Áp dụng phương pháp điều tra thống kê trong việc xác định nhu cầu dùng tin của bạn đọc tại các thư viện

Tại sao cần phải xác định khuynh

hướng và nhu cầu sử dụng tin?

Xác định khuynh hướng sử dụng tin

của bạn đọc là một công việc cần được

thực hiện thường xuyên (thường là hàng

năm hay định kỳ 6 tháng một lần) tại các

thư viện hay các trung tâm thông tin tư

liệu. Công việc này thường do bộ phận

phục vụ bạn đọc thực hiện, nhằm mục

đích nghiên cứu thống kê nhu cầu và

khuynh hướng sử dụng thông tin và tài

liệu tại các thư viện, các trung tâm thông

tin hay các trung tâm học liệu. Việc

phân tích các kết quả thống kê sẽ góp

phần giúp các cấp quản l ý ra quyết định

về chính sách, chiến lược bổ sung phát

triển kho tư liệu, là điều kiện tiền đề phát

triển các dịch vụ thông tin và chia sẻ

thông tin liên thư viện trong tương lai tại

Việt Nam.

Tuy nhiên, trong thực tế không phải

thư viện nào ở Việt Nam cũng tiến hành

công việc nghiên cứu điều tra nhu cầu

một cách khoa học và hiệu quả, muốn có

được một số liệu thống kê đáng tin cậy

cần phải có một phương pháp nghiên cứu

đúng đắn và công cụ thống kê (phần

mềm) hiệu quả. Chúng ta sẽ tìm hiểu các

bước chính của phương pháp nghiên cứu

điều tra này.

pdf 5 trang kimcuc 3540
Bạn đang xem tài liệu "Áp dụng phương pháp điều tra thống kê trong việc xác định nhu cầu dùng tin của bạn đọc tại các thư viện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Áp dụng phương pháp điều tra thống kê trong việc xác định nhu cầu dùng tin của bạn đọc tại các thư viện

