí thức 
khoa học, những công dân có vai trò xứng đáng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, 
xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và Nhà nước pháp quyền theo định 
hướng XHCN. Để có những công dân như vậy, trước tiên phải được chăm lo chu 
đáo từ tuổi thơ, mọi người đều được hưởng chế độ giáo dục toàn diện, trong đó 
giáo dục thể chất, chăm sóc sức khỏe cho học sinh, sinh viên là một mặt giáo dục 
quan trọng. 
 Quy chế về công tác GDTC trong nhà trường các cấp của Bộ Giáo dục và 
Đào tạo quy định: “đối với sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng phải thực 
hiện kiểm tra lấy chứng chỉ, là điều kiện để thi tốt nghiệp” 
 Mục tiêu cơ bản và lâu dài của công tác TDTT là hình thành nền TDTT 
phát triển và tiến bộ, góp phần nâng cao sức khỏe, thể lực, đáp ứng nhu cầu văn 
hóa, tinh thần của nhân dân. 
 Trong những năm qua, Ngành Giáo dục và đã có nhiều cố gắng trong công 
tác GDTC. Tại Hội nghị khoa học giáo dục thể chất lần thứ III năm 2001, Hội nghị 
đã tổng kết và đề ra những định hướng và giải pháp trong giai đoạn mới, trong đó 
định hướng về việc đẩy mạnh nghiên cứu cải tiến nội dung phương pháp giáo dục 
thể chất cho từng bậc học theo hướng đa dạng hóa, lựa chọn nội dung hình thức 
phương pháp phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên học sinh, phù hợp 
với quy trình đào tạo mới và xem xét đến khả năng tiếp thu của sinh viên. Nghiên 
cứu các mối quan hệ giữa hình thức hoạt động ngoại khóa và giờ học GDTC chính 
khóa. Các giải pháp đổi mới công tác GDTC và thể thao trong các trường đại học 
và cao đẳng cũng nhấn mạnh việc cải tiến quá trình đào tạo mới, đa dạng hóa các 
hình thức GDTC nội, ngoại khóa. 
 - 2 - 
 Song trên thực tế, công tác GDTC tại các trường đại học và cao đẳng còn 
chuyển biến chậm và gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện những định 
hướng và giải pháp trên. Còn nhiều trường chưa mạnh dạn thay đổi nội dung 
chương trình và phương pháp giảng dạy (vốn đã lạc hậu, cứng nhắc, không sai về 
kỹ thuật nhưng gây cho giáo viên và sinh viên nhàm chán), một phần do những 
điều kiện chưa đảm bảo, chưa khắc phục triệt để. Đội ngũ giáo viên còn thiếu về số 
lượng, chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ GDTC và thể 
thao, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và phong trào thể dục thể thao còn nghèo 
nàn. 
 GDTC trong các trường Đại học và Cao đẳng có tác dụng tích cực trong 
việc hoàn thiện phẩm chất đạo đức, lối sống, nhân cách của người sinh viên. Tăng 
cường và phát triển thể chất, phục vụ tốt cho công tác học tập, nghiên cứu khoa 
học; đồng thời trang bị cho sinh viên kiến thức và phương pháp khoa học tập luyện 
thể thao, củng cố và trau dồi sức khỏe, góp phần xây dựng phong trào TDTT lớn 
mạnh trong nhà trường. Để đáp ứng với yêu cầu về mục tiêu đào tạo, Bộ Giáo dục 
và đào tạo đã ban hành chương trình GDTC trong các trường đại học, nhằm giải 
quyết các nhiệm vụ giáo dục: trang bị kiến thức, kỹ năng về rèn luyện thể lực cho 
học sinh, sinh viên. 
 Trường Đại học Trà Vinh là một trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực. Có 
nhiệm vụ đào tạo Cán bộ Khoa học cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất 
nước. Trường có 12 Khoa trực thuộc như: Khoa Sư phạm, Khoa Khoa học Cơ bản, 
Khoa Nông nghiệp Thủy sản, Khoa Kinh tế - Luật, Khoa Ngoại ngữ, Khoa Hóa 
học Ứng dụng, Khoa Quản trị Văn phòng- Việt Nam học- Thư viện, Khoa Dự bị 
Đại học, Khoa Y- Dược, Khoa Mác Lê nin và Khoa Ngôn ngữ Văn hóa nghệ thuật 
Khmer Nam Bộ. Một số trung tâm như: Trung tâm Đào tạo Liên kết, Trung tâm 
Đào tạo và Hợp tác Quốc tế, Trung tâm Hỗ trợ phát triển Dạy và học, Trung tâm 
ngoại ngữ tin học, Trung tâm Đào tạo và Hợp tác Doanh nghiệp, Trung tâm 
Nghiên cứu khoa học và sản xuất dịch vụ, Trung tâm Giáo dục Quốc phòng, Trung 
tâm phân tích và kiểm nghiệm TVU, Trung tâm Nghiên cứu thích ứng biến đổi khí 
hậu và Hỗ trợ Phát triển Cộng đồng..với số lượng sinh viên chính quy gần 
10.000. 
