Bài giảng Kế toán quản trị - Bài 1: Tổng quan về kế toán quản trị

Khái niệm

Kế toán quản trị là một bộ phận trong hệ thống thông

tin kế toán của một tổ chức. Các nhà quản lý dựa vào

thông tin kế toán quản trị để tiến hành hoạch định và

kiểm soát hoạt động của tổ chức.

Theo Luật Kế toán Việt Nam, kế toán quản trị được

định nghĩa là “việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích

và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài

chính trong nội bộ đơn vị kế toán” (Luật Kế toán, Khoản 3, Điều 4).

Như vậy, kế toán quản trị là một lĩnh vực kế toán được thiết kế để thoả mãn nhu cầu

thông tin của các nhà quản trị và các cá nhân khác làm việc trong một tổ chức.

 

pdf 156 trang kimcuc 3660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Kế toán quản trị - Bài 1: Tổng quan về kế toán quản trị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Kế toán quản trị - Bài 1: Tổng quan về kế toán quản trị

Bài giảng Kế toán quản trị - Bài 1: Tổng quan về kế toán quản trị
 Bài 1: Tổng quan về kế toán quản trị
ACC304_Bai 1_v1.0010110228 1 
BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ 
Giới thiệu 
Bài 1 sẽ giúp cho học viên có được các thông 
tin cơ bản nhất để có cái nhìn tổng quan về các 
loại kế toán, vai trò của kế toán quản trị, các 
yêu cầu của thông tin kế toán quản trị cũng 
như nội dung của công tác này. 
Nội dung Mục tiêu 
 Nội dung của kế toán quản trị. 
 So sánh kế toán quản trị và kế toán 
tài chính. 
 Yêu cầu thông tin đối với nhà quản trị. 
Thời lượng học 
 6 tiết 
Sau khi học xong bài này, học viên sẽ: 
 Hiểu được kế toán quản trị là gì? 
 Nắm được mục tiêu, vai trò và nội dung của 
kế toán quản trị. 
 Phân biệt được kế toán quản trị và kế toán 
tài chính. 
 Nắm được yêu cầu thông tin đối với nhà 
quản trị. 
 Bài 1: Tổng quan về kế toán quản trị
2 ACC304_Bai 1_v1.0010110228 
TÌNH HUỐNG KHỞI ĐỘNG BÀI 
Tình huống 
Công ty thương mại Hưng Thịnh chuyên kinh doanh ba loại sản phẩm A, B và C. Báo cáo kết 
quả kinh doanh năm 200X có một số số liệu sau: (đơn vị tính: đồng) 
Doanh thu 12.000.000 
Giá vốn hàng bán 7.000.000 
Chi phí bán hàng 2.400.000 
Chi phí quản lý doanh nghiệp 1.100.000 
Lợi nhuận chưa phân phối 1.500.000 
Chủ doanh nghiệp mong muốn biết được tỷ suất lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được trong kỳ kế 
toán 200X để từ đó có thể ra quyết định hướng tới phát triển sản phẩm có lợi nhuận cao hơn. 
Câu hỏi 
1. Hãy xác định mức lợi nhuận gộp (giá trị tuyệt đối và giá trị tương đối). Liệu các thông tin 
trên có đủ để cho nhà quản lý ra quyết định của mình không? 
2. Để có thể lựa chọn phát triển hoặc loại bỏ một sản phẩm trong ba sản phẩm trên, nhà quản 
trị cần thông tin gì? Liệu thông tin kế toán tài chính có thể trả lời được câu hỏi trên không? 
 Bài 1: Tổng quan về kế toán quản trị
ACC304_Bai 1_v1.0010110228 3 
1.1. Khái niệm và đối tượng, mục tiêu của kế toán quản trị 
1.1.1. Khái niệm 
1.1.1.1. Khái niệm 
Kế toán quản trị là một bộ phận trong hệ thống thông 
tin kế toán của một tổ chức. Các nhà quản lý dựa vào 
thông tin kế toán quản trị để tiến hành hoạch định và 
kiểm soát hoạt động của tổ chức. 
Theo Luật Kế toán Việt Nam, kế toán quản trị được 
định nghĩa là “việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích 
và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài 
chính trong nội bộ đơn vị kế toán” (Luật Kế toán, Khoản 3, Điều 4). 
Như vậy, kế toán quản trị là một lĩnh vực kế toán được thiết kế để thoả mãn nhu cầu 
thông tin của các nhà quản trị và các cá nhân khác làm việc trong một tổ chức. 
1.1.1.2. Bản chất của kế toán quản trị 
Tình huống 1: Giả sử các sản phẩm của doanh nghiệp Hưng Thịnh được tiêu thụ 
trong kỳ 200X như sau: 
 Sản phẩm Doanh thu Giá vốn hàng bán 
 A 7.200.000 4.900.000 
 B 3.000.000 1.100.000 
 C 1.800.000 1.000.000 
 Cộng 12.000.000 7.000.000 
Câu hỏi 1: Hãy xác định lợi nhuận gộp của từng loại sản phẩm (giá trị tuyệt đối và giá 
trị tương đối) và phân tích kết quả đạt được. 