Áp dụng phương pháp điều tra thống kê trong việc xác định nhu cầu dùng tin của bạn đọc tại các thư viện
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 10/2004 
17 
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA THỐNG KÊ TRONG VIỆC XÁC 
ĐỊNH NHU CẦU DÙNG TIN CỦA BẠN ĐỌC TẠI CÁC THƯ VIỆN 
ĐỖ ANH THƯ, MBA., MEB. 
Các dự án Thư viện và Trung tâm học liệu 
Đại học Quốc Tế RMIT - Việt Nam 
 ài viết này tập trung giải quyết vấn đề làm thế nào để xác định nhu cầu dùng tin của 
 bạn đọc tại các thư viện và trung tâm tư liệu một cách chính xác, nhanh chóng và 
hiệu quả, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch bổ sung, biên mục và các chiến lược phát 
triển, chia sẻ nguồn tài nguyên của các thư viện và trung tâm thông tin tư liệu. 
Tại sao cần phải xác định khuynh 
hướng và nhu cầu sử dụng tin? 
Xác định khuynh hướng sử dụng tin 
của bạn đọc là một công việc cần được 
thực hiện thường xuyên (thường là hàng 
năm hay định kỳ 6 tháng một lần) tại các 
thư viện hay các trung tâm thông tin tư 
liệu. Công việc này thường do bộ phận 
phục vụ bạn đọc thực hiện, nhằm mục 
đích nghiên cứu thống kê nhu cầu và 
khuynh hướng sử dụng thông tin và tài 
liệu tại các thư viện, các trung tâm thông 
tin hay các trung tâm học liệu. Việc 
phân tích các kết quả thống kê sẽ góp 
phần giúp các cấp quản l ý ra quyết định 
về chính sách, chiến lược bổ sung phát 
triển kho tư liệu, là điều kiện tiền đề phát 
triển các dịch vụ thông tin và chia sẻ 
thông tin liên thư viện trong tương lai tại 
Việt Nam. 
Tuy nhiên, trong thực tế không phải 
thư viện nào ở Việt Nam cũng tiến hành 
công việc nghiên cứu điều tra nhu cầu 
một cách khoa học và hiệu quả, muốn có 
được một số liệu thống kê đáng tin cậy 
cần phải có một phương pháp nghiên cứu 
đúng đắn và công cụ thống kê (phần 
mềm) hiệu quả. Chúng ta sẽ tìm hiểu các 
bước chính của phương pháp nghiên cứu 
điều tra này. 
Phương pháp nghiên cứu nhu cầu 
tin của bạn đọc trong thư viện: 
Phương pháp điều tra thống kê 
1. Chọn mẫu 
Công việc đầu tiên của bất kỳ một 
nghiên cứu điều tra cụ thể nào đó là việc 
xác định ai là đối tượng sử dụng thông 
tin (hay dịch vụ) của thư viện, có tất cả 
bao nhiêu độc giả đang sử dụng thông tin 
trong thư viện của bạn? Ở những thư 
viện nhỏ hay chuyên ngành, có khi chỉ 
vài trăm bạn đọc, nhưng ở các trung tâm 
thông tin tư liệu hay các thư viện lớn, 
con số này quả là không nhỏ và có khi 
lên đến vài chục ngàn người. 
Làm thế nào chúng ta xác định được 
khuynh hướng sử dụng tin của một số 
lớn bạn đọc tại một thư viện nào đó? 
Trong điều kiện kinh phí hạn hẹp, thời 
gian và nhân sự có hạn. 
Tùy vào số lượng độc giả, chúng ta 
tiến hành chọn “nhóm mục tiêu nghiên 
cứu”. Ai là người chúng ta cần gặp để 
phỏng vấn hay gửi bảng câu hỏi, vv.? 
Việc xác định nhóm mục tiêu đúng đóng 
vai trò quyết định cho độ chính xác của 
nghiên cứu điều tra sau này. 
Việc thứ hai cần phải làm là chúng ta 
xác định xem cần phải phỏng vấn bao 
nhiêu người hay cần bao nhiêu người trả 
lời bảng câu hỏi, nói cách khác chúng ta 
B 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 10/2004 
18 
cần bao nhiều người cho mẫu đại diện. 
Khoa học thống kê đã thực sự giúp 
chúng ta trong vấn đề này, mẫu đại diện 
sẽ phản ánh đầy đủ khuynh hướng của 
cả nhóm nếu chúng ta chọn mẫu đúng. 
Quyết định về độ lớn của mẫu phải được 
dựa trên các yếu tố: Thời gian, ngân 
sách và mức độ chính xác cần thiết mà 
người điều tra mong muốn. 
Trong thực tế có nhiều cách thiết kế 
mẫu và chọn mẫu đại diện, trong phạm vi 