 - 3 - 
Trong những năm qua, công tác GDTC và phong trào TDTT của trường Đại 
học Trà Vinh đã đạt được những thành công nhất định; Song, cũng như tình trạng 
chung của các trường hiện nay là sinh viên không tích cực trong giờ học GDTC, 
phần lớn là học mang tính đối phó nên mục đích chính để phát triển thể chất là khó 
có thể đạt được. 
 Để phù hợp với xu hướng đào tạo mới “Lấy người học làm trung tâm”, 
nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác giảng dạy và tập luyện môn GDTC, nhằm 
phát huy tính tự giác tích cực trong học tập cũng như trong quá trình rèn luyện 
ngoại khóa của sinh viên, chúng tôi những người làm công tác giảng dạy nghiên 
cứu từng bước hoàn thiện hơn các nội dung chương trình theo hướng tự chọn cho 
sinh viên trường Đại học Trà Vinh. Để phù hợp xu hướng trên chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu và đề xuất các môn thể thao tự chọn đưa vào chương trình giảng dạy 
cho sinh viên tại trường. Và cũng từ đó xây dựng chương trình môn học phù hợp 
với đặc điểm giới tính, điều kiện sức khỏe và nhu cầu của sinh viên. 
 Muốn đạt được mục tiêu chất lượng trong công tác giảng dạy cũng như tập 
luyện, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: 
“Nghiên cứu bổ sung các môn thể thao tự chọn vào chương trình giảng 
dạy môn Giáo dục thể chất tại trường Đại học Trà Vinh”. 
 Từ những đánh giá thực trạng và nhu cầu học tập môn học GDTC của sinh 
viên trường Đại học Trà Vinh, trên cơ sở điều tra khảo sát nhu cầu học tập môn thể 
thao tự chọn của sinh viên trường Đại học Trà Vinh. Từ đó, lựa chọn và nghiên 
cứu tổ chức giảng dạy môn thể thao tự chọn phù hợp với thể chất và nhu cầu của 
sinh viên, nhằm phát triển thể chất và nâng cao trình độ các môn thể thao cho sinh 
viên trường Đại học Trà Vinh. Đề tài thực hiện 2 mục tiêu sau đây: 
 MỤC TIÊU: 
 1. Đề xuất những môn thể thao tự chọn phù hợp với điều kiện thực tế của 
trường Đại học Trà Vinh. 
 2. Đề xuất chương trình (hình thức) đào tạo các môn thể thao tự chọn nhằm 
mang lại hiệu quả trong quá trình giảng dạy. 
 - 4 - 
CHƯƠNG 1 
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác GDTC cho thanh niên - 
học sinh, sinh viên các trường học : 
 GDTC là một quá trình sư phạm nhằm bảo vệ, nâng cao sức khỏe, hoàn 
thiện thể chất, rèn luyện tính tích cực xã hội và nhân cách cho thế hệ trẻ. GDTC 
như phạm trù vĩnh cửu, nó ra đời từ khi xuất hiện loài người và sẽ tồn tại tiếp tục 
như một trong những điều kiện cần thiết của nền sản xuất xã hội. 
 Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu của GDTC trong nhà trường các cấp gắn 
liền và góp phần thực hiện mục tiêu của giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị 
quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII là: “nhằm nâng cao dân trí, 
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có trí thức và có 
tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ và năng động, sáng tạo”. 
 GDTC trong nhà trường các cấp còn giữ vị trí quan trọng và then chốt trong 
chiến lược phát triển sự nghiệp TDTT. Về mặt này, trong báo cáo chính trị Đại hội 
VII đã nêu rõ: “Công tác TDTT cần xem trọng nâng cao chất lượng GDTC trong 
trường học”. 
 GDTC với các hình thức chủ yếu là chương trình thể dục nội khóa và các 
hoạt động TDTT ngoại khoá, được thực hiện cho các đối tượng học sinh các cấp từ 
mầm non đến Đại học, với số lượng 1/4 dân số nước ta.( 1) 
 Do có đối tượng rộng rãi như vậy, GDTC trong nhà trường không chỉ là 
nhiệm vụ của riêng thầy và trò, mà nó còn thể hiện tinh thần trách nhiệm, mối quan 
tâm của mọi tầng lớp nhân dân, của các bậc cha mẹ, của nhà nước và toàn xã hội. 
 Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng khóa VII, trước Đại 
hội lần thứ VIII của Đảng, sau khi đánh giá sự tiến triển tốt của phong trào TDTT, 
đã đề ra phương hướng: “Phát triển phong trào TDTT nhân dân trong cả nước, 
trước hết là thanh thiếu niên, học sinh, từng bước hình thành thể thao chuyên 
nghiệp đỉnh cao, tạo chuyển biến chất lượng hiệu quả GDTC trong trường học’’(6) 
 - 5 - 
Trước tình hình mới, sự nghiệp TDTT cần được phát triển đúng hướng, 
đúng đối tượng phục vụ, trong đó có những quan điểm sau đây:(1) 
- Phát triển TDTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển 
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con 
người, công tác TDTT góp phần tích cực nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục 
nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh; làm phong phú đời sống văn hóa, tinh 
thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến đấu của lực 
lượng vũ trang. 
- Thực hiện GDTC trong tất cả các trường học, làm cho việc tập luyện 
TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên, thanh-thiếu 
niên, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, cán bộ CC-VC và một bộ phận nhân dân. 
Đường lối quan điểm của Đảng được thể hiện ở nhiều Nghị quyết, chỉ thị 
trong suốt thời kỳ lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và tiến lên xây 
dựng CNXH, qua các thời kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng: “Từng bước 
xây dựng nền TDTT XHCN phát triển cân đối, có tính dân tộc, khoa học và nhân 
dân ”. 
 “Muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh phải có 
con người phát triển toàn diện, tức là không chỉ phát triển về mặt trí tuệ, đạo đức 
mà còn phải cường tráng về thể chất, là trách nhiệm của toàn xã hội, của tất cả các 
cấp, các ngành, các đoàn thể, trong đó có giáo dục và đào tạo, y tế và TDTT”. 
Thể dục là một trong những mặt cơ bản của giáo dục. Sự kết hợp trí dục và 
thể dục với lao động sản xuất “không chỉ là một trong những phương tiện để nâng 
cao sản xuất xã hội mà còn là phương thức duy nhất để đào tạo ra những con người 
phát triển toàn diện”. 
 Bộ Giáo dục và Đào tạo đặc biệt coi trọng việc GDTC trong nhà trường, 
cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khóa, ngoại khóa, quy định tiêu chuẩn rèn 
luyện thân thể cho học sinh ở các cấp học, phải có sân bãi, nhà tập TDTT và có kế 
hoạch tích cực đào tạo đội ngũ giáo viên TDTT, đáp ứng nhu cầu ở tất cả các cấp 
 - 6 - 
học. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có một Thứ trưởng chuyên trách chỉ đạo công tác 
TDTT trường học”. 
- Mục tiêu GDTC trường học từ mẫu giáo đến Đại học là góp phần đào tạo 
thế hệ trẻ phát triển toàn diện về nhân cách, trí tuệ và thể chất phục vụ sự nghiệp 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 
- Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể thao theo cấp học, đặc biệt là Hội 
khỏe Phù đổng, phát triển mạnh các CLB TDTT và các Trung tâm thể thao sinh 
viên, làm cơ sở tập luyện nâng cao thành tích một số môn thể thao trọng tâm và 
vấn đề GDTC cho sinh viên trường học. 
- Quán triệt sâu sắc nội dung các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các văn bản 
pháp luật của chính phủ về công tác TDTT trong tình hình mới, cũng tiếp tục 
khẳng định cần phải khắc phục thực trạng giảm sút thể lực của sinh viên hiện nay. 
Hai ngành Giáo dục & Đào tạo và TDTT đã thống nhất những nội dung, biện pháp 
và hợp đồng trách nhiệm chỉ đạo, nhằm thúc đẩy nhanh và nâng cao chất lượng 
GDTC cho sinh viên: “Hai ngành nhất trí xây dựng chương trình mục tiêu cải biến 
nâng cao chất lượng GDTC”. 
