Yếu tố đa ngôn ngữ trong dạy/học thực hành tiếng Pháp đối với sinh viên đầu vào khối D1

Ngày nay, với sự hội nhập quốc tế sâu rộng

và xu hướng toàn cầu hóa trên nhiều phương

diện, trải qua nhiều thập niên tiến triển, khái

niệm «đa ngôn ngữ» (plurilinguisme), ngày

càng được chú trọng và trở thành lĩnh vực

nghiên cứu tiềm năng được các nhà khoa học

quan tâm. Ở Việt Nam và các nước trong khu

vực, nhiều hội nghị, hội thảo về chủ đề «Đa

ngôn ngữ» đã được tổ chức, như: «Hội thảo

cấp Vùng Châu Á Thái Bình Dương về giảng

dạy đa ngôn ngữ» tại Hà Nội, tháng 04/2012;

«Hội thảo cấp Vùng Châu Á TBD về Giảng

dạy tiếng Pháp trong bối cảnh đa ngôn ngữ»

tại Vientiane – Lào, tháng 12/2013.

Trong bối cảnh đầu vào tiếng Pháp ngày

càng thu hẹp do nhu cầu khách quan của xã

hội, việc mở rộng đối tượng tuyển sinh cho

các khoa tiếng Pháp trên cả nước nói chung

và đặc biệt là ở Khoa tiếng Pháp của ĐHNN-

ĐHH nói riêng là một hướng đi đúng đắn

nhằm thu hút đầu vào, tạo cơ hội việc làm và

đối tượng mới, phục vụ công tác giảng dạy và

nghiên cứu khoa họ

pdf 6 trang kimcuc 3800
Bạn đang xem tài liệu "Yếu tố đa ngôn ngữ trong dạy/học thực hành tiếng Pháp đối với sinh viên đầu vào khối D1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Yếu tố đa ngôn ngữ trong dạy/học thực hành tiếng Pháp đối với sinh viên đầu vào khối D1