bài viết này, tôi chỉ giới thiệu với các bạn 
một số cách xác định mẫu đại diện tương 
đối phù hợp cho các loại hình thư viện để 
các bạn tham khảo như sau: 
– Trong trường hợp tổng số bạn đọc 
trong thư viện ít hơn 200 người, 
chúng ta tiến hành phương pháp 
điều tra dân số, có nghĩa là sẽ phỏng 
vấn hoặc gửi bảng câu hỏi cho tất cả 
bạn đọc. Phương pháp này chính xác 
và bảo đảm thu được ý kiến của hầu 
hết tất cả mọi thành viên. Tuy nhiên 
trong thực tế rất ít thư viện có số 
lượng bạn đọc ít như vậy. 
– Trong trường hợp số lượng bạn đọc 
lớn hơn 200, ta sử dụng công thức 
đơn giản sau của Yamane (1967-
1986): 
n= N\1+N(e)2 
n: Số lượng thành viên mẫu cần xác 
định cho nghiên cứu điều tra 
N: là tổng số mẫu 
e: là mức độ chính xác mong muốn. 
Ví dụ tổng bạn đọc trong thư viện là 
16,000 người, ta cho phép nghiên cứu chỉ 
sai số 5% và độ tin cậy là 95%, như vậy 
ta sẽ nhanh chóng tính được tối thiểu 
phải gửi bảng câu hỏi hay phỏng vấn bao 
nhiêu người bằng công thức ở trên. Ta 
có: n=16000\ 1+16000(.05)2 
 n = 390 
Trong trường hợp ta cần nghiên cứu 
chính xác hơn, cho phép sai số chỉ 
khoảng ± 3% chẳng hạn, ta sẽ tính được 
n = 16000\1+ 16000*(0.03)2 ; n = 1039 
Như vậy rõ ràng là số lượng mẫu thử 
hay số lượng trong mẫu đại diện phụ 
thuộc rất nhiều vào độ chính xác mà 
chúng ta đòi hỏi. Một lần nữa chúng ta 
lại phải cân nhắc lại các yếu tố về thời 
gian, kinh phí nghiên cứu và mức độ 
chính xác cần thiết để lên quyết định về 
độ lớn của mẫu đại diện. 
Chú ý: 
– Số lượng n tính được là số lượng cần 
có để phân tích số liệu. Trong thực tế, 
n+10% hay n+30% là số lượng câu 
hỏi mà các nhà nghiên cứu cần gửi để 
có được con số n mong đợi trong mẫu 
đại diện (vì thực tế phải trừ hao 
trường hợp không liên lạc được với 
người cần phỏng vấn hay một số 
người không trả lời các câu hỏi. ) 
Chúng ta cần nắm rõ điều này để lên 
kế hoạch công việc và chi phí. 
– Phương pháp tiếp cận trên chỉ áp 
dụng khi giả định là mẫu đại diện mà 
ta thiết kế có phân bố tự do ngẫu 
nhiên đơn giản. Các thiết kế mẫu 
phức tạp hơn, ví dụ như các mẫu 
ngẫu nhiên phân lớp(stratified-
systematic-random-sampling) sẽ phải 
tính đến các biến của các phân nhóm, 
phân lớp trước khi dự đoán khuynh 
hướng thay đổi của cả nhóm nói 
chung. 
– Một cân nhắc khác là số lượng tối 
thiểu cần để phân tích số liệu, nếu chỉ 
cần dùng thống kê mô tả, ví dụ như 
giá trị trung bình, tần xuất, vv. thì ta 
không cần phải quan tâm đến số 
lượng trong mẫu đại diện. Tuy nhiên 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 10/2004 
19 
nếu cần phân tích hồi quy phức tạp, 
phân tích hiệp biến (covariance), hay 
phân tích tuyến tính, vv. để có được 
những đánh giá sâu hơn. Ta cần quan 
tâm đến số lượng mẫu, thường thì n 
vào khoảng 200-500 là có thể tiến 
hành những phân tích này. 
– Số lượng mẫu đôi khi cần phải được 
sửa đổi cho phù hợp với việc phân 
tích so sánh giữa các phân nhóm 
trong mẫu đại diện(ví dụ đơn giản 
như một mẫu đại diện gồm 2 phân 
nhóm là sinh viên đại học và giảng 
viên/cán bộ nghiên cứu sử dụng dịch 
vụ thông tin của môt trung tâm học 
liệu, vv.). Sudman(1976) đề nghị là 
tối thiểu 100 cho mỗi nhóm chính hay 
từ 20 đến 50 cho nhóm phụ. Trong ví 
dụ ở trên, giả sử ta tính được độ lớn 
của mẫu n=390, đại diện cho 16,000 
sinh viên và giảng viên của một 
trường đaị học, và giả sử tỷ lệ giảng 
viên/sinh viên đại học lần lượt là 
1:23, thì ta có thể đưa vào mẫu đại 
diện n1=16 giảng viên và n2= 374 
sinh viên. Trong thực tế, n1=16 