Lợi nhuận gộp trên từng sản phẩm là: 
 Sản phẩm Doanh thu Giá vốn hàng bán Lợi nhuận gộp % 
 A 7.200.000 4.900.000 2.300.000 31,9% 
 B 3.000.000 1.100.000 1.900.000 63,3% 
 C 1.800.000 1.000.000 800.000 44,4% 
 Cộng 12.000.000 7.000.000 5.000.000 41,67% 
Nhìn vào kết quả trên đây, chúng ta nhận thấy mức lợi nhuận gộp trung bình là 
41,67% nhưng chỉ có sản phẩm B và C là đạt được trên mức này còn sản phẩm A 
không đạt được mức này. 
Tình huống 2: Với kết quả của tình huống 1, giả sử nhà quản lý mong muốn biết 
được kết quả kinh doanh của từng loại sản phẩm. 
Câu hỏi 2: Dựa trên các số liệu bổ sung sau đây, hãy cho biết lợi nhuận kinh doanh 
mà từng loại sản phẩm đóng góp vào lợi nhuận chưa phân phối của doanh nghiệp. 
 Bài 1: Tổng quan về kế toán quản trị
4 ACC304_Bai 1_v1.0010110228 
Chi phí bán hàng được phân bổ cho 3 sản phẩm theo tỷ lệ 60% cho A, 20% cho B và 
20% cho C. Chi phí quản lý doanh nghiệp được phân bổ cho ba sản phẩm theo tỷ lệ 
40% cho A, 30% cho B và 30% cho C. 
Trả lời: 
0 Tiêu chí A B C 
 Doanh thu bán hàng 7.200.000 3.000.000 1.800.000 
 Giá vốn hàng bán 4.900.000 1.100.000 1.000.000 
 Lợi nhuận gộp 2.300.000 1.900.000 800.000 
 Chi phí bán hàng 660.000 220.000 220.000 
 Chi phí quản lý doanh nghiệp 600.000 450.000 450.000 
 Lợi nhuận chưa phân phối 1.040.000 1.230.000 130.000 
 % tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 0,14 0,41 0,07 
Qua bảng trên chúng ta nhận thấy: Sản phẩm B là sản phẩm mang lại nhiều lợi nhuận 
cho doanh nghiệp nhất với 1.230.000 đồng với tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu đạt 
41% (tức là 1 đồng doanh thu đã mang lại 0,41 đồng lợi nhuận), trong khi đó sản 
phẩm A chỉ mang lại 0,14 đồng còn sản phẩm C chỉ mang lại có 0,07 đồng. 
Vì vậy doanh nghiệp có thể xem xét và phát triển sản phẩm B, còn sản phẩm C thì nên 
xem xét và có thể thu hẹp sản xuất. 
Câu hỏi 3: Hãy giải thích tại sao kế toán tài chính không cung cấp đủ thông tin cho 
nhà quản lý để xác định được lợi nhuận cho từng sản phẩm. 
Qua các tình huống trên, chúng ta nhận thấy, một trong những chức năng của kế toán 
quản trị là đo lường. Kế toán quản trị cho phép doanh nghiệp đo lường được các 
khoản chi phí cũng như kết quả hoạt động của từng đối tượng cụ thể: 
 Về phạm vi: Kế toán quản trị gồm các thông tin tài chính như giá phí, thông tin về 
các hoạt động kinh doanh như tỷ lệ sản phẩm hỏng v.v 
 Về mục đích: Kế toán quản trị giúp cho tổ chức đạt mục tiêu chiến lược nhưng đó 
không phải là mục tiêu lập báo cáo tài chính hay báo cáo thuế. 
 Về thuộc tính: Kế toán quản trị gồm ba thuộc tính: Kỹ thuật, hành vi ứng xử và 
văn hóa. 
 Thuộc tính kỹ thuật: Làm gia tăng sự 
hiểu biết các hiện tượng được đo lường 
và cung cấp các thông tin thích hợp 
cho quyết định chiến lược. 
 Thuộc tính hành vi ứng xử: Khuyến 
khích các hành động nhất quán với 
mục tiêu của tổ chức. 
 Thuộc tính văn hóa: Hỗ trợ hay tạo ra 
giá trị văn hóa, lòng tin và giá trị đạo đức trong tổ chức và xã hội. 
Một hệ thống kế toán quản trị tốt là một hệ thống đo lường tốt, hướng vào quy trình 
sản xuất và có tác động tích cực đến hành vi của các cá nhân trong tổ chức cùng 
hướng vào thực hiện mục tiêu chiến lược của tổ chức. 
 Bài 1: Tổng quan về kế toán quản trị
ACC304_Bai 1_v1.0010110228 5 
Vậy thế nào là một hệ thống đo lường tốt? Hệ thống đo lường tốt phải có hai đặc điểm 
chính sau: 
 Thông tin đưa ra phải thích hợp và có tác động làm thay đổi hay cải thiện các 
quyết định theo hướng tích cực. Nếu nhà quản lý không biết hay không đưa ra 
được quyết định đúng thì thông tin được đưa ra không còn thích hợp. Ví dụ: Hệ 
thống kế toán quản trị tiếp tục thu thập và báo cáo các thông tin về sử dụng lao 
động trong phân xưởng sản xuất ngay cả khi quá trình sản xuất này đã được tự 
động hóa, làm cho chi phí nhân công chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng chi phí. Vì vậy, 
thông tin này sẽ không được sử dụng. 