GDTC trong các trường Đại học và Cao đẳng có tác dụng tích cực trong 
việc hoàn thiện phẩm chất đạo đức, lối sống, nhân cách của người sinh viên. Tăng 
cường và phát triển thể chất, phục vụ tốt cho công tác học tập, nghiên cứu khoa 
học; đồng thời trang bị cho sinh viên kiến thức và phương pháp khoa học tập luyện 
thể thao, củng cố và trau dồi sức khỏe, góp phần xây dựng phong trào TDTT lớn 
mạnh trong nhà trường. Để đáp ứng với yêu cầu về mục tiêu đào tạo, Bộ Giáo dục 
và đào tạo đã ban hành chương trình GDTC trong các trường đại học, nhằm giải 
quyết các nhiệm vụ giáo dục: trang bị kiến thức, kỹ năng về rèn luyện thể lực cho 
học sinh, sinh viên. 
Thể chất con người biến đổi theo một xu hướng nhất định. GDTC là một quá 
trình nhằm hoàn thiện về mặt thể hình và chức năng của cơ thể con người, nhằm 
hình thành và củng cố những kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản quan trọng trong đời 
sống, trong lao động sản xuất và chiến đấu. Trong các trường Đại học và Cao đẳng, 
GDTC là một bộ phận quan trọng của giáo dục toàn diện cho sinh viên, Bác Hồ đã 
 - 7 - 
nói: “Phải rèn luyện thân thể cho khỏe mạnh thì mới tham gia một cách dẻo dai, bền 
bỉ những công việc ích nước lợi dân”.(6) 
Mục tiêu cơ bản, lâu dài của công tác TDTT là hình thành nền TDTT phát 
triển và tiến bộ, góp phần nâng cao sức khỏe, thể lực, đáp ứng nhu cầu văn hóa 
tinh thần của nhân dân. Thực hiện GDTC trong tất cả các trường học, nhằm mục 
tiêu làm cho việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết sinh 
viên. 
Trong điều kiện kinh tế xã hội của đất nước và của thế giới ngày càng phát 
triển, các môn thể thao ngày một nhiều hơn và hết sức đa dạng. Nhu cầu học tập, 
lao động, sinh hoạt của sinh viên ngày càng nhiều hơn, cao hơn, phong phú hơn. 
Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, sinh viên là 
người tiếp cận nhanh nhất, họ nắm rất rõ các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. 
Chính vì vậy, xu hướng gi ... G DẠY MÔN GDTC 
3.1 Đề xuất chương trình (hình thức) đào tạo các môn thể thao tự chọn nhằm 
mang lại hiệu quả trong quá trình giảng dạy. 
 Thông qua các câu hỏi về nội dung chương trình GDTC được áp dụng cho 
sinh viên trường Đại học Trà Vinh, phần lớn các sinh viên có quan tâm đến nội 
dung phỏng vấn. Việc học các môn thể thao tự chọn theo hình thức được chọn học 
môn thể thao mình yêu thích và phù hợp với đặc điểm của sinh viên thì đa số thống 
nhất. 
 Việc đề xuất chương trình (hình thức) đào tạo các môn thể thao tự chọn tại 
trường Đại học Trà Vinh là một vấn đề cần phải đặc biệt quan tâm và phải làm như 
thế nào vừa đáp ứng được nhu cầu của sinh viên vừa nâng cao hiệu quả trong công 
tác giảng dạy. 
 Chúng tôi tiến hành phân tích những vấn đề ảnh hưởng đến việc học môn 
GDTC như sau: 
3.1.1. Những vấn đề ảnh hưởng đến việc học tập môn học GDTC 
 Qua quá trình khảo sát, giảng dạy, tiếp xúc trao đổi trên tinh thần thẳng thắn, 
cởi mở, tôn trọng và thực sự lắng nghe ý kiến của sinh viên về công tác GDTC 
trong nhà trường. Chúng tôi biết được rất nhiều ý kiến của sinh viên về việc học 
môn GDTC trong nhà trường. 
 Những yếu tố ảnh hưởng đến việc học tập môn học GDTC, đối với sinh 
viên có rất nhiều ý kiến khác nhau: Phần lớn các sinh viên ý thức được tác dụng 
của TDTT đối với sức khỏe của bản thân. 
 Điều kiện sức khỏe cũng được các sinh viên nhắc đến, sinh viên cho rằng 
với sức khỏe yếu mà học các môn đòi hỏi thể lực và độ khó thậm chí còn nguy 
hiểm, thì làm cho sinh viên càng cảm thấy sợ môn học hơn, nhiều lúc còn tìm cách 
trốn tránh. 
 - 35 - 
 Nội dung chương trình được nhiều sinh viên nhắc đến, nhiều sinh viên 
thẳng thắn nói rằng, ở trường thì trốn tránh môn học GDTC nhưng ở nhà thì lại bỏ 
tiền để đi đến các câu lạc bộ học và tập luyện như: Bóng đá, Cầu lông, Bóng bàn, 
Thể dục nhịp điệu, TạRất nhiều sinh viên mong muốn được học môn thể thao 
mà mình ưa thích và đã tập luyện. 