Yếu tố đa ngôn ngữ trong dạy/học thực hành tiếng Pháp đối với sinh viên đầu vào khối D1
153
Yếu tố đa ngôn ngữ . . .
YẾU TỐ ĐA NGÔN NGỮ TRONG DẠY/HỌC THỰC HÀNH 
TIẾNG PHÁP ĐỐI VỚI SINH VIÊN ĐẦU VÀO KHỐI D.1
 Phan Thị Kim Liên*
TÓM TẮT
Bài báo đề cập yếu tố đa ngôn ngữ: phân biệt rõ các khái niệm liên quan, đặc biệt là cặp 
khái niệm Plurilinguisme/Multilinguisme và chia sẻ một vài kinh nghiệm trong quá trình vận dụng 
chúng vào thực tế dạy/học Thực Hành Tiếng Pháp với đối tượng đầu vào Khối D1.
Từ Khóa: đa ngôn ngữ, thực hành tiếng Pháp, đầu vào, khối D.1
MULTILINGUALMANUAL FACTORS IN TEACHING / LEARNING 
FRENCH PRACTICES FOR STUDENT INPUT BLOCK D.1
ABSTRACT
The article mentions multilingual factors, distinguishes relevant concepts, especially 
between Plurilinguisme and Multilinguisme and share some experience in applying them into the 
reality of teaching and learning French Practice for entrance students of group D1.
* ThS. Giảng viên Khoa Tiếng Pháp (NCS tại ĐH Rouen- Cộng Hoà Pháp). 
ĐT: 0905511469. Email: kimlienson@gmail.com
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, với sự hội nhập quốc tế sâu rộng 
và xu hướng toàn cầu hóa trên nhiều phương 
diện, trải qua nhiều thập niên tiến triển, khái 
niệm «đa ngôn ngữ» (plurilinguisme), ngày 
càng được chú trọng và trở thành lĩnh vực 
nghiên cứu tiềm năng được các nhà khoa học 
quan tâm. Ở Việt Nam và các nước trong khu 
vực, nhiều hội nghị, hội thảo về chủ đề «Đa 
ngôn ngữ» đã được tổ chức, như: «Hội thảo 
cấp Vùng Châu Á Thái Bình Dương về giảng 
dạy đa ngôn ngữ» tại Hà Nội, tháng 04/2012; 
«Hội thảo cấp Vùng Châu Á TBD về Giảng 
dạy tiếng Pháp trong bối cảnh đa ngôn ngữ» 
tại Vientiane – Lào, tháng 12/2013. 
Trong bối cảnh đầu vào tiếng Pháp ngày 
càng thu hẹp do nhu cầu khách quan của xã 
hội, việc mở rộng đối tượng tuyển sinh cho 
các khoa tiếng Pháp trên cả nước nói chung 
và đặc biệt là ở Khoa tiếng Pháp của ĐHNN- 
ĐHH nói riêng là một hướng đi đúng đắn 
nhằm thu hút đầu vào, tạo cơ hội việc làm và 
đối tượng mới, phục vụ công tác giảng dạy và 
nghiên cứu khoa học. 
Lâu nay, chúng ta thường nói đến vai trò 
của tiếng mẹ đẻ trong việc dạy/học ngoại 
ngữ (ở đây chỉ xin đề cập việc dạy/học tiếng 
Pháp). Trong quá trình đó, cả người dạy lẫn 
người học đều dựa trên những kinh nghiệm 
có được về mặt cấu trúc ngữ pháp, từ vựng, 
ngữ nghĩa, của ngôn ngữ mẹ đẻ (langue 
maternelle ou langue d’origine/langue source) 
để giải thích cú pháp câu, cấu trúc từ vựng, 
ngữ pháp, v.v..., kể cả các tình huống giao tiếp 
thực trong đời sống hàng ngày cũng có thể 
được đưa ra quy chiếu, so sánh trong quá trình 
dạy/học Thực Hành Tiếng.
154
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Với đối tượng không còn là truyền thống, 
dường như việc dạy/học Thực Hành Tiếng 
đặt ra nhiều vấn đề và thu hút sự quan tâm 
của nhiều thầy cô giáo hơn (có nhiều đề tài 
nghiên cứu tập trung vào đối tượng này), bởi 
lẽ ít nhiều đối tượng này đã hình thành cơ bản 
một số kinh nghiệm hay kỹ năng nhất định 
trong việc tiếp xúc với một nền văn hóa nước 
ngoài thông qua việc học tập và lĩnh hội kiến 
thức ngôn ngữ của nước đó (mặc dù khả năng 
nghe-nói hạn chế do đặc thù nội dung chương 
trình giảng dạy và đánh giá ở phổ thông thiên 