 Tập trung vào đo lường kết quả theo từng trung tâm trách nhiệm trong tổ chức. Ngày 
nay, nhà quản lý hiểu rằng kết quả ngày mai phụ thuộc vào tổ chức thực hiện công 
việc sản xuất sản phẩm hay dịch vụ ngay trong hôm nay. Do quá trình sản xuất hay 
dịch vụ được diễn ra theo chiều ngang, nghĩa là diễn ra trong các bộ phận của tổ chức 
và hệ thống đo lường thông qua hệ thống trách nhiệm của tổ chức. 
 Hệ thống kế toán quản trị hướng vào quy trình sản xuất chủ yếu là hướng vào việc 
đo lường tính toán kết quả của quy trình sản xuất, theo từng bộ phận tham gia 
trong quy trình nhằm thỏa mãn nhu cầu khách hàng. 
Với hệ thống kế toán hướng vào quy trình sản xuất sẽ giúp nhà quản trị doanh nghiệp 
trên các khía cạnh sau: 
 Thứ nhất là hiểu được mối quan hệ nhân quả. Ví 
dụ, hoạt động nào làm phát sinh chi phí; tại sao các 
hoạt động này không sinh lợi. 
 Thứ hai là nhận diện những hoạt động không làm 
tăng thêm giá trị, ví dụ như nhận diện những công 
việc thừa hay những hoạt động không đáp ứng yêu 
cầu của khách hàng từ đó có thể tổ chức lại quá 
trình sản xuất cho hợp lý. 
 Thứ ba là hiểu được mối quan hệ giữa các sự kiện 
trong chuỗi các sự kiện, ví dụ thông tin kế toán 
quản trị có thể chỉ ra ảnh hưởng của nhà cung cấp hay nhà phân phối đến giá trị 
sản phẩm hay dịch vụ mà khách hàng phải trả. 
 Thứ tư là tách biệt các tác động bên trong và bên ngoài tổ chức, ví dụ kế toán quản 
trị có thể chỉ ra bộ phận nào của quá trình sản xuất cản trở khả năng sản xuất và 
đưa đến sự bất mãn cho khách hàng. 
Hệ thống kế toán quản trị có tác động đến hành vi của các cá nhân trong tổ chức là do 
cách thức đo lường của kế toán quản trị có thể làm ảnh hưởng đến cách cư xử của con 
người trong tổ chức, biểu hiện ở chỗ: 
 Làm thay đổi nhận thức: Cái mà được đo lường, tính toán, thường được nổi bật và 
người ta thấy rõ vật đó hơn. Vì vậy thông thường các quyết định sẽ được đưa ra 
sau khi đã có sự đo lường, tính toán cụ thể. Ví dụ như các tính toán về chi phí cho 
việc bảo vệ môi trường sẽ làm cho nhà quản trị nghiêng về phía quyết định mua 
thiết bị không thải khí hại môi trường dù giá cả có đắt hơn. 
 Khuyến khích các hành vi đúng đắn: Khi một khoản được tính toán thì đó là dấu 
hiệu của mong muốn thay đổi thái độ và hành vi, ví dụ khi tính toán tỷ lệ việc giao 
 Bài 1: Tổng quan về kế toán quản trị
6 ACC304_Bai 1_v1.0010110228 
hàng đúng hạn là dấu hiệu của sự mong muốn giao hàng đúng hạn nhiều hơn và 
sau khi tính toán được tỷ lệ này sẽ dẫn đến hành vi lựa chọn nhà cung cấp có uy tín 
về thời hạn giao hàng. 
 Thay đổi thái độ và sự kỳ vọng: Việc tính toán là cơ sở cho sự đánh giá có khuynh 
hướng làm thay đổi thái độ và sự kỳ vọng của mỗi cá nhân. Ví dụ thiết lập định 
mức thời gian cho một công việc chính là thiết lập mục tiêu cho sự kỳ vọng đạt 
được mục tiêu thời gian. Khi đạt được định mức, người ta sẽ nhớ lại những cố 
gắng, những kỳ vọng đã qua và lại cố gắng để đạt thành tích cao hơn, nhưng nếu 
như không đạt được định mức thì thành tích có thể thấp hơn trong kỳ tới. 
 Thay đổi quan điểm: Người ta thường có khuynh 
hướng giải thích nguyên nhân của sự thành công 
gắn với quyết định và hành động của họ, nhưng lại 
giải thích nguyên nhân của sự thất bại lại gắn với 
các yếu tố khách quan nằm ngoài sự kiểm soát của 
họ. Do vậy, người ta có thể thay đổi quan điểm bởi 
sự tính toán của kế toán quản trị và dẫn đến sự thay 
đổi về hành vi. 
Tất cả những biểu hiện trên cho thấy: Các tính toán của kế toán quản trị đã tạo ra các 
biến số tác động về tâm lý – xã hội và kết quả của nó là làm thay đổi hành vi của con 
người trong tổ chức. Những hành vi của cá nhân trong tổ chức sẽ tạo ra giá trị văn hóa 
của một tổ chức. Giá trị văn hóa của tổ chức bao gồm: Lòng tin và giá trị đạo đức, 
quan điểm phân phối lợi ích kinh tế, và biểu tượng của tổ chức. Đây chính là những 
biến số văn hoá bị tác động bởi việc tính toán của kế toán quản trị. 