 Hình thức giảng dạy, đây cũng là vấn đề cần quan tâm. Muốn nâng cao 
thành tích thi đấu các môn thể thao, đòi hỏi các em phải có một trình độ nhất định; 
Song, việc dạy và học môn GDTC tại trường thì chưa thật sự đáp ứng được yêu 
cầu đó. Có chăng là do các em đã từng là vận động viên đội tuyển và năng khiếu 
của tỉnh. 
 Điều kiện cơ sở vật chất các em cũng đặc biệt quan tâm, vấn đề sân bãi học 
tập phần lớn là tận dụng các mặt sân sẵn có để học tập môn Bóng đá, Điền kinh. 
Nhà trường chưa có sân cỏ nhân tạo, Hồ bơi.. 
 Từ những công việc thực tế như chúng tôi khảo sát, trực tiếp giảng dạy, trao 
đổi thông tin cùng sinh viên, chúng tôi nhận thấy tất cả các ý kiến trên xoay quanh 
các yếu tố có liên quan đến đề tài đó là: điều kiện sức khỏe, nội dung chương trình, 
hình thức giảng dạy và cơ sở vật chất. Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn với câu 
hỏi: Anh (chị) cho biết các môn thể thao tự chọn hiện tại của chương trình GDTC 
tại Trường có phù hợp với sở thích và điều kiện thể chất của anh (chị) không ? 
Hình thức giảng dạy môn GDTC hiện nay có phù hợp để nâng cao trình độ các 
môn Thể thao của các anh (chị) hay không? Và một số câu hỏi có liên quan được 
trình bày trong phiếu khảo sát 
Qua kết quả thu được, cho thấy đa số sinh viên nhận thức được tác dụng của 
TDTT, biết được tầm quan trọng của công tác GDTC, nhưng có các vấn đề ảnh 
hưởng lớn đến việc học tập và rèn luyện TDTT đó là: điều kiện sức khỏe nội dung 
chương trình, hình thức giảng dạy và cơ sở vật chất để tập luyện và học tập. 
 Như vậy việc cho sinh viên học các môn thể thao tự chọn phù hợp với đặc 
điểm giới tính, điều kiện sức khỏe và sở thích của mình thì kết quả học tập sẽ tốt 
hơn. Đối với việc chọn học 01 môn thể thao tự chọn cho cả chương trình GDTC 
 - 36 - 
cũng rất phù hợp với mục đích nâng cao trình độ kỹ thuật các môn thể thao cho 
sinh viên trường Đại học Trà Vinh hiện nay. 
Chính vì những yếu tố ảnh hưởng như trên, chúng tôi mạnh dạn đề xuất là 
cho sinh viên chọn học môn thể thao tự chọn đúng theo nhu cầu của các em và học 
một môn thể thao trong tất cả các học phần tự chọn. 
3.1.2. Các môn thể thao sinh viên lựa chọn. 
 Có một số câu hỏi đưa ra để phỏng vấn sinh viên về nhu cầu sở thích đối 
với các môn thể thao tự chọn. Chúng tôi cho các sinh viên lựa chọn một trong 4 
môn thể thao mà Bộ môn đang giảng dạy đó là Võ Taekwondo, Bóng chuyền, 
Bóng đá, Cầu lông. Các môn thể thao tập thể là Bóng đá và Bóng chuyền, môn cá 
nhân là Cầu lông và Võ Taekwondo mà nhà trường có điều kiện và đã giảng dạy. 
Và đề xuất đưa vào chương giảng dạy các môn thể thao tự chọn như Bơi lội, Thể 
dục nhịp điệu và Bóng bàn nhằm hỗ trợ rất nhiều đến công việc của các em sau 
này. Hầu hết các em đều thống nhất và cho rằng những môn thể thao tự chọn nói 
trên là phù hợp với nhu cầu và sở thích của các em, nhưng còn lại là quá trình được 
chọn học các môn đó theo sở thích và nhu cầu lại là một vấn đề cần phải quan tâm 
và xem xét. 
3.2. Lựa chọn môn thể thao tự chọn cho sinh viên trường Đại học Trà Vinh: 
 Qua phân tích thực trạng công tác GDTC của Đại học Trà Vinh cho thấy, 
công tác GDTC của Đại học Trà Vinh cần phải đổi mới, cải tiến về nội dung, hình 
thức, phương pháp và cải thiện cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy thông qua quá 
trình khảo sát và công tác giảng dạy. Cần bổ sung một số môn thể thao tự chọn 
theo nhu cầu và sở thích của sinh viên. Nên cho sinh viên chọn học các môn thể 
thao phù hợp với sở thích của mình. Như vậy mục tiêu, chất lượng môn GDTC 
mới đạt được như mong muốn. 