không đủ cho phân tích chuyên sâu 
về nhóm bạn đọc là giảng viên, ta cần 
phải phỏng vấn thêm ít nhất 36 giảng 
viên nữa khi nghiên cứu riêng về 
nhóm đối tượng giảng viên. Đó cũng 
là biện pháp mà một số công ty 
nghiên cứu thị trường thường áp dụng 
trong trường hợp cần phân tích đầy 
đủ các thành phần và khuynh hướng 
của các phân nhóm trong mẫu đại 
diện. 
– Trong trường hợp thư viện có kinh 
phí và thời gian, ta có thể tăng đồng 
đều số lượng các phân nhóm trong 
mẫu đại diện theo tỷ lệ 1:23, trong 
trường hợp này, để có 50 giảng viên 
trong mẫu đại diện ta cần có thêm 
1169 sinh viên, và như vậy, thay vì 
tiến hành điều tra mẫu đại diện 
n=390, ta phải điều tra trên 
n’=1169+50 = 1219. 
2. Thiết kế bảng câu hỏi 
Việc thiết kế bảng câu hỏi đòi hỏi 
một quá trình suy nghĩ thận trọng. Bảng 
câu hỏi nên có cấu trúc logic, ngắn gọn, 
súc tích và đơn giản, một bảng câu hỏi 
dài sẽ làm người đọc cảm thấy mệt mỏi 
và không muốn trả lời ngay từ lúc đầu. 
Mở đầu nên viết một đoạn giới thiệu về 
mục đích của việc điều tra và các hướng 
dẫn chung. Các câu hỏi nên được sắp 
xếp theo trật tự từ dễ đến khó trả lời. 
Thường chúng ta sử dụng ba loại câu 
hỏi: Câu hỏi cho phép người trả lời có 
thể có nhiều chọn lựa, câu hỏi đóng/mở 
và câu hỏi mà người trả lời phải viết ý 
kiến riêng của mình. 
Khi câu hỏi đòi hỏi người trả lời phải 
chọn lựa những trả lời có gợi ý trước từ 
danh mục có sẵn, bạn nên thêm vào một 
chọn lựa “không biết” hay”không thích 
hợp”hay“ ý kiến khác”vv. Đây không 
phải là những câu trả lời được chúng ta 
quan tâm nhiều trong khi phân tích số 
liệu, nhưng là những lựa chọn cần thiết 
để tránh làm mất lòng người trả lời. Đôi 
khi “ không biết” hay “ không thích hợp” 
phản ánh trung thực ý kiến của họ. 
Khi đặt câu hỏi, tránh dùng những từ 
chỉ cảm xúc, định hướng trả lời, điều này 
dễ dẫn đến những câu trả lời phiến diện. 
Các câu hỏi cần mạch lạc, rõ ràng. 
– Ví dụ: Bạn có đến thư viện đọc sách 
thường xuyên không? Thế nào là 
thường xuyên? Chúng ta nên cụ thể 
hoá chữ “thường xuyên” bằng những 
con số cụ thể như “nhiều hơn 1 lần 
một tuần, “ít hơn 1 lần 1 tuần”, “1 
tháng 1 lần”, vv. 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 10/2004 
20 
– Hoặc câu hỏi: “Bạn có thích sử dụng 
dịch vụ SDI của thư viện trong tương 
lai không?” Câu này cũng thường 
dẫn mọi người đến câu trả lời “Có”, 
trong khi có thể thực tế người trả lời 
có thể còn chưa hiểu rõ SDI là gi? 
Nên thêm chọn lựa “không biết” vào 
và như thế chúng ta sẽ thu được 
những kết quả trung thực hơn. 
Tùy vào mục đích điều tra nhu cầu tin 
đôi khi ta phải đặt những câu hỏi mang 
tính cân lượng/ đo đếm. 
Ví dụ: Muốn tìm hiểu khuynh hướng 
của bạn đọc sử dụng tài liệu nghe nhìn và 
mức độ xử dụng thường xuyên của các 
dạng tài liệu có trong thư viện, ta có thể 
đặt câu hỏi như sau: 
Trong số các dạng tài liệu có trong 
thư viện, bạn thường tham khảo các 
dạng tài liệu nào, hãy chọn và cho điểm 
từ 1 đến 5 cho mỗi loại tài liệu, với 1 là 
điểm thấp nhất và 5 là điểm cao nhất 
Dạng tài liệu 
1 2 3 4 5 
Sách 
Báo/tạp chí 
Tài liệu nghe nhìn 
CDs 
Videos 
Các tài liệu khác ( hãy ghi chi 
tiết) 
Số liệu thống kê phân tích thu được 
qua câu trả lời này sẽ cho ta một cái nhìn 
tổng quát về mối tương quan giữa việc 
sử dụng các dạng tài liệu trong thư viện. 
Một ví dụ khác là ta muốn tìm hiểu 
mức độ hài lòng của các nhóm bạn đọc 
về các loại tạp chí có trong thư viện, ta 
có thể yêu cầu bạn đọc điền thông tin vào 
bảng sau: 
Mức độ hài lòng của bạn đọc về nguồn 