1.1.2. Đối tượng của kế toán quản trị 
1.1.2.1. Phản ánh chi tiết đối tượng của kế toán nói chung theo yêu cầu của quản 
trị doanh nghiệp 
Một tổ chức có thể được xác định như là một nhóm người liên kết với nhau để thực 
hiện một mục tiêu chung nào đó. Một ngân hàng thực hiện các dịch vụ tài chính là một 
tổ chức, một trường đại học thực hiện nhiệm vụ giáo dục đào tạo cũng là một tổ chức... 
Một tổ chức phải được hiểu là những con người trong tổ chức chứ không phải là của cải 
vật chất (tài sản) của tổ chức. 
Một tổ chức có những mục tiêu gì? Câu trả lời thật không đơn giản. Tuy nhiên, đó lại 
là cơ sở để ra quyết định về chiến lược và sách lược của tổ chức. 
Mục tiêu hoạt động của các tổ chức rất đa dạng và khác nhau. Trong mỗi một giai 
đoạn phát triển khác nhau, một tổ chức có thể xác định một hoặc một số mục tiêu nhất 
định. Dưới đây là một số mục tiêu thường gặp của các tổ chức: 
 Tối đa hóa lợi nhuận hoặc đạt được mức lợi nhuận mong muốn. 
 Giảm thiểu chi phí. 
 Tối đa hóa thị phần hoặc đạt được một mức thị phần nào đó. 
 Nâng cao chất lượng sản phẩm, dẫn đầu chất lượng sản phẩm. 
 Duy trì được sự tồn tại của doanh nghiệp. 
 Tăng trưởng. 
 Bài 1: Tổng quan về kế toán quản trị
ACC304_Bai 1_v1.0010110228 7 
 Tối đa giá trị tài sản. 
 Đạt được sự ổn định trong nội bộ. 
 Trách nhiệm đối với môi trường 
 Cung cấp các dịch vụ công cộng với chi phí tối thiểu. 
1.1.2.2. Phản ánh hoạt động của doanh nghiệp 
Những người chủ sở hữu và các nhà quản lý của tổ chức chịu trách nhiệm trong việc 
xác định mục tiêu hoạt động của tổ chức. Ví dụ: Mục tiêu của Công ty máy tính IBM 
do ban giám đốc (được các cổ đông của công ty bầu ra) của công ty thiết lập. 
Cho dù mục tiêu hoạt động của một tổ chức là gì thì công việc của các nhà quản lý là 
phải đảm bảo các mục tiêu được thực hiện. Trong quá trình theo đuổi mục tiêu của tổ 
chức, các nhà quản lý thực hiện bốn hoạt động (chức năng) cơ bản: 
 Lập kế hoạch. 
 Tổ chức và điều hành hoạt động. 
 Kiểm soát hoạt động. 
 Ra quyết định. 
Lập kế hoạch 
Trong việc lập kế hoạch, nhà quản lý vạch ra những bước phải làm để đưa hoạt động 
của doanh nghiệp hướng về các mục tiêu đã được xác định. Những kế hoạch này có 
thể dài hạn hay ngắn hạn. Khi các kế hoạch được thực hiện, chúng sẽ giúp cho việc 
liên kết tất cả các lực lượng của tất cả các bộ phận trong doanh nghiệp hướng về các 
mục tiêu đã định. 
Tổ chức và điều hành 
Trong việc tổ chức, nhà quản lý sẽ quyết định cách liên kết tốt nhất giữa tổ chức, con 
người với các nguồn lực lại với nhau sao cho kế hoạch 
được thực hiện có hiệu quả nhất. 
Trong việc điều hành, các nhà quản lý giám sát hoạt động 
hàng ngày và giữ cho cả tổ chức hoạt động trôi chảy. 
Kiểm soát 
Sau khi đã lập kế hoạch và tổ chức thực hiện, nhà quản 
lý phải kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế hoạch. 
Để thực hiện chức năng kiểm tra, các nhà quản lý sử dụng các bước công việc cần 
thiết để đảm bảo cho từng bộ phận và cả tổ chức đi theo đúng kế hoạch đã vạch ra. 
Trong quá trình kiểm soát, nhà quản lý sẽ so sánh hoạt động thực tiễn với kế hoạch đã 
thiết lập. So sánh này sẽ chỉ ra ở khâu nào công việc thực hiện chưa đạt yêu cầu, và 
cần sự hiệu chỉnh để hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu đã thiết lập. 
Ra quyết định 
Ra quyết định là việc thực hiện những lựa chọn hợp lý trong số các phương án khác nhau. 
Ra quyết định không phải là một chức năng riêng biệt, nó là một chức năng quan trọng, 
xuyên suốt các khâu trong qúa trình quản lý một tổ chức, từ khâu lập kế hoạch, tổ chức 
thực hiện cho đến kiểm tra đánh giá. Chức năng ra quyết định được vận dụng liên tục 
trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp. 
 Bài 1: Tổng quan về kế toán quản trị
8 ACC304_Bai 1_v1.0010110228 
Lập kế hoạch 
Ra quyết định 
Hành 
động 
và điều 
chỉnh 
Tổ 
chức 
và điều 
hành 
Kiểm tra và đánh giá 
Tất cả các quyết định đều có nền tảng từ thông tin. Do vậy, một yêu cầu đặt ra cho 
công tác kế toán, đặc biệt là kế toán quản trị là phải đáp ứng nhu cầu thông tin nhanh, 
chính xác cho nhà quản lý nhằm hoàn thành tốt việc ra quyết định. 