 Việc học theo môn thể thao tự chọn, là điều đã được nhiều chuyên gia về 
lĩnh vực GDTC khẳng định, nhưng cũng có rất nhiều ý kiến về việc thực hiện vấn 
đề đó như thế nào trong hoàn cảnh của đất nước ta hiện nay, đó là điều thực sự 
không đơn giản. Như chúng ta đã biết, càng ngày càng có nhiều môn thể thao xuất 
hiện và thể thao quần chúng ngày càng có nhiều môn thể thao để lựa chọn. Vì thế, 
 - 37 - 
trong điều kiện hiện nay, tùy điều kiện cụ thể của mỗi trường mà cố gắng mở rộng 
các môn thể thao cho sinh viên lựa chọn. 
 Với điều kiện thực tế của trường Đại học Trà Vinh, về điều kiện sân bãi, đội 
ngũ giảng viên, chúng tôi giảng dạy 4 môn thể thao tự chọn cho sinh viên. Có 2 
môn thể thao tập thể (Bóng đá, Bóng chuyền) và 2 môn thể thao cá nhân (Võ 
Taekwondo, Cầu lông). Qua công tác giảng dạy cho thấy phần lớn Nam sinh viên 
học và tập luyện tích cực các môn thể thao tập thể, cường độ vận động nhiều. Đối 
với nữ sinh viên thì ngược lại, các môn thể thao mà các em yêu thích đó là Cầu 
lông, Bóng chuyền và yêu cầu giảng dạy môn Thể dục nhịp điệu. Điều này cũng 
chứng minh được rằng việc bổ sung các môn thể thao tự chọn như Bơi lội, Bóng 
bàn, Thể dục nhịp điệu là rất cần thiết và phù hợp với đặc điểm giới tính đối với 
sinh viên trường Đại học Trà Vinh. Được học những môn đúng với nhu cầu và sở 
thích của các em, thì hiệu quả của chương trình GDTC tại trường sẽ được cải thiện 
một cách tốt nhất. Sinh viên học môn GDTC không còn cảm giác vừa ghét vừa sợ 
môn học này. 
 Khi đưa ra 3 môn thể thao tự chọn Bơi lội, Thể dục nhịp điệu và Bóng bàn 
cho sinh viên lựa chọn bổ sung vào chương trình giảng dạy, thì môn Bơi lội chiếm 
tỷ lệ 24.95%, Thể dục nhịp điệu: 41.86%, Bóng bàn: 33.17%. Kết quả này cho 
thấy, các môn thể thao khảo sát bổ sung vào chương trình giảng dạy được nhiều 
sinh viên của trường Đại học Trà Vinh đồng tình thống nhất. 
 Về cán bộ, giảng viên cũng thống nhất các môn thể thao tự chọn là Bơi lội, 
Thể dục nhịp điệu, Bóng bàn nên triển khai đưa vào giảng dạy trong chương trình 
GDTC của trường nhằm đáp ứng nhu cầu và sở thích của sinh viên hiện nay. Nên 
áp dụng hình thức giảng dạy 01 môn thể thao cho cả chương trình học môn tự chọn 
nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cho sinh viên. Có như vậy, trình độ các môn 
thể thao của sinh viên cũng được nâng cao, chất lượng chuyên môn đạt yêu cầu. 
3.3 Bàn luận kết quả nghiên cứu. 
3.3.1. Bàn về xu hướng học theo môn thể thao tự chọn: 
 Những quan điểm và mục tiêu, mục đích của việc giảng dạy môn học 
GDTC, thì đã được khẳng định: học để nâng cao thể chất, tăng cường sức khỏe, 
 - 38 - 
phát triển con người toàn diện. Song, những biện pháp, phương pháp thực hiện 
công tác GDTC trường học của nước ta thì còn nhiều vấn đề cần phải điều chỉnh, 
đổi mới để đạt được mục tiêu tưởng chừng như đơn giản, nhưng lại hoàn toàn 
không dễ chút nào. 
 Xét cho cùng môn học GDTC là làm cho sinh viên, học sinh biết cách rèn 
luyện một cơ thể khỏe mạnh trong cả một đời mình. Chẳng hạn nên tập luyện thế 
nào để có thân hình đẹp, tập thế nào để tăng cường sức mạnh, sức nhanh, sức bền, 
sự khéo léo, độ dẻo dai, ăn uống như thế nào, nghỉ ngơi ra saoTDTT chính là 
một phần quan trọng của ba yếu tố mà mỗi con người cần được xây dựng để biết 
làm người: thể dục, trí dục và đức dục. 