về đọc-viết). Vậy, vấn đề ở đây không còn là 
sự giới hạn giữa hai ngôn ngữ (bilinguisme) 
mà nhiều hơn thế: Khái niệm đa ngôn ngữ 
(plurilinguisme) vì thế được hình thành. Điều 
này sẽ là lợi thế nếu như người dạy am hiểu 
được ngôn ngữ nước ngoài đã hình thành ở 
người học, nhưng cũng trở thành khó khăn 
nếu như người dạy không có vốn kiến thức 
ngôn ngữ đó. Vì thế việc sử dụng ngôn ngữ 
gốc trong thực tế giảng dạy có thế bị lạm dụng 
cả ở người dạy và người học. 
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin 
giới thiệu một số thuật ngữ để có thể phân 
biệt sự khác nhau giữa chúng, tìm hiểu yếu tố 
đa ngôn ngữ và việc khai thác nó trong giảng 
dạy Ngoại Ngữ nói chung và đặc biệt là giảng 
dạy Thực Hành Tiếng Pháp đối với đối tượng 
đầu vào D1. 
 2. NỘI DUNG 
2.1. Một số thuật ngữ, khái niệm 
- Đơn ngữ 1(monolinguisme hay 
unilinguisme): thuật ngữ mô tả việc sử dụng 
duy nhất một thứ tiếng, hoặc của một cá 
nhân, hoặc của một nhà nước hay cộng đồng 
nói chung.
- Song ngữ 2(bilinguisme): Theo từ điển 
[1] 
[2] 
Petit Larousse, 1990 : Song ngữ là sự thực 
hành hai ngôn ngữ bởi một cá nhân hay một 
tập thể nào đó. 
Trang từ điển Wikipédia3, 2014, có định 
nghĩa như sau: Song ngữ là tình huống xã 
hội trong đó hai ngôn ngữ được sử dụng. Đối 
với một cá nhân, đó chính là việc nói hai thứ 
tiếng, làm chủ được hai ngôn ngữ. 
- Đa ngôn ngữ (plurilinguisme): 
Nếu như trong những thập niên trước, 
khái niệm đa ngôn ngữ (plurilinguisme) hầu 
như vẫn còn rất mơ hồ, từ điển Petit Larousse, 
1990, chỉ ghi đơn giản thế này : «Plurilingue 
(adj.): Multilingue»; thì ngày nay trên trang 
từ điển Wikipédia, thuật ngữ này được định 
nghĩa như sau: 
«Đa ngôn ngữ là tình trạng của một cá 
nhân hay một cộng đồng sử dụng cùng lúc 
hay sử dụng phối hợp nhiều ngôn ngữ tùy 
thuộc vào loại hình giao tiếp và tình huống 
phát sinh từ loại hình giao tiếp ấy». 4 
- Nhiều ngôn ngữ5 (multilinguisme): một 
cộng đồng hay một cá nhân có khả năng giao 
tiếp bằng nhiều thứ tiếng. 
Những khái niệm trên đây giúp chúng ta 
hiểu rõ ranh giới giữa đơn ngữ, song ngữ, đa 
ngôn ngữ và nhiều ngôn ngữ. Dù bản chất có 
khác nhau nhưng chúng ta đều nhận ra điểm 
chung đó là sự tồn tại của chúng không tách 
rời môi trường xã hội, môi trường giao tiếp 
(situation sociale et situation communicative).
- «Plurilinguisme» hay « multilinguisme» ?
Những năm gần đây, khái niệm đa ngôn ngữ 
có tầm quan trọng trong phương pháp tiếp cận 
việc học ngôn ngữ theo Khung quy chiếu Ngôn 
ngữ của Hội đồng Châu Âu. Không như định 
nghĩa về «multilinguisme» trên trang từ điển 
Wikipédia, họ phân biệt 2 thuật ngữ này như sau: 
[3] 
[4] 
[5] 
155
Yếu tố đa ngôn ngữ . . .
Thuật ngữ «Multilinguisme» chỉ sự hiểu 
biết một số ngôn ngữ hay sự cùng tồn tại nhiều 
ngôn ngữ khác nhau trong một xã hội nào đó. 
Trong nhà trường hay trong một hệ thống giáo 
dục, «nhiều ngôn ngữ» có nghĩa là đa dạng 
hóa việc dạy nhiều thứ tiếng, khuyến khích 
học sinh học nhiều hơn một ngoại ngữ hoặc 
hạn chế vị trí độc tôn của tiếng Anh trong giao 
tiếp quốc tế. Ngược lại, phương pháp tiếp cận 
đa ngôn ngữ (approche plurilingue) nhấn 
mạnh ở chỗ: vốn kinh nghiệm ngôn ngữ của 
một cá nhân trong môi trường văn hóa của cá 