Sơ đồ 1.1: Chức năng của kế toán quản trị 
Bốn chức năng này như là nan hoa cho bánh xe của doanh nghiệp luôn quay đều được 
xung quanh trục “ra quyết định”. 
1.1.3. Mục tiêu của kế toán quản trị 
Để thực hiện các công việc trong quá trình quản lý hoạt động của tổ chức, các nhà 
quản lý cần thông tin. Thông tin mà các nhà quản lý cần có để thực hiện công việc được ... 
Tổng nhu cầu hiện tại về bao bì đóng gói thành phẩm của Công ty là 10.000 bao/năm. 
Chi phí liên quan đến sản xuất bao bì trong năm vừa qua như sau (cho 10.000 bao bì). 
Bảng 7.7: Bảng tổng hợp chi phí 
Đơn vị: 1.000 đồng 
Khoản mục Tính trên 1 đơn vị Tổng số 
Nguyên vật liệu trực tiếp 10 100.000 
Nhân công trực tiếp 5 50.000 
Biến phí sản xuất chung 2 20.000 
Tiền lương nhân viên quản lý, phục vụ phân xưởng 2 20.000 
Chi phí khấu hao máy móc thiết bị sản xuất 4 40.000 
Định phí quản lý chung phân bổ 2 20.000 
Cộng chi phí 25 250.000 
Như vậy, chi phí sản xuất đơn vị là 25.000 đồng/bao bì. 
Có một nguồn cung cấp chào hàng bao bì như của Công ty với giá 23.000 đồng/bao 
bì, chất lượng đảm bảo đáp ứng yêu cầu của Công ty. Vậy, trong trường hợp này công 
ty Hưng Thịnh nên quyết định tự sản xuất hay mua ngoài bao bì đóng gói? 
Các thông tin bổ sung: 
 Dự kiến khối lượng bao bì tiêu thụ trong năm tới không có sự biến động. 
 Tiền lương nhân viên phân xưởng là chi phí biến đổi. 
 Bộ phận sản xuất bao bì không dùng cho mục đích khác. 
Để ra quyết định này, nhà quản lý phải phân tích xem những chi phí nào là tránh được 
và những chi phí nào là không tránh được khi ngưng hoạt động sản xuất bao bì. 
Những chi phí không thể tránh được là các chi phí chìm và các chi phí tương lai phát 
sinh cho dù các linh kiện được sản xuất hay mua ngoài. Những chi phí còn lại (sau khi 
đã loại bỏ các chi phí chìm và chi phí không tránh được) là những chi phí có thể trách 
được nếu công ty mua linh kiện từ bên ngoài. 
Tiêu chuẩn ra quyết định như sau: 
Nếu những chi phí có thể tránh được thấp hơn giá mua từ nhà cung cấp bên ngoài thì 
công ty nên tiếp tục sản xuất. 
Nếu chi phí có thể tránh được do việc ngừng sản xuất cao hơn giá mua từ nhà cung 
ứng thì công ty nên ngưng sản xuất và mua từ nhà cung ứng. 
Giải: 
Với các thông tin trên, chúng ta nhận thấy: 
 Vì không có phương án nào khác để sử dụng bộ phận sản xuất bao bì nếu nó 
ngừng hoạt động do mua ngoài bao bì nên các chi phí cơ hội không phát sinh. 
 Các khoản doanh thu và chi phí sau đây không phải là thông tin phù hợp cho quyết 
định này: 
o Doanh thu bán hàng. 
 Bài 7: Sử dụng thông tin kế toán quản trị để ra quyết định ngắn hạn
ACC304_Bai 7_v1.0010110228 151 
o Chi phí khấu hao TSCĐ. 
o Chi phí chung (chi phí cố định) phân bổ. 
 Còn lại các thông tin phù hợp sẽ được trình bày trong bảng sau: 
Bảng 7.8: Phân tích quyết định nên tự sản xuất hay nên mua ngoài sản phẩm 
 Đơn vị tính: 1.000 đồng 
Khoản mục Tự sản xuất Mua ngoài 
Nguyên vật liệu trực tiếp (10 x 10.000 bao bì) 100.000 – 
Nhân công trực tiếp (5 x 10.000 bao bì) 50.000 – 
Biến phí sản xuất chung (2 x 10.000 bao bì) 20.000 – 
Tiền lương nhân viên quản lý, phục vụ phân xưởng 
(2 x 10.000 bao bì) 
20.000 – 
Chi phí mua ngoài (23 x 10.000 bao bì) – 230.000 
Cộng chi phí 190.000 230.000 
Như vậy, nếu tự sản xuất thì công ty sẽ tiết kiệm được 40 triệu đồng (190 triệu đồng – 
230 triệu đồng) so với mua ngoài. 
Điều đó có thể đi đến quyết định là không nên mua ngoài mà vẫn tiếp tục sản xuất 
bao bì đóng gói. 
Tuy nhiên, quyết định tự sản xuất như trên càng được thuyết phục hơn nếu như bộ 
phận sản xuất bao bì này nâng được công suất hoạt động thực tế hơn hiện tại, với điều 
kiện nhu cầu bao bì của công ty tăng lên do khối lượng sản phẩm tiêu thụ của công ty 
ngày càng tăng hoặc công ty có thể bán bao bì đóng gói cho công ty khác. 
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần xem xét vấn đề về chi phí cơ hội. 