 Từ việc xác định được mục đích ý nghĩa của việc học, biết được khả năng, 
năng lực của mình từ đó phát huy những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu 
của bản thân để hoàn thiện cơ thể của mình, tự đặt ra kế hoạch tập luyện cho mình. 
Có như vậy, việc học tập mới mong đạt được kết quả tốt. 
 Vấn đề học theo môn tự chọn là điều không phải bàn cải, nhưng muốn thực 
hiện được điều này, cần có những điều kiện kèm theo như: nội dung chương trình, 
hình thức giảng dạy, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy, pháp quy tầm vĩ mô đối với 
công tác GDTC trường họcThực trạng hiện nay cho thấy, thực hiện tốt công việc 
này, cần phải có một sự phát triển đồng bộ của nhiều yếu tố. Song, không phải vì 
những khó khăn đó mà chúng ta không làm, mà chúng ta cần có những giải pháp 
cụ thể cho từng giai đoạn. Ví dụ: giai đoạn hiện nay, chúng ta cần mạnh dạn điều 
chỉnh nội dung chương trình, tiếp theo cần cải thiện về cơ sở vật chất và cuối cùng 
giải quyết về những nhiệm vụ người học và trách nhiệm của người dạy. 
3.3.2. Bàn về hình thức giảng dạy: 
 Phần lớn các trường hiện nay đều bố trí 1 học phần 30 tiết, tương ứng với 1 
học kỳ. Các môn thể thao tự chọn thường tổ chức học và kết thúc trong một học 
phần. Trong một học phần để hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động của một môn 
thể thao thì khó có thể thực hiện được. 
 Như chúng ta đã biết, kỹ năng, kỹ xảo được hình thành qua tập luyện được 
lặp lại nhiều lần và thông qua quá trình thi đấu, với một học phần thì thời gian để 
 - 39 - 
hoàn thành các nội dung về kỹ chiến thuật, thể lực, kiểm tra, đánh giá đã chiếm 
phần lớn thời gian, nên không có quỹ thời gian để tổ chức thi đấu nhiều được. 
 Với việc tổ chức học môn thể thao tự chọn liên tục trong nhiều học phần sẽ 
dể dàng hình thành được kỹ năng, kỹ xảo vận động của môn thể thao mà sinh viên 
đã lựa chọn. Khi có được vốn kiến thức về môn đã chọn, kết hợp với việc hình 
thành kỹ năng, kỹ xảo, sẽ tạo được niềm đam mê đối với sinh viên, từ đó việc tự 
giác tập luyện không còn là điều khó khăn, thậm chí nó còn tạo được nhịp sinh học 
tập luyện TDTT cho sinh viên. 
 Đối với nhiều môn học và đặc biệt với GDTC, thì việc củng cố và định 
hình các bài tập, các kỹ chiến thuật đã học liên tục, chắc chắn sẽ có hiệu quả cao 
hơn. 
3.3.3. Bàn về các môn thể thao : 
 Do tính chất đặc thù của từng ngành học, nên sự lựa chọn bổ sung các môn 
thể thao cũng có sự khác biệt. Thông qua công tác giảng dạy, quá trình trao đổi 
trực tiếp và khảo sát đối với một số ngành đặc thù như mầm non, kế toán sinh 
viên thì đa số chọn môn Thể dục nhịp điệu và Bơi lội bổ sung vào chương trình 
giảng dạy. Ngược lại, phần lớn sinh viên ngành kỹ thuật chọn môn Bóng bàn. 
Chính vì lẽ đó, việc khảo sát nhu cầu của sinh viên là rất cần thiết. Nếu đưa các 
môn mà phần lớn sinh viên yêu thích vào giảng dạy thì chắc chắn rằng mục tiêu 
chất lượng môn GDTC sẽ đạt được như mong muốn. 
 - 40 - 
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
A. KẾT LUẬN 
1. Thông qua quá trình khảo sát, sinh viên đồng ý chọn bổ sung các môn 
Bơi lội, Thể dục nhịp điệu và Bóng bàn vào chương trình giảng dạy tại Trường. 
 2. Thông qua quá trình khảo sát sinh viên và lấy ý kiến cán bộ, giảng viên, 
nên cho sinh viên học 01 môn thể thao tự chọn cho cả chương trình môn GDTC. 