báo, tạp chí của thư viện: 
Rất hài 
lòng 
Hài lòng Chấp 
nhận 
được 
Không 
hài lòng 
Rất không 
hài lòng 
Sinh viên đại học 
Nghiên cứu sinh sau đại học 
Giảng viên 
vv. 
3. Phân phối bảng câu hỏi 
Một điều quan trọng là trước khi gửi 
bảng câu hỏi điều tra chúng ta phải làm 
test trên một nhóm nhỏ đối tượng bạn 
đọc để thử lại những câu hỏi. Nếu có câu 
hỏi nào còn chưa rõ với bạn đọc hoặc 
gây hiểu nhầm thì ta phải sửa đổi lại. 
Việc kiểm tra trước như vậy giúp chúng 
ta tránh được những rủi ro và tốn kém 
không đáng có trong quá trình thực hiện 
công việc. 
Hiện nay nhờ vào các phương tiện 
internet hiện đaị mà chúng ta có thể dễ 
dàng gửi bảng câu hỏi qua thư điện tử và 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 10/2004 
21 
gửi trực tiếp cho các thành viên trong 
mẫu đại diện qua cơ sở dữ liệu bạn đọc 
của thư viện. Tùy vào mục đích điều tra 
mà ta có thể áp dụng thêm các phương 
pháp khác như là phỏng vấn trực tiếp, 
phỏng vấn qua điện thoại, vv. Như đã đề 
cập ở trên, tùy vào mục đích nghiên cứu 
và thiết kế mẫu đại diện mà ta có thể 
phân phát bảng câu hỏi một cách ngẫu 
nhiên cho bạn đọc hay tiếp cận từng 
nhóm đối tượng. 
4. Chọn phần mềm để phân tích số 
liệu 
Đồng thời với quá trình thiết kế mẫu, 
bảng câu hỏi và việc thu thập những câu 
trả lời của bạn đọc, một điều quan trọng 
là chúng ta nên xem xét sử dụng phần 
mềm nào hiệu quả cho vấn đề xử l ý số 
liệu thống kê. Việc chọn lựa phần mềm 
chuyên dụng sẽ giúp giảm bớt thời gian 
xử l ý số liệu, tăng độ chính xác của các 
phân tích phức tạp và tiết kiệm chi phí 
không cần thiết. Có rất nhiều loại phần 
mềm xử l ý thống kê hiện nay, nhưng phổ 
biến là các phần mềm sau: 
– SPSS software: Phần mềm này dễ sử 
dụng, có dùng trong công việc giảng 
dạy của các trường kinh tế và thương 
mại ở Việt Nam, các bạn có thể tham 
khảo thêm ở trang web: 
s/survmkt_research/. 
– Survey class software: Được dùng tại 
một số công ty đa quốc gia chuyên về 
nghiên cứu thị trường ở Việt Nam, 
tuy nhiên phần mềm này giá thành 
đắt và phải liên hệ đăng k ý sử dụng 
với nhà cung cấp ở nước ngoài. 
Kết luận: 
Trên đây là những nét chính và cần 
lưu ý khi tiến hành nghiên cứu thống kê 
điều tra ở thư viện về khuynh hướng sử 
dụng thông tin của bạn đọc. Trong thực 
tế hoạt động của các thư viện, trung tâm 
thông tin hay trung tâm học liệu, ngoài 
nhu cầu hiểu biết về khuynh hướng sử 
dụng tin của người dùng, ta còn có thể áp 
dụng phương pháp nghiên cứu điều tra 
một cách rộng rãi hơn để tìm hiểu về 
mức độ hài lòng của bạn đọc đối với các 
dịch vụ khác của thư viện như các trang 
thiết bị, kho sách hay thái độ phục vụ 
bạn đọc của cán bộ thư viện, vv. Dù 
trong hoàn cảnh nào thì chúng ta cũng 
phải xác định rõ mục đích của việc 
nghiên cứu điều tra, đối tượng cần 
nghiên cứu, khả năng hiện có của thư 
viện về thời gian, tiền bạc và phương 
tiện, để từ đó, chúng ta xác định đúng 
mẫu đại diện, thiết kế mẫu, thiết kế nội 
dung câu hỏi và chọn lựa các phương 
pháp tiếp cận phù hợp, nhằm mục đích 
cuối cùng là góp phần xây dựng một hệ 
thống thư viện hiệu quả và vì bạn đọc. 
TÀI LIỆU THAM KHÀO 
1. Cooper, Donald R., Schindler and Pamela S. Business Research Methods. -7th ed. 
Mc Graw Hill, 2000. 
2. Malhotra, Naresh. Marketing Research and SPSS 11.0 package. - 4 ed. - Prentice 
Hall, 2003. 
3. Prof. Fumio Yamazaki and Thai Thanh Ha. Report on AIT Library User Survey. 
Asian Institute of Technology, May 2002. 

File đính kèm:

  • pdfap_dung_phuong_phap_dieu_tra_thong_ke_trong_viec_xac_dinh_nh.pdf