Trong trường hợp các nguồn lực và phương tiện sử dụng trong sản xuất bao bì doanh 
nghiệp có thể sử dụng vào mục đích khác như cho thuê, hoặc sử dụng vào việc sản 
xuất sản phẩm khác thì chúng ta còn phải xem xét đến chi phí cơ hội của việc sử dụng 
các nguồn lực và phương tiện này. 
Trong trường hợp trên, nếu nguồn lực nhàn rỗi không có phương án sử dụng nào khác 
thì chi phí cơ hội của nó bằng 0. Nhưng nếu nguồn lực hiện đang sử dụng để sản xuất bao 
bì được sử dụng vào một mục đích khác có thể sinh lợi thì như thế nào? Trong trường hợp 
này, các nguồn lực hiện đang sử dụng sẽ có một chi phí cơ hội cần phải được xem xét 
cùng với lời chào hàng của nhà cung ứng bên ngoài. 
Ví dụ: Xét tiếp ví dụ trên, nếu cơ sở sản xuất bao bì của công ty Hưng Thịnh được 
cho thuê, hàng năm thu được khoản lợi nhuận lớn hơn 40 triệu đồng thì sẽ quyết định 
mua ngoài bao bì và cho thuê cơ sở sản xuất này. 
Cách thu thập nguồn số liệu, thông tin phục vụ cho loại tình huống quyết định tự sản xuất 
hay mua ngoài chi tiết, vật liệu, bao bì: 
 Những thông tin quá khứ (đã thực hiện ở kỳ vừa qua): kế toán chi tiết chi phí, tính toán 
chi tiết hơn các khoản mục chi phí, thông tin để lập bảng phân tích chi phí theo đơn vị, 
tổng số. 
 Những thông tin tương lai (dự đoán) và các thông tin khác, như: dự kiến nhu cầu khối 
lượng cần sản xuất; tiền lương công nhân, nhân viên quản lý, khả năng sử dụng nhà 
xưởng, tài sản cố định của bộ phận tự sản xuất 
 Xác định thông tin phù hợp, loại bỏ thông tin không phù hợp. 
 Lập bảng phân tích chênh lệch lợi nhuận giữa các phương án để tư vấn nhà quản trị ra 
quyết định. 
 Bài 7: Sử dụng thông tin kế toán quản trị để ra quyết định ngắn hạn
152 ACC304_Bai 7_v1.0010110228 
7.4.4. Quyết định nên bán ngay bán thành phẩm hoặc tiếp tục sản xuất ra thành 
phẩm rồi mới bán 
Quyết định nên bán ngay bán thành phẩm hay nên tiếp tục sản xuất hoàn thành rồi mới 
bán thường được gặp ở các công ty sản xuất nhiều loại sản phẩm từ một loại nguyên 
liệu đầu vào trên một qui trình sản xuất chung. Quy trình sản xuất tiêu biểu cho dạng 
này có thể được biểu diễn thông qua mô hình tổng quát sau đây: 
Sơ đồ 7.2: Quy trình sản xuất chung 
Hai hoặc nhiều sản phẩm được sản xuất ra từ một nguyên liệu chung được gọi là các 
sản phẩm chung (joint products). Điểm nằm trong quy trình sản xuất mà tại đó, các 
sản phẩm chung được tách ra thành các sản phẩm riêng 
biệt được gọi là điểm phân chia (split-off point). Tại 
điểm này, một số các sản phẩm chung sẽ có thể được 
đem bán cho khách hàng. Số còn lại cần được tiếp tục 
chế biến cho đến sản phẩm hoàn thành trước khi chúng 
được đem tiêu thụ ngoài thị trường. Ví dụ trong xí 
nghiệp chế biến thực phẩm, có thể người ta bán ngay 
thịt heo vừa mới mổ, nhưng cũng có thể chế biến tiếp 
từ thịt heo ra các thực phẩm chế biến sẵn như giò, chả, xúc xích, lạp sườn 
Vấn đề đặt ra ở đây là sản phẩm nào nên được tiêu thụ ngay tại điểm phân chia và sản 
phẩm nào nên tiếp tục sản xuất rồi mới tiêu thụ? 
 Một điều cần lưu ý là các chi phí phát sinh tính đến điểm phân chia là những chi phí 
chìm và không phù hợp trong các quyết định nên bán tại điểm phân chia hay sản xuất 
tiếp. Những chi phí phát sinh sau điểm phân chia là những chi phí phù hợp. Nguyên 
tắc chung để quyết định là dựa vào kết quả so sánh giữa thu nhập tăng thêm với chi 
phí tăng thêm do tiếp tục sản xuất. 
 Nếu như thu nhập tăng thêm lớn hơn chi phí tăng thêm do tiếp tục sản xuất thì 
quyết định tiếp tục sản xuất. 
 Nếu thu nhập tăng thêm nhỏ hơn chi phí tăng thêm do tiếp tục sản xuất thì quyết 
định bán sản phẩm tại điểm phân chia. 
Nguyên vật 
liệu cơ bản 
Quy trình 
sản xuất 
chung 
Bán thành 
phẩm B 
Quy trình 
sản xuất 
riêng 
Thành 
phẩm B 
Bán
Bán thành 
phẩm A 
Bán thành 
phẩm C 
Quy trình 
sản xuất 
riêng 
Quy trình 
sản xuất 
riêng 
Thành 
phẩm A 
Thành 
phẩm C 
Bán
Bán
Điểm 
phân chia 
 Bài 7: Sử dụng thông tin kế toán quản trị để ra quyết định ngắn hạn
ACC304_Bai 7_v1.0010110228 153 
Phương pháp chung của cách phân tích các thông tin phù hợp trong tình huống này là: 
 Xác định giá bán cho từng loại sản phẩm cộng sinh ở giai đoạn cuối cùng (thành phẩm). 