Được chọn học 01 môn thể thao theo sở thích của các em thì chất lượng môn học 
sẽ được nâng cao, trình độ chuyên môn về các môn thể thao tự chọn của sinh viên 
được cải thiện hơn. Chú ý đến sĩ số lớp học, điều này cũng ảnh hưởng đến mục 
tiêu và chất lượng của môn học. 
B. KIẾN NGHỊ 
 Từ kết quả nghiên cứu, để vận dụng có hiệu quả kết quả của đề tài, chúng 
tôi có những kiến nghị sau: 
 1. Nên cho sinh viên chọn học các môn thể thao đúng theo sở thích, nguyện 
vọng của các em, chú ý đặc điểm giới tính, điều kiện sân bãi của trường để bố trí 
thời gian học một cách hợp lý nhất. 
 2. Để từng bước bổ sung các môn thể thao tự chọn vào chương trình đặc 
biệt là môn Bơi lội, nhà trường xem xét đầu tư cơ sở vật chất để phục vụ công tác 
giảng dạy môn này. Bơi lội không chỉ đơn thuần dạy cho các em biết bơi mà còn là 
một môn kỹ năng sinh tồn của con người. 
 3. Triển khai giảng dạy môn Bơi lội trong năm học 2014-2015 đối với Khoa 
Kỹ thuật Công nghệ và Khoa Nông nghiệp Thủy sản, Nhà trường xem xét hỗ trợ 
kinh phí thuê Hồ bơi phục vụ công tác dạy và học đối với môn này. 
 4. Xem xét và tuyển chọn giảng viên chuyên ngành Bơi lội và Thể dục nhịp 
điệu để công tác giảng dạy đạt hiệu quả hơn. 
 5. Nên cho các đối tượng có sức khỏe kém, khiếm khuyết bẩm sinh hoặc 
phụ nữ có thai học môn Cờ vua thay thế các môn thể thao khác. Nhằm tạo tạo điều 
kiện cho sinh viên rèn luyện ý chí, tinh thần và trí tuệ. 
 - 41 - 
 6. Các nhóm học môn GDTC tối đa 40 sinh viên, nếu quá đông sẽ ảnh 
hưởng đến chất lượng và trình độ phát triển các môn thể thao của sinh viên. 
 7. Khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất theo hướng Xã hội hóa TDTT. 
 - 42 - 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nghị Quyết số 08-NQ/TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo 
bước phát triển mạnh mẽ về Thể dục, Thể thao đến năm 2020 ngày 01/12/2011 
2. Dương Nghiệp Chí- Nguyễn Hiệp Lý luận và phương pháp huấn luyện thể 
thao, NXB TDTT, năm 1983. 
3. Đảng và Nhà nước về TDTT, NXB TDTT, Hà Nội 1991 
4. Văn bản hội nghị TDTT toàn quốc, NXB TDTT, Hà Nội năm 1991 
5. Các văn bản về công tác TDTT, NXB TDTT, Hà Nội năm 1993 
 6. Văn kiện Đại hội Đảng II, IV,V,VI,VII 
 7. GS Lê Văn Lẫm, thư ký Phạm Đình Bẩm, Quan điểm và giải pháp phát triển 
TDTT trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. 
 8.Thông tin khảo sát sinh viên tham khảo các đề tài có liên quan về các môn thể 
thao tự chọn của một số tác giả: 
 Tác giả Bùi Hoàng Phúc – Trường Đại học Sư Phạm Huế, năm 1998 
“Nghiên cứu hiệu quả của môn thể thao tự chọn cho nữ sinh viên Đại học Huế”. 
- Tác giả Nguyễn Văn Khanh- Trần Đình Thuận- 2005- Trường Cao đẳng 
Sư phạm Đà Lạt “Đổi mới tổ chức dạy học môn thể thao tự chọn ở Trường Cao 
đẳng Sư Phạm Đà Lạt” 
- Tác giả Lê thị Thúy – 2007 – “Nghiên cứu hiệu quả của Thể dục nhịp điệu đối 
với việc nâng cao sức khỏe cho nữ sinh viên Trường Đại học Nha Trang” 
- Tác giả Lê Quang Khôi – 2007- “Nghiên cứu tổ chức hoạt động các câu 
lạc bộ thể dục thể thao ngoại khóa cho sinh viên Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí 
Minh”, và một số công trình nghiên cứu khác. 
9. Báo thanh niên số ra ngày 19/2/2001. 

File đính kèm:

  • pdfbao_cao_nghien_cuu_bo_sung_cac_mon_the_thao_tu_chon_vao_chuo.pdf