nhân ấy được trải rộng từ ngôn ngữ gia đình 
đến ngôn ngữ cộng đồng xã hội mà cá nhân 
ấy thuộc về, sau đó mới đến ngôn ngữ của 
những cộng đồng khác. Cá nhân ấy không sắp 
xếp các ngôn ngữ và các nền văn hóa đó vào 
các ngăn riêng biệt mà xây dựng chúng thành 
một kỹ năng giao tiếp mà bất cứ sự hiểu biết 
và kinh nghiệm nào đều có thể góp phần vào, 
trong đó, các ngôn ngữ tương hỗ và tương tác 
lẫn nhau. Trong nhiều tình huống khác nhau, 
bằng sự linh hoạt uyển chuyển, người nói có 
thể trông cậy vào nhiều bộ phận tích lũy khác 
nhau trong kỹ năng này để giao tiếp với người 
đối thoại một cách hiệu quả. Các đối tác có 
thể chuyển từ một ngôn ngữ hay một thổ ngữ 
này sang một ngôn ngữ khác. Mỗi người khai 
thác khả năng ngôn ngữ này hay ngôn ngữ kia 
để diễn đạt và hiểu người kia. 6
Vụ Chính sách Ngôn ngữ của Hội 
đồng Châu Âu cho rằng: thuật ngữ 
«multilinguisme» đề cập đến sự hiện diện của 
nhiều ngôn ngữ khác nhau (hình thức giao 
tiếp nói) trong một khu vực địa lý (lớn hay 
nhỏ); còn «plurilinguisme» nói đến vốn kiến 
thức về nhiều thứ tiếng đã lĩnh hội được trước 
đó, kể cả tiếng mẹ đẻ mà người nói có thể sử 
dụng trong giao tiếp ở bất kỳ trình độ nào, 
[6] 
tình huống nào (nhà trường, xã hội). Vốn kiến 
thức và kinh nghiệm ấy được tích lũy và hình 
thành nên kỹ năng giao tiếp đa ngôn ngữ/đa 
văn hóa. 
2.2. Kỹ năng đa ngôn ngữ trong dạy/
học Thực Hành Tiếng Pháp
 Theo các nhà ngôn ngữ, khi đề cập 
đến «kỹ năng đa ngôn ngữ» cũng đồng thời 
với «kỹ năng đa văn hóa» bởi hai yếu tố 
ngôn ngữ và văn hóa luôn song hành trong 
mối tương quan chặt chẽ. Họ cho rằng: «kỹ 
năng đa ngôn ngữ và đa văn hóa là kỹ năng 
giao tiếp bằng ngôn ngữ và kỹ năng tương tác 
về mặt văn hóa có được bởi một tác nhân làm 
chủ được nhiều ngôn ngữ và có trải nghiệm 
nhiều nền văn hóa khác nhau ở nhiều cấp độ 
khác nhau, đồng thời quản lý được toàn bộ vốn 
ngôn ngữ và văn hóa của mình». 7 (D. COSTE, 
D. MOORE, G. ZARATE)
Như vậy, theo các tác giả trên, kỹ năng đa 
ngôn ngữ và văn hóa được mô tả như là vốn 
sống, kinh nghiệm có được của một cá nhân 
được phát triển tùy thuộc vào mỗi giai đoạn 
cuộc đời, bối cảnh xã hội và tiểu sử của họ, 
đó là sản phẩm lịch sử được hình thành từ bối 
cảnh xã hội vì thế nó mang tính riêng biệt và 
độc đáo của mỗi cá nhân.
Theo một nghiên cứu mới đây về « Đóng 
góp của đa ngôn ngữ trong sự sáng tạo »8, việc 
học nhiều hơn một thứ tiếng mang lại nhiều 
lợi ích: - Tăng khả năng giao tiếp ; - Tăng khả 
năng ghi nhớ hay duy trì sự linh hoạt của bộ 
não; - Tăng khả năng giải quyết vấn đề hay xử 
lý tình huống, 
Sự hình thành kỹ năng đa ngôn ngữ đòi 
hỏi cả quá trình dài từ bậc tiểu học đến trung 
học phổ thông. Các nhà ngôn ngữ trên thế giới 
cho rằng : độ tuổi lý tưởng để dạy ngoại ngữ 
[7] 
[8] 
156
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
cho trẻ em là từ 1 đến 8, bởi ở độ tuổi này sự 
tiếp thu một ngoại ngữ đơn giản và tự nhiên, 
tạo hứng thú và dễ dàng hơn cho việc phát 
triển tư duy ngôn ngữ về sau. 
Ở Việt Nam, chính sách dạy ngoại ngữ 
(ưu tiên tiếng Anh) từ bậc trung học cơ sở tuy 
có muộn hơn so với các nước phát triển nhưng 
ít nhiều cũng hình thành ở học sinh những khả 
năng kể trên, nhất là đối với những học sinh 