 Xác định giá bán của thành phẩm tại điểm tách hoặc ở từng giai đoạn mà doanh 
nghiệp có ý định bán ra. 
 Tính chênh lệch giá bán hàng của thành phẩm và bán thành phẩm. 
 Xác định chi phí của quá trình tiếp tục chế biến ra thành phẩm (nguyên vật liệu, 
nhân công trực tiếp, biến phí sản xuất chung). 
 Định phí tiết kiệm được do chấm dứt quá trình tiếp tục chế biến ra thành phẩm và 
ra quyết định. 
 Tính toán lãi (lỗ) tăng thêm do quá trình tiếp tục chế biến ra thành phẩm và ra 
quyết định. 
Lãi (lỗ) tăng 
thêm do tiếp tục 
chế biến ra 
thành phẩm 
= 
Chênh lệch giá 
bán của thành 
phẩm với bán 
thành phẩm 
–
Chi phí tăng 
thêm của 
quá trình tiếp tục 
chế biến ra 
thành phẩm 
– 
Định phí tiết 
kiệm được nếu 
ngừng chế 
biến 
 Nếu lãi thì tiếp tục sản xuất chế biến, ngược lại, nếu lỗ thì không tiếp tục chế biến 
thêm nữa mà bán ngay bán thành phẩm. 
Ví dụ: 
Để minh họa, chúng ta lấy ví dụ của một công ty chế biến thực phẩm sau đây. Giả sử 
có ba sản phẩm được sản xuất từ cùng thịt bò. Các số liệu về chi phí và thu nhập liên 
quan đến các sản phẩm được cho trong bảng 7.9: 
Bảng 7.9: Quyết định nên bán hay nên tiếp tục quá trình sản xuất 
Đơn vị tính: 1.000 đồng 
Sản phẩm 
A B C 
Giá trị bán ở điểm phân chia 120.000 150.000 60.000 
Giá trị bán sau khi chế biến thêm 160.000 240.000 90.000 
Các chi phí sản phẩm chung phân bổ 80.000 100.000 40.000 
Chi phí chế biến thêm 50.000 60.000 10.000 
So sánh giữa việc bán sản phẩm tại điểm phân 
chia và chế biến thêm: 
Giá trị bán sau khi chế biến thêm 160.000 240.000 90.000 
Giá trị bán tại điểm phân chia 120.000 150.000 60.000 
Thu nhập tăng thêm do chế biến thêm 40.000 90.000 30.000 
Chi phí chế biến thêm 50.000 60.000 10.000 
Lãi/Lỗ do chế biến thêm (10.000) 30.000 20.000 
 Qua số liệu phân tích trên bảng 7.9, công ty nên quyết định bán sản phẩm A tại điểm 
phân chia vì việc tiếp tục chế biến sản phẩm này sẽ gây thiệt hại cho công ty 10.000 
(nghìn đồng). Còn đối với các sản phẩm B và C thì nên tiếp tục chế biến cho đến 
sản phẩm hoàn thành rồi mới tiêu thụ vì việc này mang lại lợi nhuận nhiều hơn cho 
công ty. 
 Bài 7: Sử dụng thông tin kế toán quản trị để ra quyết định ngắn hạn
154 ACC304_Bai 7_v1.0010110228 
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI 
Vai trò của nhân viên kế toán quản trị trong quá trình ra quyết định là cung cấp những thông tin 
phù hợp cho các nhà quản lý để ra quyết định. Các nhà quản lý sử dụng thông tin được cung cấp 
để so sánh, đánh giá các phương án và ra quyết định. 
Khái niệm chi phí và thu nhập phù hợp được vận dụng rộng rãi trong quản trị. Trong bài này, 
chúng ta đã nghiên cứu việc sử dụng nó trong quyết định liên quan đến việc chấp nhận hoặc từ 
chối một đơn hàng đặc biệt, trong quyết định nên làm hay nên mua, trong quyết định nên ngừng 
hay tiếp tục kinh doanh một loại sản phẩm cũng như trong các quyết định liên quan đến việc sử 
dụng có hiệu quả các nguồn lực sản xuất có giới hạn. 
Để phù hợp cho việc ra quyết định, thông tin về chi phí và thu nhập phải thoã mãn: (1) liên quan 
đến tương lai và (2) khác nhau giữa các phương án so sánh. Nói chung, tất cả các chi phí đều phù 
hợp cho việc ra quyết định ngoài trừ các chi phí chìm và các chi phí không chênh lệch giữa các 
phương án. 
Một điều cần lưu ý là khái niệm “thông tin phù hợp” được vận dụng trong bài này chỉ liên quan 
đến các tình huống ra quyết định ngắn hạn, chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp trong 
ngắn hạn. Trong phân tích các quyết định dài hạn, chúng ta phải xem xét giá trị theo thời gian 
của tiền tệ. Phân tích các quyết định dài hạn cần sử dụng một công cụ gọi là dự toán vốn. 