yêu thích môn tiếng Anh và có sự đầu tư cho 
môn học này. 
Sự tiếp nhận sinh viên đầu vào D1 đã được 
trang bị các kỹ năng ngoại ngữ tiếng Anh có 
những khó khăn nhất định do giới hạn về thời 
gian dành cho các kỹ năng Thực Hành Tiếng 
chỉ gói gọn trong 5 học kỳ, mà sự tích lũy 
vốn kiến thức ngôn ngữ cần có lộ trình và thời 
gian để «thẩm thấu». Tuy nhiên, qua nhiều 
năm kinh nghiệm giảng dạy cho đối tượng 
này, thực tế cho thấy ở họ, việc tiếp thu và xử 
lý tình huống trong giao tiếp phong phú, linh 
hoạt và đa dạng hơn so với những sinh viên 
đầu vào tiếng Pháp. Giáo viên dạy đối tượng 
này cũng có nhiều hứng thú hơn. 
Trên thực tế, giảng viên đứng lớp thường 
được trang bị vốn tiếng Anh tối thiểu. Vì vậy, 
việc sử dụng vốn kiến thức tiếng Anh làm 
ngôn ngữ nguồn (langue source) buộc người 
học phải tư duy bằng tiếng nước ngoài là hoàn 
toàn khả thi thay vì lạm dụng tiếng mẹ đẻ để 
giải thích khi đối tượng mới bắt đầu học tiếng 
Pháp. Mặt khác, tiếng Anh và tiếng Pháp là 
hai ngôn ngữ có nguồn gốc từ tiếng Latinh 
nên có nhiều điểm tương đồng cả về cấu trúc 
cú pháp lẫn từ vựng, ngữ nghĩa.
Một khi ở họ đã tích lũy được một số kỹ 
năng giao tiếp và vốn ngôn ngữ nhất định 
bằng tiếng Anh, người dạy có thể sử dụng nó 
trong dạy/học các kỹ năng Thực Hành Tiếng 
Pháp để đẩy nhanh sự tiếp thu, lối tư duy bằng 
tiếng nước ngoài và sự tiến bộ của người học.
Trong giảng dạy các kỹ năng Thực Hành 
Tiếng, đặc biệt là những bài đầu tiên khi đối 
tượng mới làm quen với tiếng Pháp, một số 
điểm tương đồng và khác biệt về mặt cấu trúc 
câu, từ,  giữa tiếng Anh và tiếng Pháp có 
thể được đưa ra so sánh giúp sinh viên hiểu 
nhanh hơn.
Dưới đây là một vài ví dụ minh họa được 
vận dụng trong quá trình giảng dạy cho sinh 
viên năm thứ nhất.
Ví 
dụ
Ngôn ngữ đích Ngôn ngữ nguồn
1 - Votre nom et votre prénom, s’il vous plaît. 
- 
(Xem trang 11, mục 4, Tout va bien 1)
- Your name and your surname, please.
(Vui lòng cho biết tên và họ của anh/chị.
Xin anh/chị cho biết họ và tên.
Xin vui lòng cho biết họ của anh/chị và 
tên gọi của anh/chị.)
2 - Bonjour madame, vous allez bien ?
- Salut Thomas, ça va ?
- Bonsoir, ça va ?
(Xem trang 10, mục 2, Tout va bien 1)
- Hello madam,  ? (Chào bà/cô, ?)
- Hi Thomas,  ? (Chào Thomas)
- Good evening,  ? (Xin chào)
3 - Ecoutez-moi !
- Qu’est-ce que ça veut dire ?
(Xem trang 13, mục 12, Tout va bien 1)
- Listen to me! (Hãy lắng nghe tôi!)
- What does it mean? (Từ này/cái này/điều 
này có nghĩa là gì?
157
Yếu tố đa ngôn ngữ . . .
4 - Lundi, mardi, mercredi, jeudi, vendredi, 
samedi, dimanche
- Janvier, février, mars, avril, mai, juin, 
jullet, août, septembre, octobre, novembre, 
décembre (activité complémentaire)
(Xem trang 13, mục 12, Tout va bien 1)
- Monday, tuesday, wednesday, thusday, 
friday, saturday, sunday 
- January, february, march, april, may, 
june, july, august, september, november, 
december
5 - Je vais à l’école. 
(Xem trang 24, mục 2, Tout va bien 1)
- I go to school. (Tôi đi học.)
 - Ecoutez-moi! = « Listen to me! »
Khi dạy về phần từ vựng với chủ đề ngày 
tháng như trong ví dụ 4, để giúp người học dễ 
nhớ, dễ phân biệt, giáo viên lưu ý phân biệt các 
tiền tố và hậu tố của từ có nét tương đồng hay 
tương phản. Chẳng hạn : các tháng có hậu tố 
trong tiếng anh là « -er » (october, november, 
december) thì trong tiếng Pháp ngược lại 
« -re » (octobre, novembre, décembre) ; hay 
nhớ các tiền tố hoặc chữ cái đầu của các tháng 
cũng giúp dễ thuộc hơn bởi lượng từ vựng 
tiếng Anh của họ đã được hình thành, có thể 
bật nhanh khi giao tiếp.
Một khía cạnh khác nữa trong ví dụ 5 liên 
quan đến ngữ âm, ngữ điệu. Điểm khác biệt 
giữa tiếng Pháp (trọng âm rơi vào âm tiết cuối 
của nhóm từ có nghĩa hoặc của một câu) và 
tiếng Anh, tiếng Việt (trọng âm rơi vào từng 
âm tiết của từ trong câu) cần được lưu ý ngay 
từ những bài đầu tiên. 
3. KẾT LUẬN
Trong thực tế giảng dạy, sự tiến bộ theo 
thời gian cho phép người dạy và người học có 
thể diễn giải và tiếp thu hoàn toàn bằng ngôn 
ngữ đích. Sự can thiệp của yếu tố đa ngôn 
ngữ chỉ đóng vai trò quan trọng ở giai đoạn 
đầu khi vốn tiếng Pháp ở người học chưa có 
hoặc trong suốt quá trình dạy/học khi thấy cần 
thiết, nhằm tránh sự lạm dụng và lối tư duy 
bằng tiếng mẹ đẻ.
Trên đây là một vài kinh nghiệm có được 
qua quá trình tiếp xúc và giảng dạy đối tượng 
Quan sát ví dụ 1, việc giải thích bằng 
tiếng mẹ đẻ (langue maternelle) khá phức tạp 
bởi người học có thể hiểu ngay nhưng với 
lối tư duy tiếng Việt đôi khi khiến người dạy 
và người học dễ sa đà vào nhiều cách diễn 
giải khác nhau, khiến mục tiêu giao tiếp bị 
chậm lại. Ngược lại nếu đưa câu tương đương 
bằng tiếng Anh vào, người học liên tưởng rất 
nhanh, không cần diễn giải dài dòng bằng 
tiếng mẹ đẻ.
Ví dụ 2 cho thấy các tình huống chào hỏi 
với nhiều cấp độ xưng hô khác nhau và quan 
hệ giữa những người đối thoại cũng khác nhau. 
Có thể đưa những từ đồng nghĩa như sau:
- Bonjour = “Hello” 
- Salut = “Hi” 
- Bonsoir = “Good evening”
Người Việt Nam khi gặp nhau: “Xin chào”, 
“Chào ông/bà/cô/bác/anh/chị/em”. Người 
Pháp gặp nhau vào ban ngày: “Bonjour” khác 
với khi gặp nhau vào buổi tối: “Bonsoir”, với 
những người thân quen: “Salut”. Với sự phận 
biệt này, cách nhanh nhất là dùng tiếng Anh 
để giúp người học hiểu nhanh mà không mất 
nhiều thời gian; đồng thời giúp họ tư duy so 
sánh và nhớ lâu hơn. 
Trong ví dụ 3, để tránh sự nhầm lẫn về 
sau giữa động từ “écouter”/ “entendre”, có thể 
đưa cặp từ tương đương “listen”/ “hear” để 
giải thích, người học dễ nắm bắt hơn khi giải 
thích bằng tiếng Việt.
158
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
sinh viên đầu vào D1. Khi bắt đầu học tiếng 
Pháp, đối tượng này không còn là song ngữ 
(bilingue) mà là đa ngôn ngữ (plurilingue). 
Hiểu được bản chất đặc thù của đối tượng 
giảng dạy là điều kiện tiên quyết giúp người 
dạy có được phương pháp và kỹ năng sư 
phạm tốt, bồi dưỡng và tích lũy kỹ năng đa 
ngôn ngữ để giảng dạy thành công. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. COSTE Daniel et al., «Compétence plurilingue et compétence culturelle» - Vers un Cadre Européen 
Commun de référence pour l’enseignement et l’apprentissage des langues vivantes: études préparatoires, 
Division des Politiques linguistiques, Strasbourg, 2009.
2. Pages web.
[1] .
[2].  
[3]. 
[4]. 
[5]. 
[6]. 
[7]. www.coe.int/lang/fr 
[8].
to_creativity/final_report_fr.pdf 

File đính kèm:

  • pdfyeu_to_da_ngon_ngu_trong_dayhoc_thuc_hanh_tieng_phap_doi_voi.pdf