 Bài 7: Sử dụng thông tin kế toán quản trị để ra quyết định ngắn hạn
ACC304_Bai 7_v1.0010110228 155 
CÂU HỎI ÔN TẬP 
1. Trình bày vai trò của nhân viên kế toán quản trị trong quá trình ra quyết định. 
2. Liệt kê và giải thích 6 bước trong quá trình ra quyết định. 
3. Phân biệt giữa phân tích định lượng và phân tích định tính. 
4. Các tiêu chuẩn của thông tin hữu ích là gì? Hãy giải thích từng tiêu chuẩn của thông tin 
hữu ích. Có phải lúc nào thông tin cũng đảm bảo tính chính xác và kịp thời cho việc ra quyết 
định không? 
5. Liệt kê và giải thích hai tiêu chuẩn của thông tin phù hợp. 
6. Giải thích vì sao giá trị còn lại trên sổ sách của tài sản cố định (ví dụ như máy móc thiết bị) 
không phải là một thông tin phù hợp? 
7. Cho hai ví dụ về chi phí chìm. Giải thích vì sao chi phí chìm không phù hợp cho việc ra 
quyết định? 
8. Vì sao một nhà quản lý thường có khuynh hướng xem xét không đúng chi phí chìm trong 
quá trình ra quyết định? Họ có thể mắc sai lầm là xem chi phí chìm là một chi phí thích hợp 
khi ra quyết định? 
9. Các chi phí và thu nhập phát sinh trong tương lai có thể không thích hợp cho việc ra quyết 
định? Trong trường hợp nào điều này sẽ đúng? Cho một ví dụ minh hoạ. 
10. Định nghĩa chi phí cơ hội. Cho một ví dụ minh hoạ. Chi phí cơ hội có phải là thông tin thích 
hợp cho việc ra quyết định không? Vì sao? 
11. Sự tồn tại năng lực hoạt động nhàn rỗi có ảnh hưởng như thế nào đến quyết định chấp nhận 
hoặc từ chối một đơn hàng đặc biệt? 
12. Khi ra quyết định tiếp tục hoặc ngưng hoạt động một bộ phận kinh doanh một sản phẩm, nhà 
quản lý sẽ sử dụng phương pháp phân tích như thế nào? Trong trường hợp nào thì quyết định 
duy trì và trong trường hợp nào thì quyết định ngưng hoạt động một bộ phận kinh doanh 
hoặc ngưng sản xuất một sản phẩm? 
13. Khi ra quyết định nên làm hay nên mua các linh kiện/bộ phận cấu thành hoặc sản phẩm, nhà 
quản lý sẽ phân tích như thế nào? Trong trường hợp nào thì quyết định mua ngoài và trường 
hợp nào thì quyết định sản xuất? 
 Bài 7: Sử dụng thông tin kế toán quản trị để ra quyết định ngắn hạn
156 ACC304_Bai 7_v1.0010110228 
BÀI TẬP THỰC HÀNH 
Bài 7.1. Hãy chọn một doanh nghiệp mà bạn biết (ví dụ: Công ty bia Huda Huế) và cho ví dụ 
minh hoạ về một tình huống ra quyết định cụ thể của công ty. Mô tả từng bước trong quá trình ra 
quyết định này. 
Bài 7.2. Công ty P mua một lò nướng pizza cách đây hai năm với giá 90.000.000 đồng. Lò 
nướng này có thể sử dụng hữu ích thêm một năm nữa. Lò nướng này được khấu hao theo mô 
hình khấu hao đều. Công ty P có thể mua một lò nướng bánh mới có giá 20.000.000 đồng và có 
thời gian sử dụng hữu ích trong một năm. Việc đưa lò nướng bánh này vào hoạt động sẽ tiết 
kiệm được cho công ty 26.000.000 đồng chi phí hoạt động hàng năm (so với việc sử dụng lò 
nướng cũ). 
Nhà quản lý Công ty P đã quyết định không mua lò nướng mới vì ông ta cho rằng việc mua lò 
nướng mới sẽ gây thiệt hại cho công ty 4.000.000 đồng trong năm tới. 
Yêu cầu: 
1. Theo bạn, nhà quản lý Công ty tính toán như thế nào để có được mức lỗ 4.000.000 đồng trong 
năm tới nếu lò nướng pizza mới được mua? 
2. Hãy đánh giá về cách nhà quản lý công ty đã phân tích và ra quyết định. 
3. Là nhân viên kế toán quản trị của công ty, bạn phân tích tình huống trên như thế nào? Theo 
bạn, Công ty có nên mua lò nướng mới để sử dụng không? 
Bài 7.3. Công ty H có một số phụ tùng tồn kho trị giá 200.000.000 đồng. Số phụ tùng này đã lỗi 
thời do sự thay đổi các tiêu chuẩn kỹ thuật thiết kế. Số phụ tùng này có thể bán ra thị trường với 
giá 120.000.000 đồng, hoặc chúng sẽ được hiệu chỉnh lại cho phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật 
hiện hành và sau đó bán ra thì sẽ thu được 235.000.000 đồng. Chi phí cho việc hiệu chỉnh là 
120.000.000 đồng. 
Yêu cầu: 
1. Những thông tin nào là thích hợp cho quyết định liên quan đến số phụ tùng tồn kho? 
2. Công ty nên bán số phụ tùng ngay hay sửa chữa/hiệu chỉnh rồi bán. 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_ke_toan_quan_tri_bai_1_tong_quan_ve_ke_toan_quan_t.pdf